Điểm tin báo chí sáng ngày 22 tháng 9 năm 2011

26/09/2011
Trong buổi sáng ngày 22/9/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Việt Nam Plus đưa tin: Chiều 21/9, tại Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã trao Nghị quyết số 222 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm ông Nguyễn Đức Hiền, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội giữ chức Trưởng ban Dân nguyện nhiệm kỳ Quốc hội 2011-2016.

2. Trang Gafin.vn bài GDP cả nước 9 tháng tăng 5,76%. Bài báo đưa tin: Con số này thấp hơn 0,76 điểm phần trăm so với mức tăng GDP 9 tháng năm 2010. Theo số liệu vừa công bố của Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2011 ước đạt 406.308 tỷ đồng (tính theo giá so sánh 1994), tăng 5,76% so với cùng kỳ 2010. Tính theo giá thực tế, GDP 9 tháng ước đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng.

Tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng là 2,39%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,62% và khu vực dịch vụ tăng 6,24%.

Trước đó, theo số liệu 6 tháng đầu năm của Tổng cục Thống kê, GDP cả nước tăng 5,57% so với cùng kỳ 2010. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm do Chính phủ đặt ra là 6%.

3. Báo điện tử Chính phủ đưa tin: Sáng ngày 21/9, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Phó  Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã làm việc với Chánh án Tòa án NDTC Trương Hòa Bình và Viện trưởng Viện Kiểm sát NDTC Nguyễn Hòa Bình về công tác phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ KT-XH.

Phát biểu tại cuộc làm việc, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng công tác phối hợp giữa các cơ quan trong hơn một năm qua đạt được kết quả tích cực và đây là nền tảng quan trọng để việc thực hiện Quy chế phối hợp giữa ba cơ quan đi vào cuộc sống ngày càng hiệu quả hơn, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển KT-XH của đất nước.

Theo Phó Thủ tướng, Quy chế phối hợp công tác giữa cơ quan hành pháp và tư pháp có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn, góp phần khắc phục những tồn tại như chậm gửi các văn bản để tham khảo, đóng góp ý kiến, chưa chủ động đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề người dân quan tâm …

Bên cạnh đó, trước yêu cầu của công tác cải cách tư pháp hiện nay, nhất là việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đang đặt ra, đòi hỏi công tác phối hợp giữa Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải được tiếp tục nâng cao hơn nữa, đáp ứng yêu cầu hiện nay. Đối với những vấn đề khác như bảo đảm cơ sở vật chất, chính sách cán bộ, kinh phí hoạt động, đào tạo bồi dưỡng… cần được tiếp tục thảo luận, đề xuất với cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định nhằm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan ngày càng hiệu lực, hiệu quả.

4. Báo VnEpress có bài Quảng Nam trần tình về 410 tỷ đồng xây tượng đài mẹ Việt Nam. Bài báo phản ánh: Chiều 20/9 họp báo giải thích nguyên nhân nâng vốn đầu tư xây dựng cụm tượng đài lớn nhất Việt Nam, ông Đinh Hài, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam cho rằng, công trình nhiều lần điều chỉnh thiết kế, quy mô, thay đổi chất liệu để xứng tầm quốc gia; thời gian thi công kéo dài đến gần 6 năm; biến động về giá vật tư, nhân công, vật liệu. Toàn bộ những thay đổi này đều được các Bộ, ngành Trung ương giám sát, theo dõi chặt chẽ.

Mặc dù Chính phủ chưa hỗ trợ đầu tư quần thể tượng đài mẹ Việt Nam anh hùng, thế nhưng hiện tại công trình vẫn tiếp tục triển khai theo hướng vừa thi công vừa vận động kinh phí.

Theo ông Hài, ban đầu Quảng Nam dự định chỉ xây cụm tượng đài quy mô cấp tỉnh. Sau đó, tỉnh lại chỉ đạo cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam điều chỉnh vốn từ 55 tỷ lên đến 81 tỷ đồng. Trong đó, trung ương cấp 50 tỷ đồng, tỉnh chi 20 tỷ đồng và nguồn đóng góp từ các đoàn thể, tổ chức xã hội là 11 tỷ đồng. "Tháng 11/2007 xét thấy tượng đài mang tầm ý nghĩa nhân văn thể hiện lòng tri ân mẹ VN anh hùng, Thủ tướng đồng ý đưa vào danh sách công trình văn hóa cấp quốc gia và yêu cầu tỉnh Quảng Nam xem xét tính toán lại tổng mức đầu tư cho phù hợp với quy mô", ông Hài nói.

Trở thành công trình văn hóa cấp quốc gia, tượng đài sẽ tượng trưng cho 50.000 bà mẹ VN anh hùng trong cả nước, đáp ứng 3 yêu cầu là có giá trị nghệ thuật cao, bền vững vĩnh cửu và hoành tráng. Đầu năm 2008, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đề nghị tỉnh Quảng Nam tính toán lại tổng mức đầu tư để phù hợp với quy mô mới. Sau đó các Bộ thẩm định dự án, Quảng Nam đã điều chỉnh, bổ sung vốn đầu tư lên 411,2 tỷ đồng.

Hiện, Hội đồng nghệ thuật đã nghiệm thu xong 8 trụ huyền thoại và 80% tượng mẫu bà mẹ VN anh hùng, đồng thời chuyển các phác thảo 1/1 đã nghiệm thu vào TP Tam Kỳ để tiến hành thi công đục đá.

Hiện cả nước còn hơn 44.000 bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống. Hầu hết các mẹ tuổi đã cao, sức yếu, nhiều mẹ cuộc sống còn khó khăn, sống neo đơn lúc tuổi già. Do đó nhiều người cho rằng dành hơn 410 tỷ đồng để xây tượng đài là quá lãng phí, mà nên dùng số tiền này chăm sóc những bà mẹ anh hùng còn sống.

5. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Vụ "một luật sư bị tố cáo hiếp dâm": Liên đoàn Luật sư đang xác minh đơn tố cáo. Bài báo phản ánh: Ngày 19-9, một đại diện Ban Chấp hành Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho biết liên đoàn đã chỉ đạo Ủy ban Giám sát đạo đức nghề nghiệp và Khen thưởng kỷ luật xác minh làm rõ đơn tố cáo của chị T.T.H.P cho rằng luật sư N.T.Đ đã hiếp dâm mình.

Trước đó liên đoàn cũng đã yêu cầu Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai nhanh chóng tìm hiểu và báo cáo lại sự việc cho lãnh đạo liên đoàn. Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai Phan Thiên Vượng cho biết sau khi nhận được đơn tố cáo, ông đã trực tiếp yêu cầu luật sư Đ. báo lại sự việc và viết tường trình. Ông Vượng cho hay theo bản tường trình, luật sư Đ. không thừa nhận hành vi giao cấu với cô P. và phủ nhận toàn bộ nội dung đơn tố cáo của người bị hại. Cũng theo ông Vượng, đây là vụ việc phức tạp nên đoàn đang chờ kết luận của cơ quan điều tra mới có thể kết luận vụ việc. Trước mắt, ban chủ nhiệm đoàn vẫn chỉ đạo bộ phận nghiệp vụ tiếp tục xác minh theo đơn tố cáo.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Tầm nhìn. Net có bài Cưỡng chế, trao lại nhà 194 Phố Huế cho người trúng đấu giá. Bài báo đưa tin: Ngày 21/9, Cơ quan Công an Q.Hai Bà Trưng, Hà Nội đã tổ chức cưỡng chế, trao lại ngôi nhà 194 Phố Huế cho người mua thông qua đấu giá do Công ty CP đấu giá nhà Hà Nội tổ chức ngày 24/8/2009.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Người trúng đấu giá chưa nhận được tài sản bị khiếu nại gay gắt (?!). Bài báo phản ánh: Bản án do TAND tỉnh tuyên, thi hành án cấp huyện tổ chức bán đấu giá tài sản để thi hành án. Sau khi bán đấu giá thành, người trúng đấu giá không thể nhận tài sản bởi người có tài sản bị mang bán đấu giá khiếu nại gay gắt…

Đó là trường hợp của vợ chồng ông Ngô Đình Đạt (SN 1962) và bà Trần Thị Tâm Hiền (SN 1968), thường trú tại số 20 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 8, TP. Đà Lạt.

Để bảo đảm cho việc thi hành bản án, sau ngày 29/10/2010, ông Đạt, bà Hiền không thanh toán số tiền theo thỏa thuận thì ông Đạt, bà Hiền và bà Nguyễn Thị Lệ Liễu phải giao toàn bộ tài sản thế chấp căn nhà tại 20 XVNT và căn nhà của bà Liễu cho Cục THADS tỉnh Lâm Đồng kê biên xử lý, phát mãi theo quy định pháp luật về THADS. Ngoài ra, ông Đạt, bà Hiền còn phải thi hành một số vụ, việc tại Chi cục THADS TP. Đà Lạt nên Cơ quan này đã kê biên toàn bộ tài sản nhà, đất của ông Đạt, bà Hiền tại XVNT – là tài sản đã thế chấp để thi hành cho các bản án, quyết định có hiệu lực trước đó và ký hợp đồng bán đấu giá (ngày 25/2/2011).

Sau khi bán đấu giá thành, ông Đạt, bà Hiền có đơn khiếu nại và tố cáo chấp hành viên Chi cục THADS TP. Đà Lạt bán đấu giá tài sản không đúng quy định pháp luật; Đưa các bản án mà ông không phải thi hành làm cơ sở kê biên; Thẩm định giá không chính xác và không đúng quy định… Bởi, riêng bản thân ông chỉ thi hành một phần nhỏ, trong khi giá trị tài sản của ông lớn hơn nhiều lần. Chưa hết, Chi cục THADS TP. Đà Lạt còn không thụ lý đơn khiếu nại của ông bà với lý do hết thời hiệu. Không đồng ý với cách trả lời của Chi cục, ông Đạt, bà Hiền tiếp tục có đơn khiếu nại, tố cáo gửi Cục THADS Lâm Đồng và các cơ quan chức năng.

Trước việc khiếu nại gay gắt của ông Đạt, bà Hiền, ngày 14/3/2011, Cục THADS tỉnh Lâm Đồng có văn bản yêu cầu Chi cục THADS TP. Đà Lạt tạm dừng việc chi trả tiền đả giải quyết khiếu nại, tố cáo của ông Đạt, bà Hiền. Cũng cần nhắc rằng, liên quan đến vụ việc này, trước đó Cục THADS cũng đã có văn bản 88/THA ngày 10/1/2011, yêu cầu Chi cục THADS TP. Đà Lạt báo cáo quá trình và hướng giải quyết vụ việc nhưng Chi cục THADS Đà lạt không chấp hành việc báo cáo. Đến ngày 1/3/2011, thì Chi cục THADS Đà Lạt mới có báo cáo toàn bộ vụ việc sau khi đã bán xong tài sản thế chấp (bán đấu giá ngày 25/2/2011) mà không có ý kiến của Cục THADS tỉnh, trong khi đó khối tài sản này Cục THADS tỉnh đang thụ lý theo thẩm quyền mà TAND tỉnh Lâm Đồng đã tuyên.

Như vậy, về thẩm quyền xử lý tài sản, việc Chi cục THADS kê biên tài sản là không có gì sai trái. Tuy nhiên, việc ký hợp đồng bán tài sản khi chưa có ý kiến của Cục THADS tỉnh (Cơ quan cấp trên trực tiếp liên quan đến vụ việc) và người có tài sản cùng ngân hàng cũng chưa có ý kiến về việc Chi cục hay Cục bán theo quyết định của TAND tỉnh Lâm Đồng. Do đó, việc Chi cục THADS bán tài sản là không đúng theo trình tự thẩm quyền quy định.

Liên quan đến vấn đề này, ngày 21/6/2011, Cục THADS tỉnh cũng đã có văn bản yêu cầu Chi cục THADS TP. Đà Lạt giải quyết vụ việc theo đúng thẩm quyền án tuyên, cũng như các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản. Trong văn bản gửi Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Lâm Đồng, Cục THADS tỉnh cho rằng, trong quá trình ký hợp đồng bán đấu giá tài sản không hoàn toàn thuộc “trách nhiệm, thẩm quyền” của Chi cục THADS TP. Đà Lạt; Hơn nữa người có tài sản (ông Đạt, bà Hiền) cũng không đồng ý và khiếu nại gay gắt đối với Chi cục THADS TP. Đà Lạt và đề nghị Cục THADS vào cuộc xem xét giải quyết.

Chúng tôi cho rằng, trong vụ việc này, các cơ quan làm đúng trách nhiệm, thẩm quyền của mình sẽ bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, hạn chế khiếu nại kéo dài. Hơn nữa, pháp luật còn “ưu tiên” cho người có tài sản bị bán đấu giá quyền “chuộc” lại tài sản. Việc “ưu tiên” này là hợp tình, hợp lý, bởi một khi người bị bán tài sản “bức xúc, cố thủ” thì khó khăn cực nhiều trong THA, âu đó cũng nhằm hạn chế án khó thi hành, “tồn đọng”, bức xúc trong dân!

3. Báo Vietnamnet có bài Góp bàn về Sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam. Bài báo phản ánh: Sau hơn 10 năm vận hành, hệ thống chính quyền những năm đầu thế kỷ 21 phải đối mặt với những vấn đề mới phát sinh của nền kinh tế thị trường mà những nhà lập hiến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước chưa tiên liệu được: các yếu tố mới của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa. Thị trường và toàn cầu hóa không chỉ đòi hỏi một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mà là một nhà nước pháp quyền và xã hội công dân.

Chính vì vậy, việc sửa đổi Hiến pháp 1992 được đặt ra vào hồi đầu thế kỷ mới này. Trong quá trình nghiên cứu để sửa đổi Hiến pháp đã tồn tại hai quan điểm về mức độ sửa đổi. Những người theo quan điểm thứ nhất cho rằng, đã đến lúc đổi mới căn bản, toàn diện Hiến pháp năm 1992 vì nó được ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, rằng ở thời điểm đó, chúng ta chưa đủ điều kiện để xây dựng một bản Hiến pháp đáp ứng đòi hỏi của sự đổi mới toàn diện đất nước. Những người theo quan điểm thứ hai cho rằng, trong thời điểm hiện nay không thể đặt vấn đề sửa đổi căn bản, toàn diện, mà chỉ cần sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Khuynh hướng thứ hai đã thắng thế trong cuộc cải cách hiến pháp năm 2001 ở Việt Nam.

Hiến pháp đã không có những điều chỉnh căn bản về hệ thống chính quyền mà chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều. Hãy khoan nói về giá trị thực tế về sau của những sửa đổi hiến pháp năm 2001. Chỉ đứng trên phương diện lý thuyết, người ta cũng có thể nhận thấy những nội dung sửa đổi hiến pháp năm 2001 không đáp ứng được mục đích của việc sửa đổi.

Có lẽ, những điều mà cuộc cải cách hiến pháp năm 2001 chưa làm được đang là vấn đề mà thế hệ hiện nay phải giải quyết. Sau gần 20 năm kể từ năm 1992, thế hệ hiện nay đang đối mặt với những mục tiêu mới, nhiệm vụ mới. Không còn là hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nữa (vì đã hình thành), mà là phát triển nó trong một thế giới toàn cầu. Một chính quyền điều hành xã hội trong một bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa khác với một chính quyền điều hành xã hội trong giai đoạn chuyển đổi từ chế độ tập trung sang chế độ thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa). Bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa đòi hỏi những tiêu chí mới đối với chính quyền: chế độ pháp quyền, hành pháp năng động và trách nhiệm, tư pháp độc lập, tài phán hiến pháp, phi tập trung hóa quyền lực xuống địa phương… Thế hệ hiện tại cần một bản Hiến pháp mới để hợp hiến hóa các chuẩn mực này vì sự thịnh vương chung.

Giáo sư Donald S.Lutz ở Đại học Houston - trong một nghiên cứu về lý thuyết sửa đổi hiến pháp - đã đưa ra những định đề liên quan đến tỉ lệ sửa đổi hiến pháp và sự ổn định của Hiến pháp. Nhìn chung, các yếu tố tác động đến tỉ lệ sửa đổi hiến pháp, tính ổn định của Hiến pháp là: độ dài của Hiến pháp tính theo số từ trong Hiến pháp, tính khó khăn của quy trình sửa đổi hiến pháp, chức năng của chính quyền được quy định trong Hiến pháp, vai trò của tư pháp trong việc giải thích hiến pháp, mức độ phân biệt giữa Hiến pháp và thường luật.

Xét về mặt lý thuyết, Hiến pháp Việt Nam không có những điều kiện cần thiết của một Hiến pháp có sức sống lâu dài. Sự phân biệt giữa Hiến pháp và thường luật không rõ ràng thể hiện ở việc Quốc hội lập pháp đồng thời có chức năng lập hiến. Sự không phân biệt giữa Quốc hội lập pháp và Quốc hội lập hiến dẫn đến khả năng Quốc hội lập pháp dễ dàng sửa đổi hiến pháp. Thực vậy, thủ tục sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam không khó khăn. Hiến pháp chỉ quy định một yêu cầu duy nhất là việc sửa đổi hiến pháp phải có sự thông qua của 2/3 đại biểu Quốc hội, một tỉ lệ không khó để đạt được ở Việt Nam. Những thủ tục gây khó khăn cho việc sửa đổi hiến pháp như bầu lại Quốc hội, thành lập Ủy ban sửa đổi hiến pháp, Hội nghị hiến pháp, trưng cầu dân ý... không có trong Hiến pháp Việt Nam. Một nghiên cứu được tiến hành từ Quốc hội đã viết: “Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta hiện nay chưa có quy định nào về quy trình soạn thảo, thông qua Hiến pháp. Vì vậy, khi tiến hành xem xét, thông qua Hiến pháp, Quốc hội thường vận dụng các quy định của việc xem xét, thông qua luật.” Hơn nữa, văn phong hiến pháp có khi trừu tượng nhưng nhiều khi rất cụ thể, làm Hiến pháp không thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Hiến pháp liệt kê quá chi tiết các quyền hạn của Chính phủ. Chính phủ là định chế nhạy cảm nhất đối với các thay đổi của xã hội. Chính vì vậy, quy định quá chi tiết quyền hạn của Chính phủ trong Hiến pháp sẽ làm cho Chính phủ thụ động và Hiến pháp phải thay đổi thường xuyên. Việc chi tiết đến cả cách thức tổ chức chính quyền địa phương cũng làm cho địa phương bị động và Hiến pháp muốn tháo gỡ cho chính quyền địa phương lại cần phải sửa đổi. Ngoài ra, Hiến pháp Việt Nam khá dài, quy định quá nhiều các quan hệ xã hội: từ chính trị, kinh tế, đến văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Chính vì vậy, theo nguyên lý, Hiến pháp cần phải được sửa đổi để thích ứng với sự tiến triển của tình hình kinh tế - xã hội. Đặc biệt là Việt Nam không có hình thức sửa đổi hiến pháp không chính thức như sự giải thích hiến pháp của Tòa án, nên Hiến pháp càng phải được sửa đổi chính thức kịp thời.

Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường luôn song hành với nhau. Chính quyền không thể điều hành hiệu quả nền kinh tế thị trường nếu chính quyền đó không tôn trọng các chuẩn mực pháp quyền. Ngược lại, một nhà nước cực quyền toàn trị không thể chấp nhận kinh tế trị thường. Vì vậy, để thúc đẩy cho kinh tế thị trường phát triển, xã hội thịnh vượng hơn, những sửa đổi hiến pháp trong tương lai cần định hướng chính quyền vào các chuẩn mực pháp quyền. Căn bản của pháp quyền là sự thượng tôn quyền lực của pháp luật so với quyền lực nhà nước. Điều này dẫn đến những chuẩn mực cụ thể của pháp quyền như: tôn trọng các quyền con người, phân công quyền lực, tài phán hiến pháp, tư pháp độc lập, chính quyền minh bạch và trách nhiệm… Các sửa đổi hiến pháp trong tương lai của Việt Nam cần hướng đến việc xây dựng một cơ sở hiến pháp hoàn hảo hơn cho việc tôn trọng các quyền tự nhiên của con người, những quyền vốn có do tự nhiên chứ không do nhân tạo; cho một Quốc hội hữu hạn để hoạt động hiệu quả; cho một Chính phủ năng động và trách nhiệm; cho một chế độ phân công mạch lạc quyền lực giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án; cho một nền tài phán hiến pháp tiên tiến; cho một nền tư pháp độc lập; và cho một chính quyền địa phương chủ động.



File đính kèm