I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Người lao động phản ánh: Mặc dù bị kỷ luật nhưng các ông Châu Thanh Dũng, phó chánh Tòa Dân sự và Trần Trọng Hữu, phó chánh án TAND tỉnh Cà Mau, vẫn được nhận bằng khen “5 năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Trước đó, ngày 27-10-2010, Đảng ủy Dân Chính Đảng tỉnh Cà Mau đã triển khai quyết định kỷ luật khiển trách về mặt Đảng đối với ông Dũng do thiếu trung thực trong việc khai năm sinh, báo cáo tài chính chậm gây cản trở công tác tài chính của cơ quan. Ngoài ra, cơ quan này còn kết luận ông Dũng lơ là trong khâu quản lý, để nhân viên tham ô, chiếm đoạt hơn 130 triệu đồng của đơn vị. Trong thời gian “5 năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”, năm 2006, ông Hữu từng bị TAND Tối cao kỷ luật bằng hình thức khiển trách do có hành vi sử dụng bằng tốt nghiệp bổ túc THPT bất hợp pháp từ năm 1999-2005 để bổ sung hồ sơ cán bộ. Điều đáng nói là bằng cử nhân luật của ông Hữu vẫn được công nhận và ngày 28-6-2006, ông mới bổ sung vào hồ sơ giấy chứng nhận tạm thời tốt nghiệp bổ túc THPT.
Trước đây, nhiều cán bộ ngành tư pháp của tỉnh Cà Mau cũng bị phát hiện và thừa nhận sử dụng các văn bằng chứng chỉ bất hợp pháp như bà Trần Kim Phe (chánh án TAND huyện Cái Nước), ông Võ Thanh Tùng (chánh án TAND huyện Trần Văn Thời), ông Ngô Hồng Phúc (chánh án TAND huyện Ngọc Hiển), ông Nguyễn Thanh Lo (chánh án TAND huyện U Minh)… Thế nhưng hiện nay, có người đã được chuyển công tác và giữ những chức vụ quan trọng; số khác thì vẫn còn ngồi ghế chánh án TAND huyện.
Báo cũng phản ánh: Người dân thôn Phú Long, xã An Mỹ, huyện Tuy An - Phú Yên vừa phát hiện Nhà máy Lắp ráp ô tô JRD Việt Nam (JRD, 100% vốn của Malaysia) xả chất thải ra bên ngoài khu vực nhà máy gây hại đến sản xuất, ảnh hưởng đến nguồn nước.
Theo TTXVN, chiều 28-10, đoàn công tác gồm: Chi cục Bảo vệ môi trường (Sở Tài nguyên - Môi trường Phú Yên), Công an Môi trường tỉnh Phú Yên, Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Tuy An và chính quyền xã An Mỹ đã đến làm việc với nhà máy để tìm hướng giải quyết hậu quả. Tuy nhiên, lãnh đạo Nhà máy JRD đã không hợp tác với đoàn.
Báo cũng phản ánh: Tại hội thảo do Bộ Công Thương và dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên giai đoạn III (EU – Việt Nam MUTRAP III) tổ chức đã diễn ra cuối tuần qua, tại TPHCM, ông Phạm Sỹ Chung, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Bộ Công Thương, cho biết các văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài có nhiều đóng góp tích cực cho việc phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, một số văn phòng đại diện, chi nhánh còn vi phạm như hoạt động sai mục đích; không nộp báo cáo hoạt động thường kỳ; không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động; khai gian thuế thu nhập cá nhân… Theo ông Nguyễn Thanh Sơn, Phó trưởng Phòng Thị trường và Thương nhân nước ngoài - Sở Công Thương TPHCM, trong năm 2010, sở này đã xử phạt 145 văn phòng đại diện với số tiền hơn 2 tỉ đồng do hoạt động gian lận, lừa đảo hoặc kinh doanh sinh lợi trái quy định. Ông Sơn dẫn chứng một văn phòng đại diện của Đài Loan mở cả cơ sở may gia công; một văn phòng đại diện của Hồng Kông mở phòng may túi xách. Thậm chí, có văn phòng đại diện của một công ty may nhưng thuê cả nhà thiết kế, công nhân hoạt động như doanh nghiệp (DN) độc lập để thu lợi nhuận.
Ông Phạm Đình Thưởng, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương, cho rằng tâm lý “sính ngoại” của một bộ phận DN cũng đã “tiếp tay” cho các DN khác vi phạm. “Một DN thành lập ở Singapore sang Việt Nam đầu tư sẽ kinh doanh thuận lợi hơn nhiều DN trong nước cùng lĩnh vực. Vì vậy, có DN mở công ty trong nước không hiệu quả đã chuyển sang lập công ty đầu tư ở nước ngoài rồi… ngược về Việt Nam mở văn phòng đại diện” - ông Thưởng dẫn chứng. Các đại biểu cho rằng cần sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định 72/CP nhằm hoàn thiện khung pháp lý, tạo thông thoáng cho nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và hạn chế các vi phạm của văn phòng đại diện, chi nhánh.
2. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: Philippines chào đón công dân thứ 7 tỷ của thế giới sau khi bé được sinh ra tại một bệnh viện công vào tối qua.
Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc cho biết, Philippines là nước đông dân thứ 12 trên thế giới. Dân số nước này là 94,9 triệu người. Với số dân 1,35 tỷ, Trung Quốc vẫn là quốc gia đông dân nhất hành tinh. Vị trí thứ hai thuộc về Ấn Độ với 1,24 tỷ người.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Nhân dân có bài của ông Bùi Ngọc Hòa – Phó Chánh án TAND tối cao Tạo cơ chế cho Tòa án Nhân dân tối cao chủ động đào tạo các chức danh tư pháp. Bài báo phản ánh: Năm 1982, do yêu cầu nhiệm vụ chung, Tòa án nhân dân (TAND) tối cao đã chuyển giao công tác quản lý về tổ chức các tòa án địa phương sang Bộ Tư pháp, Trường cao đẳng Tòa án cũng được sáp nhập với Trường đại học Pháp lý Hà Nội (nay là Trường đại học Luật Hà Nội) trực thuộc sự quản lý của Bộ Tư pháp. Ðến năm 2002, theo Luật Tổ chức TAND mới, TAND tối cao tiếp nhận lại các tòa án địa phương về tổ chức và kinh phí, nhưng việc đào tạo thẩm phán và các chức danh tư pháp khác trong ngành tòa án vẫn do Học viện Tư pháp thuộc Bộ Tư pháp đảm nhiệm.
Tòa án Nhân dân tối cao luôn phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp trong việc tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ xét xử cho cán bộ, công chức ngành tòa án theo chỉ tiêu đào tạo được phân bổ hằng năm (mỗi năm khoảng 500 học viên). TAND tối cao thường xuyên rà soát đội ngũ cán bộ để xác định nhu cầu đào tạo, xác định tiêu chuẩn, điều kiện tuyển sinh, xác định thứ tự ưu tiên của từng khu vực để cân đối số lượng cần đào tạo đối với từng tòa án địa phương. Ðồng thời, đã chỉ đạo các đơn vị trong ngành (các đơn vị trực thuộc TAND tối cao một số tòa án địa phương) lựa chọn và cử cán bộ, thẩm phán có trình độ, kinh nghiệm để tham gia làm giảng viên kiêm chức cho Học viện Tư pháp. Tuy nhiên, việc TAND tối cao không chủ động tổ chức đào tạo đội ngũ thẩm phán mà giao cho đơn vị khác thực hiện dẫn đến những bất cập sau: Thứ nhất, cơ chế đào tạo hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo của ngành tòa án, chưa đào tạo các chức danh khác như thẩm tra viên, thư ký..., làm cho ngành tòa án bị động trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, thẩm phán; chưa gắn việc đào tạo, bồi dưỡng với công tác quy hoạch, đội ngũ thẩm phán và đội ngũ cán bộ lãnh đạo tòa án các cấp. Thứ hai, do cơ sở vật chất của cơ sở đào tạo còn hạn chế, gây khó khăn rất nhiều trong việc ăn ở, đi lại, ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Thứ ba, đội ngũ giáo viên, giảng viên của Học viện Tư pháp chủ yếu là giảng dạy các kiến thức cơ bản, còn các giảng viên có kinh nghiệm trong công tác thực tiễn, nhất là kinh nghiệm trong công tác xét xử thì chủ yếu mời thỉnh giảng là các thẩm phán, kiểm sát viên..., trong khi đó lại mở nhiều lớp đào tạo chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng viên...), cho nên chưa đáp ứng nhu cầu đào tạo của các cơ quan tư pháp nói chung, ngành tòa án nói riêng. Thứ tư, giáo trình đào tạo còn chồng chéo, thiếu thống nhất về nội dung tài liệu và quan điểm nghiệp vụ gây khó khăn trong việc áp dụng thống nhất pháp luật; chưa chú trọng việc bồi dưỡng nghiệp vụ, rút kinh nghiệm xét xử theo từng loại án và các chuyên đề cụ thể nhằm khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán...
Nghị quyết 49-NQ/T.Ư ngày 2-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: Tòa án là trung tâm của cải cách tư pháp và hoạt động xét xử là trọng tâm của công tác tư pháp. Ðây là trọng trách mà Ðảng và nhân dân giao phó cho ngành tòa án nhằm thực hiện tốt mục tiêu "Tòa án các cấp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm".
Năng lực của đội ngũ thẩm phán ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xét xử, được thể hiện ở hai khía cạnh là trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kỹ năng điều khiển phiên tòa khi tranh tụng... Trong đó trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có tính chất quyết định vì chủ yếu các trường hợp án bị sửa, hủy là do việc nắm và vận dụng pháp luật của thẩm phán còn hạn chế. Do đó, việc đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao năng lực xét xử, xây dựng đội ngũ thẩm phán trong sạch, vững mạnh là một yêu cầu cấp bách của công tác cải cách tư pháp.
Trong những năm vừa qua, Ban cán sự Ðảng, lãnh đạo TAND tối cao luôn kiên trì và chú trọng công tác xây dựng ngành toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ; thực hiện tốt các mặt công tác cán bộ như: tuyển chọn cán bộ, xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, tuyển dụng, bố trí sắp xếp cán bộ, bảo đảm thực hiện việc luân chuyển cán bộ, thực hiện tốt chính sách cán bộ. Bên cạnh đó, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị, tin học, ngoại ngữ... cho cán bộ, nhất là đội ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân, với quan điểm đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm phán phải gắn với việc nâng cao trình độ chuyên môn và kinh nghiệm xét xử của ngành tòa án.
Ðể thực hiện mục tiêu của Ðảng và Nhà nước đặt ra đối với các cơ quan tư pháp nói chung, ngành TAND nói riêng, việc chủ động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Tòa án tối cao là hết sức cần thiết và bức bách. Bởi những căn cứ sau: Bảo đảm nguyên tắc công tác tổ chức cán bộ phải luôn gắn liền với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cơ sở đào tạo ngành tòa án có đội giáo viên cơ hữu, có những thẩm phán TAND tối cao, lãnh đạo một số tòa án địa phương có trình độ chuyên môn, chính trị cao, có bề dày kinh nghiệm trong công tác thực tiễn, nhất là nhiều năm làm công tác xét xử. Ðây là nguồn giảng viên dồi dào, vô cùng quan trọng mà không cơ sở đào tạo nào có được.
Chủ động công tác đào tạo sẽ giúp cho ngành tòa án làm tốt nhiệm vụ nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, ngoài việc đào tạo đội ngũ thẩm phán, còn kịp thời đào tạo các chức danh tư pháp trong ngành tòa án như thẩm tra viên, thư ký, nhân viên nghiệp vụ khác, đáp ứng nhu cầu công tác; đồng thời chủ động bồi dưỡng nghiệp vụ, rút kinh nghiệm xét xử theo từng loại án và các chuyên đề cụ thể, nhằm khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán.
Ngành tòa án có đủ điều kiện về cơ sở vật chất cho công tác đào tạo. Hiện nay, ngành tòa án đang có Trường đào tạo cán bộ tòa án ở Hà Nội (đang được xây dựng với quy mô lớn, hiện đại do Hàn Quốc tài trợ), tiếp tục ưu tiên cho việc thành lập các trung tâm đào tạo tại Ðà Nẵng và TP Hồ Chí Minh. TAND tối cao đã xây dựng Ðề án "Nâng cao năng lực và mở rộng quy mô Trường cán bộ tòa án" với phương hướng chiến lược của Trường cán bộ tòa án đến năm 2020 trở thành Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử tương xứng với vị trí của ngành tòa án, là trung tâm của hệ thống tư pháp. Chủ động đào tạo thẩm phán và các chức danh tư pháp trong ngành tòa án nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán cũng như chất lượng xét xử. Ðây là yêu cầu và đòi hỏi chính đáng, rất cần được Ðảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan xem xét.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: UBND TP vừa ban hành hai quyết định về kế hoạch triển khai tổng kết thi hành Hiến pháp 1992 trên địa bàn TP và thành lập Ban chỉ đạo tổng kết thi hành Hiến pháp 1992. Theo đó, ông Lê Minh Trí, Phó Chủ tịch UBND TP, là trưởng ban; bà Ngô Minh Hồng, Giám đốc Sở Tư pháp, là phó trưởng ban thường trực.
Nội dung của kế hoạch là tổ chức rà soát, đánh giá việc thực hiện các quy định của Hiến pháp 1992; tổ chức khảo sát thực tiễn tại một số quận - huyện, sở - ngành; tổ chức các hội nghị, hội thảo… Theo đó, Viện Nghiên cứu phát triển TP tổ chức hội thảo “Đặc thù quản lý nhà nước đối với chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn”. Sở KH&ĐT tổ chức hội thảo “Nhìn lại 20 năm thực hiện chính sách đầu tư tại TP.HCM”; xây dựng dự thảo các báo cáo… Các nội dung này dự kiến hoàn thành trước ngày 15-12.
Báo cũng có bài “Kiến nghị kéo dài thời gian thí điểm thừa phát lại thêm hai năm”. Bài báo phản ánh: Sở Tư pháp TP.HCM vừa có văn bản thông tin khái quát về quá trình triển khai thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại (TPL) tại TP.HCM. Theo đó, từ tháng 5-2010 đến tháng 9-2011, năm văn phòng TPL đã thực hiện tống đạt gần 35.000 văn bản; lập hơn 2.700 vi bằng; xác minh điều kiện thi hành án (THA) hơn 80 vụ và trực tiếp THA xong 16 vụ việc.
Qua hơn một năm hoạt động, bên cạnh những mặt đã đạt được, các tổ chức TPL vẫn còn gặp một số khó khăn, vướng mắc. Chẳng hạn, một số tòa án quận và cơ quan THA dân sự chưa tích cực chuyển giao văn bản cần tống đạt cho các văn phòng TPL thực hiện; chi phí tống đạt văn bản, giấy tờ còn thấp. Bên cạnh đó, quy định pháp luật chưa thống nhất dẫn đến việc một số cơ quan, tổ chức và cá nhân chưa có thiện chí hợp tác, hỗ trợ TPL lại trong việc xác minh điều kiện THA và trực tiếp tổ chức THA… Đơn cử như pháp luật về quản lý thuế, nhà đất, hoạt động tín dụng, đăng ký tài sản… chỉ quy định việc cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên một số cơ quan, tổ chức đã từ chối cung cấp thông tin cho TPL.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của TPL, Sở Tư pháp TP kiến nghị các cơ quan, tổ chức trung ương chỉ đạo cơ quan, đơn vị trực thuộc hỗ trợ và tạo điều kiện để TPL thực hiện công việc của mình. Đồng thời, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép kéo dài thời gian thí điểm thêm hai năm nữa (đến tháng 7-2014 thay vì tháng 7-2012) để có cơ sở vững chắc hơn khi tổng kết, đánh giá.
3. Báo Hà Nội mới có bài Hà Nội: Đến ngày 5-12 sẽ hoàn thành việc tổng kết thi hành Hiến pháp. Bài báo phản ánh: Đó là kết luận của Phó Chủ tịch UBND TP Vũ Hồng Khanh - Tổ trưởng Tổ giúp việc HĐND, UBND TP tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 tại phiên họp lần thứ nhất của tổ.
Theo kế hoạch tổ giúp việc đề ra, trong tháng 11-2011, các sở, ban, ngành, quận, huyện, thị xã sẽ tổ chức tổng kết và gửi báo cáo về Sở Tư pháp (đơn vị thường trực) trước ngày 25-11. Ở cấp TP, phấn đấu tổ chức hội nghị tổng kết và gửi báo cáo tới HĐND TP trước ngày 5-12. TP yêu cầu Sở Tư pháp chuẩn bị nội dung, phối hợp với Sở Thông tin Truyền thông, Văn phòng UBND TP đưa các nội dung cần thiết lên trang thông tin điện tử của Hà Nội để lấy ý kiến góp ý của các tầng lớp nhân dân.
Báo cũng có bài Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp: Người cho lúng túng, kẻ nhận rụt rè. Bài báo phản ánh: Hà Nội là một trong 7 địa phương được chọn làm điểm triển khai Chương trình Hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp (DN) giai đoạn 2011-2014 của Chính phủ. TP cũng đã ban hành Kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho DN trong giai đoạn này với số tiền lên tới 6 tỷ đồng. Tuy nhiên, để đạt kết quả như mong muốn cần sự nỗ lực từ nhiều phía…
Tháng 9-2011, giới DN trong cả nước xôn xao trước thông tin thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột bị chiếm đoạt tại Trung Quốc, thương hiệu cà phê Đắc Lắc cũng bị một công ty của Pháp đăng ký bảo hộ ở hơn 10 quốc gia khác nhau. Tháng 10, những nội dung liên quan tới việc Công ty Interbrand (trụ sở chính tại Anh) kiện hai công ty Việt Nam ra Tòa kinh tế TP Hồ Chí Minh để đòi quyền đối với tên thương mại, nhãn hiệu của mình lại khiến không ít DN giật mình. Những vấn đề xung quanh các bài học này cho thấy dường như với DN, nội dung liên quan đến thủ tục pháp lý chưa được thật sự coi trọng. Song theo đánh giá của chính các DN, họ đang vướng phải "rào cản" vừa thiếu, vừa khó khi tiếp cận hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) hiện nay.
Ông Tô Hữu Chung, Trưởng phòng Tổ chức nhân sự, Công ty TNHH một thành viên Cơ điện công trình (Long Biên - Hà Nội) chia sẻ, hiện các DN chủ yếu là tự khai thác các VBQPPL trên các trang thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, do khối lượng VBQPPL nhiều, việc cập nhật của các cơ quan chức năng cũng chưa được thường xuyên nên việc khai thác thông tin của chúng tôi vừa mất thời gian mà hiệu quả lại không cao. Chúng tôi mong muốn có sự điều chỉnh trong việc hệ thống hóa các VBQPPL theo các chuyên đề, nhất là các chuyên đề hiện DN còn gặp nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong thực hiện.
Trước thực trạng này, bên cạnh các quy định hỗ trợ về vốn, hỗ trợ đầu tư, ưu đãi về thuế tạo điều kiện thuận lợi cho DN hoạt động sản xuất kinh doanh, Chính phủ đã ban hành nghị định và các kế hoạch liên quan tới hoạt động hỗ trợ pháp lý cho DN. Trong đó có một điểm mới là thay vì chịu sự quản lý hành chính như trước đây, DN là đối tượng được Nhà nước phục vụ các dịch vụ pháp lý.
Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội Phan Hồng Sơn cho biết, UBND TP đã ban hành Quyết định 2706/QĐ-UBND năm 2011 về Kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho DN trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2011-2014. Theo đó, tất cả DN trên địa bàn đều được hỗ trợ pháp lý không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức tổ chức, quy mô kinh doanh, lĩnh vực hoạt động. Đây là lần đầu tiên Hà Nội có một văn bản cụ thể chỉ đạo bài bản, chi tiết hoạt động hỗ trợ pháp lý cho DN trên địa bàn. Đồng thời, Hà Nội cũng dành ngân sách 6 tỷ đồng để triển khai một số hoạt động hỗ trợ cụ thể dành riêng cho DN. Song qua thực tiễn triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý trên địa bàn TP cho thấy, bên cạnh những khó khăn của DN trong việc sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý, trong tra cứu, cập nhật thông tin VBQPPL thì nhiều DN mới chỉ chú trọng đến hoạt động kinh doanh. Nhiều DN chỉ tìm hiểu, nghiên cứu các văn bản, quy định của pháp luật khi có tranh chấp hoặc có vấn đề "động chạm" đến chính DN mình.
Thiết nghĩ, để các hoạt động hỗ trợ pháp lý DN đạt hiệu quả cần sự phối hợp và nỗ lực của nhiều phía. Với các cơ quan chức năng cần có biện pháp hỗ trợ, tuyên truyền cụ thể, thiết thực nhằm tạo chuyển biến căn bản về nhận thức pháp lý, ý thức pháp luật và thói quen tuân thủ pháp luật của DN. Tạo lập các điều kiện cần thiết phục vụ hoạt động thực thi pháp luật để DN kinh doanh có hiệu quả, phòng chống rủi ro pháp lý và tăng cường năng lực cạnh tranh của DN. Về phía các DN, cũng cần phải thay đổi nhận thức về việc tiếp cận thông tin pháp luật. Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, các DN cần tạo cho mình thói quen chủ động tìm hiểu, cập nhật VBQPPL trong nước và quốc tế, đừng để "nước đến chân mới nhảy" như một số DN thời gian qua.