Điểm tin báo chí sáng ngày 13 tháng 10 năm 2011

13/10/2011
Trong buổi sáng ngày 13/10/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-                        THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Khoa học và Đời sống có bài Bị kỷ luật Đảng, có quyền khởi kiện ra tòa? Bài báo đưa tin: Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng đã đặt ra tình huống này khi thảo luận về dự án Luật khiếu nại tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ QH sáng 12/10.

Xuất phát từ phạm vi điều chỉnh của dự luật còn 2 phương án khác nhau: Quy định khiếu nại đối với hành vi, quyết định hành chính trong cơ quan hành chính nhà nước như Chính phủ trình hay mở rộng thêm với cả các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và cơ quan tổ chức khác. Một trong những lý do tán thành mở rộng phạm vi điều chỉnh, theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Phan Trung Lý, là chưa có tổ chức, đoàn thể nào hướng dẫn thực hiện giải quyết khiếu nại trong cơ quan mình theo Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành.

Kết quả lấy ý kiến cũng cho thấy, 20 đoàn đại biểu QH đồng tình mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự luật, trong khi con số đề nghị giữ nguyên là 17 đoàn.

Tỏ ý thận trọng, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng lập luận, các tổ chức chính trị - xã hội như Đảng, Mặt trận và các đoàn thể hoạt động theo Điều lệ, khác với cơ quan hành chính theo pháp luật của Nhà nước. “Kiện mấy tổ chức ra tòa xử lý không đơn giản. Ví dụ bị kỷ luật Đảng, có kiện ra tòa xử được không? Đảng viên chỉ được khiếu nại việc liên quan đến công chức, nói lấp lửng là không được…”, ông băn khoăn.

Tán thành mở rộng đối tượng điều chỉnh của dự luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH Nguyễn Văn Hiện cho rằng, Luật Cán bộ, công chức công nhận đối tượng công chức trong cơ quan Đảng, đoàn thể “là đặc thù của hệ thống chính trị của Việt Nam”, cần được bảo đảm bình đẳng về quyền khiếu nại.

Vị chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cũng đề nghị, Luật chỉ điều chỉnh đối với khiếu nại quyết định, hành vi mang tính chất hành chính của cơ quan Đảng, đoàn thể như tuyển dụng, điều động, kỷ luật… Tuy nhiên, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại vẫn phải căn cứ vào Điều lệ tổ chức đó, trước khi khởi kiện ra Tòa án…

Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu cho biết thêm, hiện nay, Luật Tố tụng hành chính cũng cho phép công chức trong tổ chức Đảng, đoàn thể được khởi kiện ra tòa đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc.

Một điểm mới gây tranh cãi là Ủy ban Pháp luật của QH đề nghị không đưa quy định về trụ sở tiếp dân của Đảng, Nhà nước vào trong dự án Luật khiếu nại. Lý do, theo ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban này, hiện nay Trụ sở tiếp công dân của Đảng, Nhà nước là “mô hình thí điểm, Chính phủ cần xem xét lại”, “không có cơ quan nào gọi là Đảng và Nhà nước cả”... Trước tình trạng nhiều cơ quan tiếp công dân trở thành “văn thư”, đơn thư khiếu nại “kính chuyển” lòng vòng, kéo dài, nhiều ý kiến cho rằng cần sớm đổi mới công tác tiếp dân.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH Nguyễn Văn Hiện cho biết, giải quyết khiếu nại, nhiều nước “làm tốt” do yêu cầu công dân phải trực tiếp khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nếu đơn thư không “đúng nơi, đúng chỗ” sẽ bị trả lại. Đây là quy định mà Việt Nam có thể xem xét đưa vào luật, khi QH đã có dự kiến xây dựng luật riêng về tiếp công dân.

2. Trang thông tin chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam có bài “Phân làn cưỡng bức lâu dần sẽ quen”. Bài báo phản ánh: Trong khi dư luận cho rằng trước khi quyết định phân làn cần nghiên cứu kỹ thì Sở GTVT Hà Nội tuyên bố: "Không có cách nào khác là cưỡng bức người tham gia giao thông. Lâu dần sẽ quen!".

 Tiếp tục câu chuyện phân làn hay không và nên phân làn thế nào, trong buổi gặp gỡ với báo chí hôm 12/10, Sở GTVT Hà Nội khẳng định, việc cắm các biển báo cứng là biện pháp cuối cùng vì trước đây các giải pháp phân làn bằng vạch vôi đều không phát huy tác dụng. Chính vì đây là biện pháp cuối cùng, nên Sở không cần phải tổ chức nghiên cứu trước khi cắm biển. Hiệu quả của việc cưỡng bức mà ông Tân nhắc tới thì chưa được chứng minh, nhưng số vụ tai nạn do người dân đâm phải biển báo thì không ngừng gia tăng. Chính một số người làm công tác điều hành giao thông cũng cho rằng, cách thức cắm biển hiện nay là chưa hợp lý.          

Thời gian qua, rất nhiều dải phân cách cứng đã bị người đi đường xô đổ để tìm cách thoát khỏi các điểm ùn tắc vào giờ tan tầm. Đây là một mình chứng của việc nếu như pháp luật không nghiêm và người dân không có ý thức chấp hành pháp luật, thì dù cột phân cách có đặt ở đâu, mềm hay hay cứng như thế nào, cũng không thể cưỡng bức được người tham gia giao thông.

 Rõ ràng, phân làn cho giao thông Hà Nội là cần thiết, nhưng phân như thế nào và bằng biện pháp gì sẽ vẫn cần những nghiên cứu khoa học và chi tiết hơn nữa.

 Báo cũng có bài Vàng, USD không được bảo hiểm tiền gửi. Bài báo phản ánh: Gửi vàng hoặc USD tại các tổ chức tín dụng có thể sẽ không nhận được bảo hiểm tiền gửi. Đây là quy định mới nhất tại Dự thảo Luật bảo hiểm tiền gửi vừa được Thường vụ Quốc hội thảo luận.

 Theo dự thảo luật, khi ngân hàng phá sản, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ chỉ thực hiện chi trả bảo hiểm cho những người gửi tiền bằng Đồng Việt Nam (VNĐ). Loại tiền được bảo hiểm là VNĐ gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu… ; không áp dụng bảo hiểm tiền gửi với ngoại tệ hay vàng bạc, đá quý. Sở dĩ, qui định này được đưa ra là bởi chúng ta đang thực hiện chủ trương, chống đôla hóa và trên lãnh thổ Việt Nam chỉ dùng tiền Việt Nam.

 Giải thích thêm về việc chỉ bảo hiểm tiền gửi với VNĐ, Ngân hàng nhà nước cho rằng, điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Các nước trên thế giới cũng chỉ bảo vệ cho đồng tiền quốc gia của họ mà thôi. Hơn nữa, chủ trương của Chính phủ muốn người dân chỉ sử dụng đồng nội tệ.

 Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến chưa đồng tình với qui định này bởi vàng hay ngoại tệ của người dân suy cho cùng đều là những tài sản hợp pháp, cần được bảo vệ. Hơn nữa, vấn đề chống đôla hóa là việc quản lý của Ngân hàng…

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Tuổi trẻ Online có bài Sẽ có văn phòng giám định tư pháp tư nhân. Bài báo phản ánh: Chiều 11-10, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM đã tổ chức Hội thảo góp ý dự án Luật Giám định tư pháp (sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai).

Theo ông Trần Du Lịch, Phó Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM thì một trong những nội dung quan trọng của dự án Luật giám định tư pháp là việc cho phép thành lập tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập (xã hội hóa công tác giám định tư pháp) dưới dạng Văn phòng giám định tư pháp, nhằm giảm bớt gánh nặng cho bộ máy. Theo dự án luật, các giám định viên tư pháp có đủ điều kiện theo quy định có thể thành lập Văn phòng giám định tư pháp (tương tự Văn phòng công chứng tư hiện nay) hoạt động song song với các cơ quan giám định tư pháp công lập (của nhà nước).

Tại hội thảo, nhiều ý kiến ủng hộ chủ trương xã hội hóa công tác giám định tư pháp nhưng chỉ nên hạn chế trong một số lĩnh vực. Ông Trần Văn Bảy, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp (Sở Tư pháp TP.HCM) cho rằng việc xã hội hóa công tác giám định tư pháp là cần thiết nhưng cần phải có lộ trình và chỉ nên giao cho giám định tư pháp tư nhân làm một số lĩnh vực như xây dựng, tài chính… Riêng giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự và văn hóa thì nên giao cho cơ quan giám định tư pháp của nhà nước.

Nhiều đại biểu công tác trong ngành tòa án, viện kiểm sát, công an và các luật sư cho rằng công tác giám định tư pháp hiện nay còn nhiều bất cập, là một điểm “nghẽn” trong hoạt động tố tụng. Có vụ án có nhiều kết luận giám định tâm thần, giám định gen trái ngược nhau (cơ quan này nói bị can tâm thần, cơ quan khác nói bình thường, kết luận này xác định cha đứa trẻ là ông A nhưng kết luận khác lại cho rằng cha đứa trẻ là ông B…) khiến cho các cơ quan tố tụng không biết căn cứ vào kết luận nào để giải quyết.

Kết luận giám định tư pháp là một chứng cứ khách quan hết sức quan trọng trong tố tụng nên nhất thiết việc ban hành Luật phải tạo điều kiện cho công tác giám định tư pháp phát triển, hoàn thiện hơn. Nhiều đại biểu kiến nghị bổ sung quy định về quyền trưng cầu giám định tư pháp của người dân khi có nhu cầu, không nhất thiết vụ việc phải được thụ lý giải quyết (trong dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình,…) hay khởi tố (hình sự) thì mới được quyền trưng cầu giám định.

2. Báo Công lý có bài Kiên Giang: Cưỡng chế thi hành án không đúng pháp luật. Bài báo phản ánh: Thi hành án dân sự bấy lâu là một vấn đề rất phức tạp, đa số do người bị thi hành án không tự nguyện. Vụ việc dưới đây lại cho thấy một nguyên nhân khác xuất phát từ chính cán bộ thi hành án.

Bản án dân sự phúc thẩm số 392/2008/DSPT ngày 15 và ngày 19-12-2008 của TAND tỉnh Kiên Giang phán xử như sau: “Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Ong Dương Hải và ông Nguyễn Trường Sơn, người đại diện theo ủy quyền là ông Mai Thành Chính. Buộc các ông Lâm Hồng Mến, Nguyễn Quốc Cường, Trần Quốc Hoàn, Phan Văn Rô phải trả cho ông Ong Dương Hải và ông Nguyễn Trường Sơn 96.393.000 đồng, tiền thu hoạch sò lông (nếu các ông đã tự phân chia với nhau số tiền trên, thì mỗi người phải có trách nhiệm trả lại phần mình đã nhận).

Căn cứ bản án phúc thẩm trên, các ông Mến, Cường, Hoàn, Rô đã khiếu nại đến người có thẩm quyền yêu cầu giải quyết lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Vì lý do là: Vị trí tranh chấp mà Tòa án giải quyết là mặt nước biển, vị trí này không phải là vị trí thuê đất giữa các ông Hải, ông Sơn với UBND xã Bình An ghi trong Hợp đồng thuê đất số 04/CT ngày 25-8-2006. Theo vị trí thuê đất ghi trong hợp đồng thì đất mà các ông Hải, ông Sơn thuê là ở đất liền, cách xa nơi tranh chấp là mặt nước biển. Khiếu nại này chưa được giải quyết.

Tuy nhiên, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Lương vẫn quyết định thi hành án bằng hình thức cưỡng chế thi hành án đối với ông Lâm Hồng Mến, đem bán đấu giá 156m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Lâm Hồng Mến. Theo chúng tôi, việc cưỡng chế thi hành án này của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Lương là: Không theo nội dung quyết định của bản án dân sự phúc thẩm nói trên và không tuân theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Cụ thể như sau:

Trong bản án phán xử là: Buộc các ông Lâm Hồng Mến, Nguyễn Quốc Cường, Trần Quốc Hoàn, Phan Văn Rô phải trả cho ông Ong Dương Hải và ông Nguyễn Trường Sơn 96.393.000 đồng tiền thu hoạch sò lông (nếu các ông đã tự phân chia với nhau số tiền trên, thì mỗi người phải có trách nhiệm trả lại phần mình đã nhận). Theo phán xử này thì các ông Mến, ông Cường, ông Hoàn và ông Rô tự phân chia với nhau về số tiền của từng người phải chấp hành án trong số tiền 96.393.000 đồng mà Tòa án đã quyết định phải trả.

Trong một biên bản giải quyết việc thi hành án giữa Chấp hành viên Huỳnh Văn Sáng với các ông Mến, ông Hoàn, ông Rô, các ông này đều trình bày là mỗi người phải trả 1/4 của số tiền 96.393.000 đồng và không đồng ý với việc cưỡng chế 156m2 đất của ông Mến.

Những người biết việc này đều đặt vấn đề vướng mắc là tại sao “ông Sáng” không chấp nhận việc tự nguyện thi hành án của các ông có nghĩa vụ phải chấp hành bản án mà cứ phải cưỡng chế bán đất của một người? Ông Sáng “làm oai” hay vì một nguyên nhân tế nhị khó nói?

Việc Chấp hành viên không chấp nhận sự tự thỏa thuận của các ông Mến, ông Cường, ông Rô về phần tiền của từng người đối với số tiền phải thi hành án đã là không đúng với quy định tại khoản 1, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Khoản 1 Điều 9 Luật Thi hành án dân sự có quy định như sau: “Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án”.

Sai phạm khác là: Trong Luật Thi hành án dân sự không có điều luật nào quy định cưỡng chế bán đấu giá quyền sử dụng đất của người phải thi hành án này để làm nghĩa vụ thi hành án của người khác. Do đó việc Chấp hành viên Huỳnh Văn Sáng kê biên bán đấu giá quyền sử dụng 156m2 đất của ông Lâm Hồng Mến để thi hành nghĩa vụ của các ông Nguyễn Quốc Cường, Trần Quốc Hoàn, Phan Văn Rô là hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật Thi hành án dân sự. Hành vi cố ý này đã vi phạm Điều 296 Bộ luật Hình sự gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Lâm Hồng Mến.

3. Báo Người cao tuổi có bài Trở lại vụ án Hoàng Kim Đồng và Lê Hồng Phúc “đào ngũ cướp của giết người”: Phát hiện bản án có lỗi chính tả sau 29 năm tuyên án. Bài báo phản ánh: Nhà báo Nghiêm Thị Hằng là đại diện ủy quyền của bà Trần Thị Trâm, 86 tuổi, sinh năm 1925 CMND số 310142591, do Công an Tiền Giang cấp ngày 13 tháng 2 năm 2004.

Bà Trâm cư ngụ tại ấp Vạn Thành, xã Bình Nghị huyện Gò Công Đông, Tiền Giang, là mẹ đẻ của Bùi Thị Phương Lan, nạn nhân trong vụ án Hoàng Kim Đồng và Lê Hồng Phúc “Đào ngũ cướp của giết người” ngày 13-3- 19980, TAQS Quân khu 7, xử tại Bản án số 147HS2 ngày 13-11-1982 tuyên gia đình nạn nhân được hỗ trợ 6.350 đồng mai táng phí, tại thời điểm tháng 11 năm 1982.

Bà Trần Thị Trâm có giấy ủy quyền số 69 ngày 11-7-2011 của Phòng Tư pháp huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, ủy quyền cho nhà báo Nghiêm Thị Hằng là đại diện ủy quyền không có thù lao, giúp bà Trâm làm các thủ tục pháp luật, giải quyết liên quan đến các cơ quan Tòa án và Cơ quan thi hành án các cấp, làm đơn đề nghị Cơ quan thi hành án Quân khu 7, ra quyết định thi hành án với Trung đoàn 52, Sư đoàn 320, Quân đoàn 3 phải thực hiện phần dân sự của bản án 147 HS2 kéo dài 29 năm chưa thi hành án, hỗ trợ phần mai táng phí cho gia đình nạn nhân số tiền theo phán quyết của Tòa 6.350 đồng, đề nghị trả lãi suất chậm thi hành án qua 29 năm theo quy định pháp luật.

Theo phiếu trả đơn ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Cơ quan Thi hành án Quân khu 7, thì “Giấy ủy quyền là bà Trần Thị Trâm, nhưng tại trang 3 bản án số 147 HS2 lại ghi- cháu Bùi Thị Phương Lan… cha Bùi Văn Búi, mẹ Trần Thị Tâm. Như vậy Người ủy quyền với người có tên trong bản án không trùng khớp. Việc điều chỉnh nội dung trong bản án đã có hiệu lực thuộc thẩm quyền của Tòa án. Cơ quan Thi hành án trả lại đơn yêu cầu thi hành án của gia đình nạn nhân Bùi Thị Phương Lan.

Sau khi nhận được bản sao y bản số 57, do ông Đại tá, chánh án Huỳnh Hoàng Giang kí, cấp ngày 22-7-2011 để thi hành án, gia đình nạn nhân mới biết tên bà Trần Thị Trâm mẹ đẻ của nạn nhân Bùi Thị Phượng Lan, bị ghi sai trong bản án 147 HS2 là Trần Thị Tâm, đây là một trong những nguyên nhân không thể tìm ra bà Trần Thị Tâm (không có con người thực) để thi hành phần dân sự Bản án 147 HS2 kéo dài đã 29 năm.

Sau khi phát hiện nguyên nhân này, đại diện ủy quyền của bà Trâm, đã có đơn đề nghị Công an xã Bình Nghị, thẩm tra và xác minh, chứng nhận tên thật của bà Trần Thị Trâm theo hồ sơ quản lí hộ tịch hộ khẩu ở địa phương.

Ngày 6 tháng 10 năm 2011, Phó trưởng Công an xã Bình Nghị, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang là ông Lê Thành Lượng, kí tên và đóng dấu xác nhận :

“Bà Trần Thị Trâm và bà Trần Thị Tâm sinh năm 1925 ngụ hộ số 992 ấp Vạn Thành xã Bình Nghị, Gò công Đông, tỉnh Tiền Giang là một người”.

Để tạo điều kiện cho gia đình bà Trần Thị Trâm có đủ giấy tờ pháp lí, đề nghị cơ quan thi hành án ban hành Quyết định thi hành bản án 147HS2, đơn của gia đình nạn nhân đã được gửi Tòa án Quân sự Quân khu 7 ngày 9-10-2011, đề nghị xem xét trên cơ sở pháp luật, thấu đáo giữa lí và tình, tạo điệu kiện chỉnh sửa tên bà Trần Thị Tâm trong bản án 147 HS2 do tòa án ghi sai, trở về tên đúng của bà Trần Thị Trâm, để cơ quan Thi hành án có cơ sở giải quyết đơn yêu cầu thi hành án của gia đình nạn nhân .

Đại diện ủy quyền của gia đình má Trâm, nhà báo Nghiêm Thị Hằng cho biết, 2 năm qua chị đã tự bỏ kinh phí cá nhân, phải nhiều lần từ Hà Nội vào TP Hồ Chí Minh và tỉnh Tiền Giang ăn chực nằm chờ nhiều ngày kéo dài, để giúp gia đình má Trâm “gõ cửa” cơ quan TAQS, Cơ quan Thi hành án Quân khu 7, đề nghị ra quyết định thi hành phần án dân sự bản án 147 HS2, hỗ trợ mai táng phí cho gia đình nạn nhân Bùi Thị Phương Lan. Nhà báo Nghiêm Thị Hằng mong mỏi Tòa án quân sự Quân khu 7 nhanh chóng chỉnh sửa, trả lại tên đúng cho bà Trâm, để Bản án 147 HS2 được thực hiện phần án dân sự sau 29 năm kéo dài.



File đính kèm