I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Tiền phong online phản ánh: Vụ việc kỹ sư Lê Văn Tạch tố giác Toyota Việt Nam cung cấp các sản phẩm có lỗi nghiêm trọng ra thị trường đang được các cơ quan công luận tiếp tục theo dõi. Luật sư Phạm Văn Phất (Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh, được kỹ sư Tạch mời tư vấn pháp luật) cho biết, sáng 23-9, kỹ sư Tạch đã có buổi làm việc với một số cán bộ công an.
Trao đổi với PV Tiền Phong, luật sư Phất cho rằng, ông chưa nắm được cụ thể Cty Toyota đề nghị Bộ Công an giải quyết nội dung gì, nhưng qua trình bày của kỹ sư Tạch, ông thấy các nội dung làm việc giữa cán bộ Bộ Công an với kỹ sư Tạch không có yếu tố hình sự, không thuộc thẩm quyền của cơ quan công an.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Tổng cục Thống kê công bố giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tăng 0,82% so với tháng 8. Đây là tốc độ tăng thấp nhất trong 1 năm qua, tiếp tục đà chậm lại của tháng 8.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, CPI tháng 9.2011 so với tháng 12.2010 đã tăng 16,63% (còn so với tháng 9.2010 tăng 22,42% và bình quân 9 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước tăng 18,16%). Tính trung bình 20 năm qua thì 3 tháng cuối năm CPI tăng 1,7%. Nếu 3 tháng cuối năm nay tăng bằng với mức trung bình trên thì cả năm sẽ tăng khoảng 18,5%, vượt xa so với mục tiêu đề ra đầu năm, vượt cả mục tiêu điều chỉnh gần nhất và cao thứ hai trong 20 năm qua.
Báo cũng phản ánh: "Nhập khẩu vàng" - liều thuốc cắt cơn hiệu nghiệm nhất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hết tác dụng khi giá vàng trong nước cuối tuần qua vẫn bỏ xa giá thế giới tới khoảng 3,5 triệu đồng/lượng. Sự đuối sức của chính sách trong cuộc chạy đuổi với thị trường đã bộc lộ rõ rệt và để lại nhiều hệ lụy.
Mỗi lần giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới, NHNN lại cho nhập khẩu vàng để điều tiết bởi lập luận, giá cao hơn là do nguồn cung không đủ. Liều thuốc này đã đắc dụng khi giảm nhiệt thị trường ở một vài thời điểm. Tuy nhiên lần này, thuốc đã nhờn khi độ vênh giữa giá vàng trong nước và giá thế giới được kéo quá xa như nói trên. Điều đó cũng chứng minh, cung vàng trong nước không hề khan hiếm. Bản chất thực sự của vấn đề là cái bắt tay "đỡ lưng giá vàng" của những nhà đầu tư tổ chức để "neo" giá, hòng giảm lỗ do đã mua giá cao trước đó. Những nhà đầu tư và người dân đang "say vàng" rất dễ bị sập bẫy bởi niềm tin "chỉ tăng không giảm" mà vàng đã duy trì lâu nay. Như vậy có thể khẳng định, nếu NHNN tiếp tục cấp quota nhập khẩu vàng thì điều mang lại duy nhất là... tốn ngoại tệ chứ không thể giải quyết được gốc rễ vấn đề. Đó là chưa kể, việc xuất USD nhập vàng còn dẫn đến hàng loạt các hệ lụy khác như nhập siêu, tỷ giá, lãi suất... gây tác động tiêu cực đến lạm phát, đến nền kinh tế. Câu hỏi đặt ra hiện nay là, nếu giá vàng trong nước và thế giới vẫn duy trì khoảng cách trong tuần này, NHNN sẽ sử dụng biện pháp gì để điều tiết thị trường khi "liều thuốc" gần như duy nhất là cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng đã không còn hiệu nghiệm?
Hiến kế thì nhiều nhưng trả lời câu hỏi trên thì các chuyên gia, các nhà đầu tư đều bó tay vì lâu nay, việc điều hành, quản lý thị trường vàng của NHNN hầu như chỉ dựa vào các biện pháp hành chính. Trong đó, cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng được coi là "kháng sinh liều cao" để giải quyết căn bệnh thị trường. Nên khi thuốc này hết tác dụng, có cảm giác, cơ quan quản lý rơi vào bế tắc. Không cho nhập khẩu vàng thì sợ cảnh điên loạn, xếp hàng mua vàng tái diễn. Cho nhập khẩu thì đối mặt với nỗi lo chảy máu ngoại tệ mà không giải quyết được vấn đề. Bối cảnh "tiến thoái lưỡng nan" này đã bộc lộ rõ sự lúng túng trong quản lý điều hành cũng như sự đuối sức của chính sách so với diễn biến thị trường. Lỗi này bắt nguồn từ nghịch lý giữa sự lề mề, chậm trễ của chính sách với độ thanh khoản cực cao của thị trường vàng. Chúng ta đều biết, vàng biến động từng ngày, từng giờ nhưng Nghị định quản lý hoạt động kinh doanh vàng sau nhiều lần bàn cãi, lấy ý kiến, trình... đến giờ này vẫn chưa ban hành. Đề án huy động vàng từ dân cũng mới dừng lại ở việc tuyên bố.
Lịch sử mỗi lần bong bóng vỡ, giá vàng giảm khoảng 30%/lần. Theo các chuyên gia vàng trên thế giới, có nhiều dấu hiệu cho thấy, đây là thời điểm bong bóng vàng năm 2011 vỡ. Nếu đi đúng dự báo này, giá vàng sẽ còn giảm khoảng 10% nữa. Ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho sự thua lỗ của những người dân đã mua vàng giá cao do thị trường bị thao túng cũng như hàng loạt các hệ lụy mà vàng gây ra trong thời gian qua?
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Tiền phong online có bài Nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc: Giáo dục pháp luật và chế tài đều yếu. Bài báo phản ánh: Tình trạng phong bì, mãi lộ trong xã hội, giết người quá dễ dàng… là biểu hiện pháp luật không được tôn trọng, gây nguy hại lâu dài cho xã hội, nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc nhận định.
Việc chấp hành pháp luật ở ta lâu nay ra sao, theo ông?
Tôi hằng ngày đọc báo Pháp luật, thấy bây giờ người ta giết người với những lý do quá dễ dàng, đến mức dễ dãi. Có câu chuyện, một thanh niên đánh nhau, giết người, anh ta thì sống nhưng bị thương. Chỉ đến lúc nằm trên xe cứu thương, đau quá anh ta mới tự hỏi về hậu quả mà mình sắp phải nhận. Tôi trăn trở về sự giáo dục pháp luật cho giới trẻ, nhiều thanh thiếu niên đang thiếu những kiến thức sơ đẳng về quan hệ giữa người với người và trách nhiệm của con người với con người, của con người với tư cách là một cá nhân với xã hội, họ không hề biết gì cả về pháp luật. Đến khi gây án thì mới giật mình biết sợ nhưng đã quá muộn.
Như ông nói, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật của chúng ta chưa được coi trọng?
Tôi ví dụ, bản tin đưa về tai nạn giao thông lại phát ở chương trình buổi sáng sớm, khi đó chắc nhiều người đang ngủ. Tôi cho rằng, việc giáo dục pháp luật của chúng ta yếu, cũng có thể nói hầu như chưa làm, hoặc làm chưa hiệu quả. Tôi nghĩ, anh lái xe cứ mỗi ngày một lần nghe, xem những thông tin về tai nạn giao thông thì chắc chắn phải giật mình, lái xe có ý thức hơn. Rõ ràng xã hội ta đang có những vấn đề mà chưa có những người có trách nhiệm thực sự lo lắng. Trách nhiệm ở đâu? Hay chẳng ai có trách nhiệm về những chuyện này? Điều này do con người sinh ra đã như thế hay do thiếu giáo dục, đã thành nếp sống của chúng ta?
Ngoài tuyên tuyền, giáo dục, muốn pháp luật được thực thi phải có chế tài, có con người chấp pháp?
Đây cũng là điều tôi lo và suy nghĩ. Chế tài là dấu hiệu không thể thiếu được của pháp luật và có vẻ cũng nghiêm lắm. Nhưng con người rất quan trọng. Ví như tình trạng mãi lộ của cảnh sát giao thông, hôm trước tôi vào Thanh Hóa, khi thấy cảnh sát giao thông dừng xe đang chạy và như có gì sơ suất, lái xe vội móc túi đưa tiền rồi đi. Tôi mới suy nghĩ, à, mấy anh lái xe chỉ băn khoăn trên đường có cảnh sát hay không, họ ra hiệu cho nhau xem phía trước có cảnh sát không. Như vậy là lái xe lo đối phó cảnh sát chứ không phải lo cho tính mạng của những hành khách trên xe. Khi đối phó được cảnh sát rồi thì việc đảm bảo an toàn cho những người ngồi trên xe ra sao? Từ đó cho thấy môi trường xã hội của chúng ta chưa đủ lành mạnh để đảm bảo cho việc giữ gìn an toàn giao thông.
Như vậy là có nhiều nơi pháp luật chưa với tới, nên mới có đất cho tham nhũng, phong bì bôi trơn?
Không phải ngẫu nhiên mà ta nói hoàn thiện pháp luật, nhưng mà đúng là chúng ta đang có tình trạng có rất nhiều luật nhưng cuối cùng lại vẫn “luật rừng”. Phải thấy rằng cuộc sống của chúng ta hôm nay là hậu quả của một cách sống, cách quản lý xã hội. Mỗi người có một băn khoăn, nếu tin rồi sẽ tốt đẹp hơn thì cũng không dám, nói sẽ xấu hơn à, thì cũng chưa dám. Có người cũng hỏi tôi, nếu cứ như thế này rồi thì sẽ đến đâu?
Thế còn chế tài, chế tài trong pháp luật đã nghiêm chưa?
Chế tài của chúng ta không nghiêm vì chính những người thực hiện chế tài cũng không nghiêm. Những biểu hiện nhũng nhiễu không chỉ thấy ở cảnh sát giao thông mà còn xuất hiện ở ngay trong ngành tư pháp, thi hành án, có chuyện mặc cả với nhau, có khi còn 50/50. Đối với người dân thì những chuyện như thế này cứ dần dần tích lũy, người dân suy nghĩ nhiều về cách quản lý xã hội, nghĩ đến ông cán bộ nhà nước. Tình trạng gia tăng sự chống lại người thi hành công vụ cũng là một biểu hiện mà đó không còn là sự bột phát nữa.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Theo Văn phòng Chính phủ, tính đến giữa tháng 9 này, các bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền và trình Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đơn giản hóa 3.248 thủ tục hành chính, đạt 68% trong tổng số thủ tục hành chính phải đơn giản hóa. Thanh tra Chính phủ và các Bộ Tư pháp, GTVT, Nội vụ, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng, NN&PTNT, Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Thông tin và Truyền thông được đánh giá hoàn thành tốt việc thực thi đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Tuy nhiên, theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 về điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 của Quốc hội, cơ quan này mới chỉ đưa vào chương trình sửa đổi, bổ sung 12 luật, ba pháp lệnh có liên quan đến đơn giản hóa thủ tục hành chính. So với yêu cầu, còn thiếu 15 luật và năm pháp lệnh. Để tiếp tục đưa công tác cải cách thủ tục hành chính đi vào chiều sâu, Văn phòng Chính phủ đề nghị Bộ Tư pháp báo cáo Quốc hội xem xét, bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 của Quốc hội việc sửa thêm một số luật, pháp lệnh.
Báo cũng có bài “Để mặc con nợ né thi hành án”. Bài báo phản ánh: Bà Lưu Thị Lựu (TP Pleiku, Gia Lai) nợ bà Phạm Thị Hồng Hà (cùng địa phương) hơn 300 triệu đồng tiền hụi. Bản án sơ thẩm tháng 9-2009 của TAND TP Pleiku và bản án phúc thẩm tháng 6-2010 của TAND tỉnh Gia Lai đều tuyên xử bà Lựu phải trả số tiền này nhưng bà không tự nguyện thi hành.
Ngày 21-3-2011, từ đơn yêu cầu thi hành án (THA) của bà Hà, Chi cục trưởng Chi cục THA Dân sự TP Pleiku đã ra quyết định THA và giao cho chấp hành viên Diệp Tự Nhâm thực hiện. Thế nhưng từ đó đến nay chấp hành viên vẫn chưa tổ chức THA. Ngược lại, trong một vụ án khác thì bà Lựu lại là chủ nợ, tức là người được THA. Theo quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự tháng 1-2010 của TAND TP Pleiku, bà Lựu được bà Phan Thị Hồng (cũng cùng địa phương) trả hơn 21,3 tỉ đồng. Do việc THA đối với bà Hồng có phần phức tạp nên sau đó Cục THA tỉnh nhận tổ chức thi hành quyết định này.
Ngày 16-6-2011, Cục THA tỉnh giải quyết cho bà Lựu được nhận 630 triệu đồng. Trước khi chi trả tiền cho bà Lựu, Cục giao cho Chi cục THA TP Pleiku và chấp hành viên Nhâm theo dõi việc THA. Tuy nhiên, ông Nhâm đã không báo cáo sự việc, không có biện pháp để yêu cầu bà Lựu trả một phần tiền cho bà Hà. Cho rằng chấp hành viên Nhâm đã làm không đúng quy định, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của mình, bà Hà đã khiếu nại. Trong văn bản trả lời ngày 27-7, Chi cục THA TP Pleiku cho biết “khiếu nại của bà Hà không có cơ sở”. Bởi lẽ ngoài đơn trình báo về tài sản, bà Hà không có tài liệu, chứng cứ thể hiện bà đã tiến hành xác minh tài sản và cũng không có văn bản nào thể hiện bà Hà không tiến hành xác minh được.
Khoản 1 Điều 44 Luật THA dân sự quy định: “Nếu người được THA đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện THA của người phải THA thì có thể yêu cầu chấp hành viên xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản…”. Theo điều luật này, có thể bà Hà đã chưa làm đầy đủ việc tự xác minh và yêu cầu cơ quan THA xác minh tài sản của bà Lựu. Nhưng khi đang thụ lý hồ sơ của bà Hà và cũng nắm được thông tin bà Lựu vừa nhận được tiền THA, chấp hành viên buộc phải có trách nhiệm cấn trừ vào số tiền đó để bà Hà không bị thiệt.
Tại buổi làm việc với bà Hà vào ngày 6-9, ông Nguyễn Thứ Trưởng, Phó chi cục trưởng Chi cục THA TP Pleiku, thừa nhận: “Có sai sót trong khâu THA do lỗi chủ quan của chấp hành viên”. Người chủ trì buổi làm việc là ông Phạm Văn Đề, quyền Trưởng phòng Kiểm tra, Giải quyết Khiếu nại Tố cáo - Cục THA tỉnh Gia Lai, cho biết: “Tôi ghi nhận ý kiến của các bên để báo cáo lãnh đạo xem xét và có hướng xử lý cụ thể”.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Thành lập Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương. Bài báo phản ánh: Bộ Chính trị vừa ban hành Quyết định số 39-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương nhiệm kỳ 2011- 2016. Theo quyết định này, Ban chỉ đạo gồm 15 thành viên do đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước làm Trưởng Ban. Các đồng chí Nguyễn Xuân Phúc - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ; Lê Thị Thu Ba - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Nguyễn Văn Quyền - Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng làm Phó Trưởng Ban. Trong đó, đồng chí Nguyễn Thị Thu Ba làm Phó Trưởng Ban Thường trực.
Ngoài ra, Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương nhiệm kỳ 2011-2016 còn có 11 ủy viên là các đồng chí: Uông Chu Lưu - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội; Trần Đại Quang - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Trương Hòa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TAND Tối cao; Nguyễn Hòa Bình - Ủy viên Trung ương Đảng, Viện Trưởng VKSNT Tối cao; Hà Hùng Cường - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Nguyễn Thành Cung - Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Đào Việt Trung - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Nguyễn Văn Hiện - Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội; Phan Trung Lý - Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội; Phạm Quốc Anh - Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam; Lê Thúc Anh - Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Ngoài ra, còn một số ủy viên chuyên trách khác, nhân sự ủy viên chuyên trách sẽ do Trưởng Ban Chỉ đạo quyết định sau khi thống nhất với Ban Tổ chức Trung ương.
Phiên họp thứ nhất của Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương sẽ họp Phiên thứ nhất vào 5/10 tới.
4. Thời báo kinh tế Sài Gòn online có bài Bước lùi của chính sách. Bài báo phản ánh: Sau nhiều lần bị trì hoãn, đến nay dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi mới được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trình Chính phủ cho ý kiến trong phiên họp Chính phủ tháng 9 để chuẩn bị trình Quốc hội vào kỳ họp Quốc hội tháng 10-2011. Mục tiêu chính sách của Luật Bảo hiểm tiền gửi là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, trong dự thảo luật, lại có nhiều quy định điều chỉnh chính sách ở mức độ thấp hơn quy định hiện hành, không phù hợp với xu hướng hội nhập và phát triển trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ.
…Theo dự thảo luật đã được Chính phủ cho ý kiến trong phiên họp ngày 15-9 vừa rồi, Bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính trực thuộc ngân hàng trung ương, do Thống đốc quyết định thành lập, nhằm thực hiện chế độ chính sách về bảo hiểm tiền gửi, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được miễn các loại thuế và do NHNN phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động.
Với địa vị pháp lý phụ thuộc hoàn toàn như vậy, tổ chức bảo hiểm tiền gửi như một loại quỹ thực hiện chính sách công của Nhà nước, tương tự như Quỹ bảo hiểm xã hội, nhưng lại có nguồn thu chính là thu phí của các tổ chức tín dụng. Nói cách khác, tổ chức bảo hiểm tiền gửi chỉ là một quỹ chi trả đơn thuần, không hề có quyền hạn mở rộng như thuyết minh về mô hình bảo hiểm tiền gửi của NHNN. Với phạm vi, quyền hạn rất hạn chế, tổ chức này không có đủ công cụ để thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Việc quy định bảo hiểm tiền gửi trực thuộc NHNN đã chứng tỏ xu hướng tập trung quản lý nhà nước của NHNN hơn là thực hiện các chức năng của một ngân hàng trung ương. Nếu xu hướng này được khẳng định sẽ dẫn đến sự chồng lấn và kém hiệu quả trong quản lý vì vừa là ngân hàng trung ương có thẩm quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các tổ chức tín dụng, lại vừa bảo hiểm cho chính các khoản tiền gửi là trách nhiệm của các tổ chức tín dụng. Nguồn vốn nhàn rỗi thu về từ chính sách bảo hiểm tiền gửi lại được mua trái phiếu chính phủ, tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN. Với một chính sách khép kín như thế, rõ ràng NHNN đang “ôm trọn” toàn bộ rủi ro của hệ thống ngân hàng mà không rõ trách nhiệm cuối cùng thuộc về ai. Dự thảo luật quy định người được bảo hiểm tiền gửi có quyền được nhận tiền bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn, nhưng lại chưa quy định trách nhiệm pháp lý cuối cùng trong trường hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán.