I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Trang thông tin chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam có các bài:
- Quyết không xuất khẩu thô khoáng sản. Bài báo đưa tin: Trong phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 diễn ra từ ngày 3-5/11, TT Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, việc khai thác khoáng sản cần khẳng định rõ quan điểm hướng vào chế biến, dứt khoát không xuất khẩu thô.
Trong phiên họp này, Chính phủ đã nghe báo cáo, thảo luận về việc quản lý hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản và dự thảo Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và dự thảo Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-TW ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Phát biểu tại phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh phải tính đến hiệu quả xã hội, tính đến tác động môi trường về trước mắt và lâu dài… cân nhắc, tính toán kỹ xem mỗi dự án khai thác khoáng sản nhà nước được gì, người dân được gì. Với tinh thần đó, Thủ tướng yêu cầu trong Chiến lược và Chương trình hành động cần hết sức lưu ý tới các nội dung liên quan đến xây dựng quy hoạch, điều tra cơ bản về trữ lượng khoáng sản, rà soát bổ sung quy hoạch trong thăm dò, khai thác, chế biến, vấn đề phân cấp trong cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản, quy trình cấp phép…
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng yêu cầu các bộ, ngành chức năng tiến hành kiểm tra, rà soát lại các dự án khai thác khoáng sản đã cấp phép, hoặc đang khai thác, dự án nào không đảm bảo các yêu cầu đặt ra, gây bức xúc cho người dân, không đúng quy hoạch… phải dừng lại ngay. Các dự án cấp phép mới phải thực hiện theo quy trình xét duyệt hết sức chặt chẽ, phải nằm trong quy hoạch, phải có dự án khả thi... Đồng thời, việc rà soát lại thuế xuất khẩu tài nguyên cho phù hợp, kiểm soát tối việc xuất khẩu khoáng sản cần xem xét. Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề nghị các bộ, ngành chức năng tiếp tục nghiên cứu ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành các văn bản pháp lý để thực hiện tốt Luật Khoáng sản. Thủ tướng còn cho ý kiến chỉ đạo cụ thể đối với hoạt động khai thác một số khoáng sản như than, sắt, titan, chì, kẽm, mangan, đồng, vàng, đất hiếm… trong đó có việc chỉ đạo việc không xuất khẩu hoặc ngừng xuất khẩu đối với một số khoáng sản cụ thể.
- Bán doanh nghiệp nhà nước? Bài báo đưa tin: Tại Hội thảo “Triển vọng kinh tế thế giới và chính sách ứng phó của Việt Nam” được tổ chức mới đây tại Hà Nội, vấn đề tái cấu trúc như thế nào nhận được nhiều tranh luận sôi nổi của các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế hàng đầu trong và ngoài nước.
Trong cuộc thảo luận, Tiến sĩ Trần Xuân Giá, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu đã đưa ra ý kiến về việc kiên quyết bán các doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư công mà Nhà nước không cần nắm đã ngay lập tức hâm nóng hội trường. Ông cho rằng, Nhà nước nên bán đứt, thậm chí bán lỗ các công trình, dự án đang dở dang để lấy tiền làm việc cần thiết.
"Bán" là ý kiến nhận được sự nhất trí cao độ. Nhiều dự án đầu tư công dù không hiệu quả, dù chưa huy động được đủ nguồn vốn, nhưng vẫn được các doanh nghiệp nhà nước, các địa phương triển khai để “giữ chỗ” là nguyên nhân khiến rất nhiều dự án đang dở dang, đắp chiếu nằm chờ vốn.
Bán hay cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được xác định là chủ trương chiến lược nhưng thực hiện còn chậm chạp. Nguyên nhân chính ở đây là sợ thua thiệt khi bán tài sản Nhà nước.
Trang VEF.VN có bài Giảm thuế 30%, DN vẫn than trời! Bài báo phản ánh: Cuối tuần qua, Nghị định quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 08/2011/QH13 của Quốc hội, ban hành bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN và cá nhân đã được ban hành. Theo đó, DN nhỏ và vừa, DN sử dụng nhiều lao động được giảm 30% số thuế thu nhập DN năm 2011.
Đón nhận thông tin này, các DN cho rằng chính sách này vẫn chưa đủ mạnh để giúp họ vượt qua khó khăn. Một số chuyên gia kinh tế cũng cho rằng biện pháp này đưa ra không những khá chậm mà còn không đủ mạnh để giúp DN vượt qua khó khăn. Theo tiến sỹ Nguyễn Nam, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển kinh doanh Hiệp hội Công thương Hà Nội, thì trong số 600.000 DN đăng ký kinh doanh có tới 97% là DN nhỏ và vừa. Lạm phát tăng cao trong 1 năm qua đã khiến không ít DN đuối sức, ước tính có đến 50% số DN nhỏ và vừa đang gặp khó khăn.
Không ít DN cho biết họ mong muốn có những biện pháp trợ giúp mạnh hơn chẳng hạn như miễn, giảm chi phí thuê mặt bằng kinh doanh.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Trang Tamnhin.net có bài Đâu là “điểm nghẽn” trong giám định tư pháp? Bài báo phản ánh: Qua thảo luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội (TVQH) và Quốc hội cho thấy hầu hết ý kiến tán thành cho phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp (GĐTP) ngoài công lập (nên gọi là Trung tâm sẽ sát thực bản chất giám định hơn). Tuy nhiên, vẫn còn có sự e ngại về quản lý hoạt động của các văn phòng này – cần cho phép thí điểm thành lập một số văn phòng, có lộ trình phù hợp, sau đó có tổng kết rồi mới cho mở rộng tiếp tục. Đó là sự cẩn thận không thừa. Bài học về việc các Văn phòng công chứng, Đại học dân được lập ra ồ ạt cho chúng ta những bài học thực tế cần thiết.
Ủy ban Quốc phòng An ninh của Quốc hội đề nghị cần xác định “điểm nghẽn” trong giám định tư pháp. Do vậy, chúng tôi mạnh dạn bàn đến một số “điểm nghẽn” có thể có và cần phải được nhanh chóng khắc phục. Nếu không như vậy thì mục tiêu xây dựng “tổ chức giám định kỹ thuật hình sự (KTHS) ở trung ương đạt tiêu chuẩn thế giới vào năm 2020” của Đề án Chính phủ số 258/QĐ-TTg, ngày 11/02/2010 về “ Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp”, sẽ là một mục tiêu xa vời. Các “điểm nghẽn” là:
1. Trình độ, năng lực, kinh nghiệm thực tế về chuyên môn của không ít giám định viên (GĐV) KTHS và GĐV pháp y yếu và thiếu (Bài học từ vụ Thị Vân giết hơn 10 người ở Đồng Nai chậm bị phát hiện, vụ Vườn điều Bình Thuận kéo dài nhiều năm, vụ trả xác nhầm người nước ngoài khi máy bay rơi ở Khánh Hòa, vụ “Làng cháy Quảng Nam”, vụ “Ngôi nhà ma ám”… là một số dẫn chứng cụ thể).
2. Sự phấn đấu, tự học hỏi, tự nghiên cứu của GĐV Pháp y và KTHS trẻ tuổi phần đông còn yếu (có phần chủ quan và khách quan).
3. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ sở GĐTP về khoa học hhifnh sự (KHHS) chưa nhạy bén và phản ứng kịp thời với các loại tôi phạm mới xuất hiện cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế và hội nhập quốc tế của nước ta, ví dụ tội phạm liên quan đến chứng cứ điện tử, các giấy tờ trong nước và quốc tế bị giả mạo (các chứng thư giả liên quan đến tuổi tài liệu…). Họ cũng chưa chỉ đạo sít sao để phát huy được tiềm lực KHKT đã có, trong đó có việc khai thác có hiệu quả máy móc có giá hàng trăm tỷ đồng đã được Nhà nước trang bị.
4. Có lẽ lãnh đạo các cơ sở cũng chưa hội đủ các điều kiện để mở rộng quan hệ KHHS trong nước, khu vực và quốc tế tương xứng với vị thế của một nước lớn trong khu vực.
5. Lãnh đạo các cấp còn chưa chú ý đến sự chỉ đạo chiến lược trong công tác đào tạo GĐV (số đào tạo trên đại học ở nước ngoài của KHHS chỉ là con số quá khiêm tốn), chưa thấy hết tác dụng, vai trò cũng như sự ứng dụng của KHHS vào phòng chống tội phạm, do vậy cho đến nay trong KHHS về mặt chính thức hầu như chưa có các chuyên gia đầu ngành (có trình độ chuyên môn cao, có bài đăng trong tạp chí KHHS khu vực và quốc tế, có báo cáo tại hội nghị, hội thảo chuyên ngành, có khả năng trao đổi về học thuật, giao dịch quốc tế về KHHS, hoặc có thể tham gia vào các Tiểu ban KHHS trong khu vực …). Minh chứng là nước ta là một trong 4 nước đồng sáng lập ra Mạng lưới KHHS Châu Á, nhưng qua 3 Hội nghị của Mạng lưới (2009-2011) chúng ta có khó khăn trong việc cử cán bộ có đủ trình độ (chuyên môn và ngoại ngữ) để đi dự và chính thức cũng chưa có bài báo hoặc báo cáo khoa học nào được đăng trong tạp chí hoặc báo cáo tại Hội nghị.
6. Cơ chế tuyển dụng và đào tạo người có khả năng và chính sách đãi ngộ về tinh thần và vật chất cho chuyên gia đầu ngành chưa có, cho nên cho đến nay chưa tôn vinh được ai là đầu đàn của từng lĩnh vực.
Hiện nay, hàng chục GĐV tư pháp của Viện KHHS đã nghỉ hưu, trong một hai năm nữa số này sẽ tăng lên vài chục, do vậy nếu vốn kiến thức phong phú của họ không được sử dụng thì đây sẽ là sự lãng phí lớn cho đất nước.
Vì vậy, chúng tôi đề xuất một số các điều kiện cần và đủ mà Văn phòng GĐTP phải có trước khi được cấp phép:
1. Người đứng đầu các Văn phòng phải là giám định viên tư pháp, được Bộ Tư pháp cấp thẻ GĐV, có trình độ từ đại học trở lên, đã kinh qua công tác giám định tư pháp 15 năm (5 năm đầu là học nghề, 5 năm tiếp theo làm quen công việc, 5 năm cuối cũng chỉ là tích lũy kinh nghiệm thực tế ban đầu và cũng là thời gian để GĐV bù lại công đào tạo của Nhà nước và Cơ quan giám định).
2. Đã bảo vệ thành công kết quả giám định trong 3 phiên tòa.
3. Có khả năng nghe, nói, đọc và giao tiếp tiếng Anh hoặc một ngoại ngữ khác
4. Đã được đào tạo một khóa trong khoảng 1-2 năm về khoa học hình sự hoặc các Bộ luật liên quan đến giám định (Hình sự, dân sự và hành chính…).
5. Văn phòng GĐTP chỉ được làm giám định những việc mà Văn phòng có cán bộ chuyên môn về lĩnh vực đó (kể cả chính nhiệm, kiêm nhiệm và cộng tác viên).
6. Có trang thiết bị hoặc có liên kết với các cơ sở khoa học để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Với những quy định như vậy, tuy có khó khăn ban đầu, nhưng đó là cần thiết để tránh các sai lầm mà vừa rồi chúng ta đã gặp phải khi mở hàng trăm văn phòng Công chứng, Luật sư, Đại học dân lập. Khi đã có quy định thì sẽ không phải ái ngại về lĩnh vực giám định nào cho làm trước, lĩnh vực nào cho làm sau. Chả nhẽ có lĩnh vực GĐV công lập không làm được nhưng Văn phòng GĐTP ngoài công lập làm được mà lại không cho làm hoặc phải gửi ra nước ngoài để giám định?
Chúng ta làm chậm việc xã hội hóa GĐTP chính là chúng ta làm chậm lại sự phát triển của đất nước, vậy thì làm sao theo kịp các nước tiên tiến trong khu vực, chưa nói đến thế giới? Mặt khác, người dân không có cơ hội để tự bảo vệ mình như cuộc cải cách tư pháp đã đề ra.
Tại Anh, cái nôi của KHHS thế giới, hiện nay 40% công việc KHHS do tư nhân đảm nhiệm và đến tháng 3 năm 2012, toàn bộ công việc KHHS sẽ chuyển cho tư nhân đảm nhận. Trong tình hình đầu tư công của các nước càng tăng thì việc này liệu có hiệu quả hay không, kết quả thực tế sẽ là đáp số trong bài toán này.
Để giải quyết xung đột khi có những kết luận giám định khác nhau (thực tế chúng ta đã gặp nhiều), thì cấp có thẩm quyền sẽ ra quyết định thành lập Hội đồng khoa học và quyết định của hội đồng này là quyết định cuối cùng. Việc bỏ giám định pháp y trong lực lượng Công an thì lúc cần giám định hàng chục xác chết trên các bản rẻo cao như vụ Sơn La, vụ đi bộ hàng ngày ở Khánh Hòa để nhặt xác nạn nhân ngoại quốc bị tai nạn rơi máy bay hoặc khi xảy ra các thảm họa thiên nhiên thì liệu Pháy y y tế có kham nổi hay không?
2. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Cần bắt buộc công chứng với hợp đồng thuê nhà trên 6 tháng. Bài báo phản ánh: Thông tin Bộ Tư pháp đồng tình với đề xuất bỏ công chứng bắt buộc với ba loại hợp đồng thuê nhà từ sáu tháng trở lên, hợp đồng cho mượn, cho ở nhờ và hợp đồng ủy quyền quản lý nhà ở lại tiếp tục gây tranh luận. Việc một số tờ báo đưa tin Bộ Tư pháp đề xuất bỏ công chứng bắt buộc với ba loại hợp đồng trên bị bà Đỗ Hoàng Yến – Vụ trưởng Vụ Bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp không đồng tình vì đây không phải là đề xuất của Bộ Tư pháp, mà đây là nội dung được đề cập đến trong Nghị quyết 52 của Chính phủ liên quan đến việc rà soát thủ tục hành chính.
Trước thông tin này, công chứng viên Đào Anh Dũng – Trưởng VPCC Ba Đình cho rằng, nếu không bắt buộc công chứng với hợp đồng ủy quyền quản lý nhà ở, hợp đồng cho mượn, cho ở nhờ thì “cũng được”, nhưng cần giữ lại yêu cầu bắt buộc công chứng với hợp đồng thuê nhà trên sáu tháng. Theo ông Dũng, trong số ba loại hợp đồng trên, thì loại hợp đồng thuê nhà thường phát sinh nhiều tranh chấp hơn cả, có nhiều rủi ro pháp lý cho người cho thuê lẫn người thuê và nội dung tranh chấp cũng tương đối phức tạp.
Công chứng viên Trần Quốc Khánh, Trưởng VPCC Lạc Việt lại phản đối việc bỏ công chứng với cả ba loại hợp đồng trên. Ông Khánh phân tích, với riêng loại hợp đồng thuê nhà trên sáu tháng, nếu bỏ công chứng thì tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho cả hai bên tham gia giao dịch. Hiện, số lượng doanh nghiệp thành lập nhiều và hầu hết đều phải đi thuê trụ sở, nên nếu không có công chứng thì cả hai bên đi thuê và cho thuê đều có thể "gây khó" cho nhau.
Để bỏ quy định công chứng các hợp đồng nói trên thì cần sửa đổi đồng bộ Bộ luật Dân sự, Luật Nhà ở và Luật Đất đai. Ngoài ra, Tòa án cũng sẽ gặp khó khăn trong xét xử, phải xác minh lại những vấn đề liên quan đến hợp đồng nếu một trong các bên không thừa nhận nội dung này. Bắt buộc công chứng hay tùy sự lựa chọn của người dân, cơ quan chức năng cần quyết định trên cơ sở xem xét, đánh giá thực tiễn, tránh tình trạng “bớt việc từ công chứng”, nhưng lại “thêm việc” cho Tòa!
Báo cũng có bài Một công chứng viên và một luật sư bị truy cứu tội “vu khống”. Bài báo phản ánh: Các cơ quan tố tụng huyện Từ Liêm vẫn giữ quan điểm và khẳng định, ông Quang Anh phạm tội "Vu khống". Đồng phạm với ông Quang Anh là Hoàng Đình Trọng và Vũ Tiến Phùng.
Ngôi nhà cấp 4 "mọc" lên trên phần đất của dự án (DA) vườn hoa cây xanh thuộc thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, Hà Nội (trước cửa Văn phòng Công chứng Mỹ Đình), CA huyện Từ Liêm xác định, không rõ người xây dựng. Vì lẽ đó, UBND xã Mỹ Đình đã tổ chức phá dỡ toàn bộ ngôi nhà.
Theo VKSND huyện Từ Liêm, trước đó, khoảng tháng 3- 2011, thấy "mọc" lên ngôi nhà trên, Vũ Tiến Phùng (SN 1950, chủ nhà cạnh đó) đánh tiếng với Nguyễn Văn Khiết, SN 1976, trú tại xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội, nhờ ông Ngô Quang Anh, SN 1971, Trưởng Văn phòng Công chứng Mỹ Đình, viết hộ đơn kêu cứu. Vì ngôi nhà làm mất mỹ quan của Văn phòng mình nên ông Quang Anh nhận lời. Sau khi thảo đơn (đề ngày 20-3-2011) với nội dung "tố" những người chiếm đất, ông Quang Anh đã giao Nguyễn Thị Mai Loan, SN 1981, nhân viên của Văn phòng Công chứng Mỹ Đình, in, phô tô và đưa cho Phùng để lấy chữ ký của những người dân xung quanh khu vực đó. Cuối tháng 4-2011, ông Quang Anh đến Văn phòng Luật sư PGVN nhờ soạn thảo đơn tố cáo. Vì thế, Nguyễn Thành Đạt, SN 1987 - nhân viên của Văn phòng Luật sư PGVN - đã dùng máy tính xách tay của mình gõ theo yêu cầu của ông Quang Anh. Đơn có 11 nội dung tố cáo một cán bộ huyện Từ Liêm "lợi dụng chức vụ quyền hạn, tổ chức băng nhóm giang hồ bảo kê cướp đất…". Hoàn chỉnh đơn, Đạt gửi đến địa chỉ email Congchungmydinh@gmail.com.
Tại một quán cà phê ở phố Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội, ông Quang Anh nhờ ông Hoàng Đình Trọng, SN 1971, luật sư chỉnh lại đơn. Ông Trọng đã thêm bớt vài dòng và gửi lại vào địa chỉ mail trên. Được sự chỉ đạo của "sếp", Loan đã bảo Khiết phô tô đơn thành 20 bản và nhờ đưa cho Nguyễn Tuấn Thành, SN 1977, trú tại xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội, cùng Khiết ký vào đơn. Đơn còn một số người khác đứng tên (vợ chồng Phạm Thái Hà và Vũ Thị Quyên, bà Đỗ Thị Thu, bà Nguyễn Thị Đón, ông Nguyễn Văn Thạch - đều trú tại thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, Hà Nội).
Ông Quang Anh đã cầm số đơn trên cùng 15 tấm ảnh chụp ngôi nhà xây dựng trái phép, 20 bản phô tô trích lục bản đồ thửa đất dự án đưa cho Nguyễn Việt Dũng - nhân viên của ông Quang Anh. Ngoài ra, ông Quang Anh còn sai Dương Hoàng Long, SN 1986, trú tại phường Hồng Hải, TP Hạ Long, Quảng Ninh - nhân viên Văn phòng Công chứng Mỹ Đình - đi mua vỏ hồ sơ và chỉ đạo Đạt đánh máy tờ bìa để dán bên ngoài vỏ hồ sơ.
Ngày 25-4-2011, ông Quang Anh đến Văn phòng Luật sư PGVN, ông Trọng đưa Dũng con dấu giáp lai để đóng dấu treo vào các lá đơn và túi hồ sơ. 14g ngày 5-5-2011, ông Quang Anh bảo Dũng gửi đơn đến 8 cơ quan như địa chỉ đã dán ngoài phong bì. Dũng đã chuyển phát nhanh hết 78 nghìn đồng. Gửi đơn được vài ngày, Ông Quang Anh nói với ông Trọng: "Đấy cái đơn tao gửi đi có hiệu quả ngay, thanh tra xây dựng đã đến lập biên bản".
Ông Quang Anh khai, sau khi Phùng nhờ soạn thảo đơn, ông có soạn đơn kêu cứu nhưng không có nội dung tố cáo một cán bộ huyện Từ Liêm và gửi lại Phùng. Cuối tháng 4-2011, ông Quang Anh bảo ông Trọng vào email Congchungmydinh@gmail.com để sửa đơn. Ông Trọng tự sửa và thêm nội dung tố cáo ông Trường. Ông Quang Anh có đọc lại nhưng không có ý kiến gì. Còn ông Trọng gửi đi đâu thì ông Quang Anh không rõ. Tuy nhiên, lời khai này không được chấp nhận. Các cơ quan tố tụng huyện Từ Liêm vẫn giữ quan điểm và khẳng định, ông Quang Anh phạm tội "Vu khống". Đồng phạm với ông Quang Anh là Hoàng Đình Trọng và Vũ Tiến Phùng. Các bị cáo bị truy tố ở khoản 2, khoản 3 Điều 122 Bộ luật Hình sự (khung hình phạt từ 1 năm đến 7 năm; có thể bị phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 10 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm).
Phiên tòa sơ thẩm mở ngày 31-10-2011 xét xử các bị cáo đã tạm hoãn do vắng mặt 4 luật sư. Liên quan đến vụ án, CQĐT kết luận, Dũng, Đạt, Loan có hành vi đánh máy, in, phô tô, gửi đơn tố cáo giúp ông Quang Anh, Trọng. Nhưng những người này chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên CA huyện Từ Liêm đã xử phạt hành chính. Thành, Hà, Quyên, Thu, Đón, Thạch ký vào đơn nhưng không biết rõ nội dung nên thoát tội.
Báo cũng có bài UBND các phường đề nghị cân nhắc làm việc ngày thứ Bảy. Bài báo đưa tin: Chiều 1-11-2011, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP Hà Nội Trương Thị Nga đã chủ trì buổi làm việc với UBND quận Tây Hồ về công tác tư pháp và PBGDPL năm 2011 trên địa bàn quận.
Ông Nguyễn Văn Vinh, Bí thư kiêm Chủ tịch UBND phường Thụy Khuê đề nghị Sở Tư pháp quan tâm hơn nữa đến việc tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải cho các hòa giải viên. Ông Vinh phản ánh việc trực giải quyết yêu cầu chứng thực vào sáng thứ bảy khiến cán bộ tư pháp quá vất vả, trong khi đó, có buổi chỉ 1-2 người, thậm chí không ai đến làm thủ tục, nên cần cân nhắc có cần thiết phải làm ngày thứ bảy không?
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Chủ tịch UBND huyện Từ Liêm... “đánh đố“ người dân. Bài báo phản ánh: Hai cụ Trần Duy Cát và Khuất Thị Tính có hơn 780 m2 đất tại xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Diện tích đất này của vợ chồng cụ Cát do con trai là Trần Duy Thắng quản lý từ khi cụ vào TP.Hồ Chí Minh sống với con trai là Trần Duy Vinh.
Tháng 7/2010, vợ chồng cụ Trần Duy Cát ủy quyền cho con trai là Trần Duy Vinh định đoạt tài sản là diện tích đất trên. Trong thời gian này, ông Trần Duy Vinh đã ký thay vợ chồng cụ Cát trong các đơn đề nghị chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất. Trong đó, người được cho đất là ông Trần Duy Thắng với diện tích hơn 340 m2; diện tích đề nghị chuyển nhượng cho ông Lê Văn Tuấn là hơn 420m2. Theo phản ánh của một trong các con cụ Cát thì thực chất, ông Thắng và ông Vinh đã chia nhau diện tích đất của hai cụ và ông Vinh đã bán diện tích đất “được chia” cho ông Tuấn. Tuy nhiên, đến tháng 5/2011, thủ tục chuyển nhượng và cho tặng quyền sử dụng đất mới được thực hiện. Lúc này, cụ Cát đã lâm trọng bệnh và đang phải điều trị tại bệnh viện 175 TP.Hồ Chí Minh.
Dù sức khỏe của cụ Cát rất yếu nhưng việc ký kết hợp đồng vẫn được diễn ra… trên giường bệnh và được Công chứng viên Đoàn Thị Lý của Văn phòng công chứng (VPCC) A9 thực hiện việc công chứng. Có được các hợp đồng trên, ông Tuấn và ông Thắng đã nộp cho UBND huyện Từ Liêm để đăng ký quyền sử dụng đất và xin cấp sổ đỏ.
Khi phát hiện ra việc công chứng không bình thường này, các con của cụ Cát đã làm đơn tố cáo đến Sở Tư pháp TP. Hà Nội và Công an quận Hoàn Kiếm (nơi ông Trần Duy Vinh đăng ký hộ khẩu thường trú).
Ngoài ra, một loạt vi phạm khác của công chứng viên cũng được CQĐT và Thanh tra Sở Tư pháp TP. Hà Nội làm rõ. Theo kết luận của Thanh tra Sở Tư pháp, công chứng viên đã vi phạm quy định về thời hạn công chứng, công chứng trước khi đương sự yêu cầu, vi phạm quy định về ghi địa chỉ công chứng và đặc biệt là việc công chứng viên không có mặt khi người ký kết hợp đồng ký vào bản hợp đồng. Luật Công chứng bắt buộc người ký hợp đồng phải ký trước mặt công chứng viên. Với lỗi này, hai bản hợp đồng mà cụ Cát ký tặng cho đất và chuyển nhượng đất là vô hiệu do trái pháp luật. Vì các lỗi trên nên công chứng viên Đoàn Thị Lý đã bị xử phạt hành chính 8 triệu đồng.
Với hợp đồng trái pháp luật trên và đang có tố cáo của công dân thì không thể chuyển quyền sử dụng đất. Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã có công văn 586/STNMT-TTr (ngày 12/7/2011) gửi UBND huyện và Văn phòng đăng ký nhà đất huyện Từ Liêm, yêu cầu kiểm tra, xác minh sự việc. Nếu đúng như kết luận của CQĐT và Thanh tra Sở Tư pháp thì phải thực hiện việc thu hồi sổ đỏ đã cấp theo quy định tại Điều 25, Nghị định 88/2009/NĐ-CP.
Mặc dù các cơ quan chức năng, đặc biệt là Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã thụ lý giải quyết đơn tố cáo của các con cụ Cát và có kết luận việc ký kết, công chứng hợp đồng là trái pháp luật, yêu cầu UBND huyện Từ Liêm xem xét lại thủ tục cấp sổ đỏ cho ông Lê Văn Tuấn và Trần Duy Thắng. Tuy nhiên, UBND huyện Từ Liêm đã phớt lờ những sai phạm đã được làm sáng tỏ và phớt lờ cả chỉ đạo về chuyên môn của Sở Tài nguyên và Môi trường vẫn cấp và giao sổ đỏ cho ông Tuấn, ông Thắng.