I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Dân trí phản ánh: Ngày 14/9, trong cuộc họp chi bộ để xem xét xử lý vụ ông Nguyễn Hùng Dũng- Phó BCĐ TP.Cần Thơ về Phòng, chống tham nhũng cho in chức danh trên thiệp cưới con trai, bước đầu ông Dũng đã tự nhận hình thức kỷ luật khiển trách.
Theo ông Dũng, do trong quá trình tổ chức đám cưới của con trai, gia đình ông có sự chủ quan nên đã cho in chức danh của ông bên ngoài bao thiệp, không ngờ sự vụ này đã gây ảnh hưởng không hay trong dư luận. Ông Dũng xin được rút kinh nghiệm và tự nhận hình thức kỷ luật khiển trách.
Sau khi họp kiểm điểm tại Chi bộ Đảng nơi ông Dũng sinh hoạt, Chi bộ sẽ chuyển hồ sơ sang Đảng ủy Dân chính Đảng, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy, Thường trực Thành ủy TP.Cần Thơ để các cơ quan này xem xét xử lý.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: “350 dịch vụ y tế sẽ tăng giá do mức thu viện phí hiện nay không còn phù hợp với thực tế”. Vấn đề này đặt ra tại hội nghị tham vấn ý kiến của chuyên gia để xây dựng nghị định mới thay thế Nghị định 95/CP về việc thu một phần viện phí, được tổ chức ngày 14-9 ở Hà Nội.
Lý giải về việc tăng viện phí, Bộ Y tế cho rằng, mức thu viện phí hiện nay quá lạc hậu so với mặt bằng chung. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài tình trạng thu viện phí hiện nay, nhiều bệnh viện tuyến huyện và tỉnh có nguy cơ đóng cửa? Bởi lẽ tổng mức thu của một bệnh viện tuyến huyện hiện chỉ hơn 1 triệu đồng/ngày, trong khi đó mức chi thường xuyên khoảng 5 triệu đồng/ngày. Bệnh viện tuyến tỉnh có tổng thu khoảng 10 triệu đồng/ngày, nhưng tổng chi phí đến 50 triệu đồng/ngày.
Trước đề xuất của Bộ Y tế, tại hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân chỉ rõ, việc điều chỉnh khung viện phí đối với 350 dịch vụ y tế đang áp dụng từ năm 1995 là việc làm cần thiết, nhưng phải nằm trong khả năng chi trả của người dân và phải có chính sách hỗ trợ tối đa cho người nghèo, đối tượng chính sách, không gây ảnh hưởng an sinh xã hội. Phó Thủ tướng chỉ đạo, trong quý 4-2011 Bộ Y tế trình Chính phủ về mức điều chỉnh cụ thể của 350 dịch vụ y tế, đến năm 2012 triển khai thực hiện.
Báo cũng phản ánh: trong Báo cáo cập nhật kinh tế châu Á năm 2011 được công bố hôm qua 14-9 tại Hà Nội, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng GDP năm 2011 của Việt Nam sẽ ở mức 5,8%, thấp hơn mức dự báo 6,1% mà ngân hàng này đưa ra hồi đầu năm. Mức lạm phát của Việt Nam trong năm 2011, theo ADB, sẽ ở mức khoảng 18,7%.
Dù đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ Việt Nam ổn định kinh tế nhưng ADB cũng bày tỏ mối lo ngại rằng thị trường vẫn đang nhận được những tín hiệu khác nhau về các chính sách tài chính tiền tệ và điều này đang làm giảm hiệu quả của gói chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Các nhà đầu tư, người dân sẽ có niềm tin hơn vào quản lý kinh tế nếu các chính sách và việc xây dựng chính sách mang tính rõ ràng, thống nhất, minh bạch hơn. Theo ông Tomoyuki, khôi phục ổn định kinh tế vĩ mô là ưu tiên trước mắt nhưng việc giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của tình trạng lạm phát cao đòi hỏi những nỗ lực lớn hơn trong việc cải cách cơ cấu. Những cải cách này bao gồm việc giảm dần những “nút thắt cổ chai” trong sản xuất và lưu thông, bảo đảm an toàn cho ngành tài chính, tăng cường hiệu quả đầu tư công, áp đặt những nguyên tắc thị trường đối với các doanh nghiệp lớn của nhà nước.
Năm 2012, ADB đưa ra dự báo lạc quan hơn cho kinh tế Việt Nam với mức tăng trưởng GDP khoảng 6,5% và lạm phát sẽ giảm xuống mức 11%. Tuy nhiên, ADB lưu ý dự báo này dựa trên giả định rằng Chính phủ sẽ duy trì chính sách thắt chặt tài chính và tiền tệ cho tới khi lạm phát sụt giảm, niềm tin vào tiền đồng được củng cố, dự trữ ngoại tệ tiếp tục được tăng cường.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Tuổi trẻ có bài Nhiều lao động nước ngoài không phép tại miền Trung. Bài báo phản ánh: Ngày 13-9, ông Hoàng Đình Phi - phó trưởng ban quản lý Khu kinh tế Vân Phong (Khánh Hòa) - cho biết hiện tại công trường Tổng kho xăng dầu ngoại quan Vân Phong có 190 lao động Trung Quốc, trong đó có 74 lao động không có giấy phép. Ban quản lý Khu kinh tế Vân Phong đã gia hạn cho phía nhà thầu đến ngày 15-9 phải hoàn tất thủ tục lý lịch tư pháp, để xem xét cấp giấy phép lao động.
Ngày 13-9, ông Nguyễn Văn An - phó giám đốc Sở LĐ-TB&XH TP Đà Nẵng - cho hay qua kiểm tra tình hình lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn Đà Nẵng đã phát hiện 403 lao động nước ngoài không có giấy phép lao động, chiếm gần 50% tổng số lao động nước ngoài làm việc ở đây. Theo ông An, phần lớn số lao động nước ngoài không phép là người Trung Quốc và là công nhân phổ thông, lao động thủ công làm việc ở các dự án du lịch và vui chơi giải trí, công trình xây dựng. Qua kiểm tra, sở chỉ lập biên bản nhắc nhở và đề nghị chủ đầu tư hoàn tất các thủ tục kê khai tình trạng lao động, lập danh sách đề nghị cấp giấy phép lao động từ nay đến tháng 10-2011 đối với các lao động nước ngoài đủ điều kiện.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tòa cho vào nhà, thi hành án nói không. Bài báo phản ánh: Ông Vũ Chí Công (quận 1, TP.HCM) phản ánh: Mặc dù TAND quận 2 cho phép ông được sử dụng, quản lý căn nhà tranh chấp nhưng hơn hai tháng nay ông vẫn không thể vào nhà.
Ông Công kể: Ông và vợ là bà H. có tạo lập một số tài sản chung trong đó có căn nhà tại phường Bình An, quận 2. Vợ chồng ông đã xây dựng nhà này trên lô đất do Công ty Cổ phần Phát triển Nhà Thủ Đức giao. Trước đó (vào tháng 7-2009), vợ chồng ông góp vốn với công ty để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật dự án nhà ở nhưng trên hợp đồng góp vốn thì chỉ mỗi vợ ông đứng tên. Đầu năm 2010, vợ ông tự chuyển nhượng lô đất cho một người con. Sau đó, người con đã ủy quyền cho mẹ được làm thủ tục chuyển nhượng, thế chấp… đất. Cuối năm 2010, khi phát hiện sự việc trên, ông Công đã yêu cầu công ty hủy hợp đồng góp vốn với người con, khôi phục hợp đồng đã ký với vợ ông vì đó là tài sản chung của vợ chồng ông trong thời kỳ hôn nhân. Công ty cũng đồng ý phương án này nhưng người vợ không chịu. Bà đã thay khóa cửa, không cho ông Công vào nhà nên ông phải đi thuê nhà ở.
Tháng 6-2011, ông Công khởi kiện công ty và bà H. ra TAND quận 2 với yêu cầu như đã nêu ở trên. Đồng thời, ông cũng đề nghị tòa này kê biên căn nhà và cho phép ông cùng được quyền sử dụng, quản lý căn nhà. Ngày 6-7, sau khi thụ lý vụ án, TAND quận 2 đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với nội dung là kê biên và bảo toàn tình trạng hiện có của nhà, đất bị tranh chấp; giao cho vợ chồng ông Công cùng các con sử dụng, quản lý căn nhà. Bà H. đã khiếu nại quyết định này nhưng sau đó đã bị chánh án TAND quận 2 bác đơn. Theo tòa, qua xác minh thì Công ty Cổ phần Phát triển Nhà Thủ Đức vẫn giữ nguyên ý kiến “hủy bỏ và khôi phục” như đã nêu ở trên. Mặt khác, bà H. không xuất trình được chứng cứ chứng minh nhà, đất đó là tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, bà H. vẫn không chấp hành quyết định của tòa. Phía Chi cục Thi hành án Dân sự quận 2 (THA) chỉ kê biên căn nhà tranh chấp chứ không thi hành phần ông Công được phép sử dụng, quản lý căn nhà.
Một tuần sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại nói trên thì THA có công văn đề nghị tòa giải thích căn cứ ra quyết định. THA đưa ra lý do là bà H. không đồng ý cho ông Công sử dụng, quản lý nhà nên THA không thể cưỡng chế mở khóa cửa đưa ông Công vào nhà. Tòa án cũng không giới hạn không gian nào ông Công được sử dụng. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, “tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan THA hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của tòa án”. Viện dẫn điều luật này, THA cho rằng căn nhà đang tranh chấp không thể giao cho cả hai bên tranh chấp cùng quản lý, sử dụng.
Trong văn bản trả lời, TAND quận 2 nêu: Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên là đúng quy định nhằm tạo điều kiện cho các bên có chỗ ở ổn định trong thời gian chờ tòa án giải quyết vụ án. Mọi thiệt hại xảy ra do việc áp dụng quyết định này (nếu có), nếu bà H. có yêu cầu thì tòa án sẽ giải quyết trong cùng vụ kiện. Đáng nói là đến giờ THA vẫn giữ nguyên ý kiến ban đầu. Trao đổi với PV, bà Trần Thị Hải, Chi cục trưởng Chi cục THA quận 2, vẫn khẳng định: “Không thể cho hai đương sự đang tranh chấp vào sống chung một nhà. Để quyết định của TAND quận 2 được xem xét lại, tôi sẽ đưa sự việc này ra cuộc họp liên ngành”.
Báo cũng phản ánh: Ngày 14-9, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức hội thảo lấy ý kiến góp ý hoàn thiện báo cáo rà soát Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005. Báo cáo của nhóm chuyên gia đề cập đến 91 vấn đề doanh nghiệp (DN) đang vướng mắc khi áp dụng các quy định của BLDS, đồng thời đưa ra các khuyến nghị, đề xuất khi xem xét sửa đổi, bổ sung BLDS 2005.
Một bất cập được các chuyên gia nhấn mạnh là quy định bất hợp lý về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán bởi quy định như vậy chẳng khác nào khuyến khích vi phạm. Cụ thể, khoản 2 Điều 305 quy định trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố… Trong khi thực tế, mức lãi suất cơ bản luôn thấp hơn mức lãi suất huy động vốn và thấp hơn rất nhiều so với mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng…
Quy định về lãi suất tối đa trong hợp đồng vay cũng được đánh giá là không phù hợp. Khoản 1 Điều 476 quy định “lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Liên quan đến vấn đề này, tháng 2-2010, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 07 hướng dẫn cho phép các tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất thị trườngđồng thời tạo ra hai mặt bằng pháp lý đối với hoạt động cho vay: Tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thị trường, còn các tổ chức, cá nhân khác cho vay theo lãi suất quy định tại BLDS. “Điều này tạo ra sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời vẫn không loại trừ được rủi ro của các tổ chức tín dụng do Thông tư 07 có hiệu lực thấp hơn BLDS và vì vậy hợp đồng tín dụng của họ có thể bị tuyên vô hiệu bất kỳ lúc nào” - bà Trần Thị Quang Hồng nói.
Góp ý cho báo cáo, luật sư Lê Quốc Đạt, Giám đốc Công ty Luật TNHH Trí Tuệ, cho rằng giao dịch tài sản chưa có thật hoặc tài sản sẽ hình thành trong tương lai là một vấn đề cần được BLDS quan tâm đúng mức. “Thực tế có những giao dịch bất động sản bị chiếm dụng vốn với số lượng lớn, kéo dài hàng năm trời, nhà đầu tư khi đòi được gốc qua nhiều lần hẹn và nhiều lần trả nhỏ giọt đã toát mồ hôi, không dám hoặc không còn sức để đòi lãi không kỳ hạn đã bị chủ đầu tư chiếm dụng. BLDS sửa đổi cần bổ sung các quy định mang tính nguyên tắc và các chế tài cụ thể cho các loại giao dịch tài sản chưa có thật, chưa hình thành để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên” - luật sư Đạt kiến nghị.
3. Trang web Diễn đàn doanh nghiệp có bài Doanh nghiệp "chết kẹt" vì Luật Bảo vệ môi trường. Bài báo phản ánh: Đại tá Lương Minh Thảo - Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát Môi trường (Bộ Công an) cho biết, 5 năm qua, Cục đã phát hiện xử lý tới 20.000 vụ vi phạm các quy định về môi trường, nhưng chưa khởi tố được vụ nào. Nhiều quy định trong Luật BVMT còn mơ hồ, chung chung. Đơn cử như vụ việc Cty Vedan xả nước thải ra sông Thị Vải (Đồng Nai) gây ô nhiễm nghiêm trọng cũng không thể xử lý hình sự được. Bởi Điều 92 của Luật quy định không cụ thể về căn cứ xác định khu vực bị ô nhiễm, dẫn tới cơ quan chức năng khó xác định lỗi dẫn tới tìm cơ sở để truy tố đối tượng gặp khó khăn.
Theo TS Nguyễn Văn Phương – Trưởng nhóm rà soát Luật Bảo vệ môi trường của VCCI, bất cập chính trong các văn bản luật về môi trường là chưa rõ ràng trong việc kết hợp một cách có hiệu quả giữa ba mặt của sự phát triển bền vững: kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Thực tế, có rất nhiều trường hợp DN không biết xử lý thế nào. Theo ông Phạm Chí Cường - Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, chỉ cần cảnh sát môi trường tìm đến thì chắc chắn DN luyện thép bị phạt. Hiện vẫn chưa có hướng dẫn trong việc xử lý sỉ của các lò luyện thép, mặc dù đây không phải là chất độc hại. Trong khi, nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản cũng tận dụng sỉ lò luyện thép làm đường, thì ở VN để đâu cũng bị phạt. Cũng theo ông Cường, quy định về phế liệu và rác thải vẫn chưa rõ ràng. Hiện nay, thép phế liệu chiếm 30% nguyên liệu của ngành thép. Có tới 200 container phế liệu đã nằm 2 năm ở Cảng Hải Phòng chưa biết xử lý ra sao. Nhiều DN đã phá sản vì chờ giải quyết vụ việc trên.
Bên cạnh đó, luật còn thiếu quy chuẩn kỹ thuật môi trường làm căn cứ pháp lý để phân biệt phế liệu được phép nhập khẩu và chất thải không được phép nhập khẩu. Ông Cường đưa ra ví dụ cụ thể về việc DN nhập 10 container thép phế liệu. 9 container được qua, còn 1 thì ở lại vì có nhiều dầu mỡ thừa chảy ra. Hậu quả, chiếc container này cứ nằm ở cảng vì vào không được, tái xuất 1 container lại càng khó. Trong khi đó, thông lệ quốc tế quy định khá rõ ràng, thép phế liệu được 3% tạp chất. Vì đây là nhiệm vụ còn lại của lò luyện hồ quang 5.000 độ C. Hơn nữa, theo ông Thảo, pháp luật về BVMT hiện nay cho phép thuê Cty tư vấn được làm báo cáo đánh giá tác động môi trường (BCTĐMT). Tuy nhiên, chất lượng BCTĐMT ra sao thì vẫn chưa kiểm soát được. Thực tế, nhiều Cty chỉ cần có chức năng tư vấn môi trường với vài ba cán bộ vẫn hoàn thành một số lượng đáng kể các BCTĐMT và hầu như BCTĐMT nào trình lên cũng được thông qua.
Đồng quan điểm, theo ông Phương, cần xem xét lại các tiêu chuẩn của DN được phép hoạt động dịch vụ làm BCTĐMT. Bên cạnh đó, những chế tài về trách nhiệm cũng phải đặt ra đầy đủ, khi những BCTĐMT không đảm bảo yêu cầu, gây hại cho môi trường. Ông Phương cũng chỉ ra một số điểm Luật BVMT còn bỏ ngỏ. Ví dụ các hành lang pháp lý trong việc XK rác. Hiện pháp luật về BVMT chưa hề nhắc tới. Đặc biệt hơn là xử lý rác tại các khu chế xuất. Luật BVMT không cho phép nhập khẩu rác. Nhưng rác tại các khu chế xuất không thể để mãi bên trong mà phải đưa ra bên ngoài để xử lý, trong khi đưa ra ngoài là trái luật.
Một thực trạng khác là sự chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ khiến nhiều khu vực, địa phương tình trạng ô nhiễm ở mức độ báo động nhưng không ai giải quyết được. Ông Vũ Quốc Tuấn - Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề VN cho biết, tình trạng ô nhiễm tại nhiều làng nghề đang rất nghiêm trọng. Đáng nói là cùng một vấn đề BVMT làng nghề nhưng nhiều cơ quan từ trung ương đến địa phương đều lo. Phân công trách nhiệm không rõ ràng nên ô nhiễm môi trường không được cải thiện. Từ ví dụ này, ông Tuấn cho rằng, cần có sự minh bạch, trách nhiệm giải trình của mỗi cơ quan BVMT, đồng thời phải có cơ chế khuyến khích sự tham gia của dân chúng vào hoạt động BVMT.
Báo cũng có bài “Đề xuất cấp Phiếu kiểm soát lái xe : Thêm giấy phép con”. Bài báo phản ánh: Theo đề xuất của ngành công an, Vụ Pháp chế - Bộ GTVT vừa có văn bản gửi các cơ quan chức năng xin ý kiến về việc quản lý lái xe ôtô bằng hình thức ban hành phiếu kiểm soát lái xe (KSLX). Hiệp hội ôtô vận tải VN cũng đã có công văn gửi Bộ GTVT với quan điểm không nên phát hành phiếu KSLX. Nhiều DN cho rằng, đề xuất trên vừa lãng phí, lại không giúp ích gì cho việc ngăn ngừa tai nạn giao thông (TNGT). Thậm chí, có DN còn cho rằng đó là một kiểu giấy phép con.
Khoản 5, Điều 59, Luật Giao thông đường bộ quy định “Giấy phép lái xe có giá trị sử dụng trong phạm vi lãnh thổ VN và lãnh thổ của các nước hoặc vùng lãnh thổ mà VN ký cam kết công nhận giấy phép lái xe của nhau”. Thực hiện quy định trên, trong các hiệp định vận tải ký song phương với Trung Quốc, Lào, Campuchia và Hiệp định vận tải đa phương ký giữa các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (gồm VN, Lào, Thái Lan, Campuchia, Miamar, Trung Quốc) đã công nhận giấy phép lái xe của nhau. Thực tế, VN đã ký hiệp định công nhận giấy phép lái xe của các nước ASEAN, với các nước khác trên thế giới. Giấy phép lái xe của VN đã được các nước đổi sang giấy phép lái xe của các nước sở tại và VN cũng đã đổi giấy phép lái xe của các nước sang giấy phép lái xe tương ứng của VN. Theo các chuyên gia, nếu VN ban hành phiếu KSLX kèm theo giấy lái xe là không phù hợp với giấy phép lái xe VN ký kết với các nước.
Theo thống kê của Tổng Cục đường bộ VN, số vụ tai nạn giao thông do xe máy gây ra chiếm trên dưới 72% tổng số vụ tai nạn. Do đó, nếu muốn cấp phiếu KSLX thì cần phải cấp cho cả môtô và ôtô, cũng như lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, tính đến tháng 8/2011, cả nước có khoảng 30 triệu giấy phép lái xe các loại. Và muốn cấp phiếu KSLX cho 30 triệu giấy phép lái xe trên là một công việc tốn không ít kinh phí, bộ máy và thậm chí... bất khả thi. Mặt khác, để hạn chế tình trạng TNGT, Chính phủ đã có Nghị định 34/2010/NĐ-CP và mới đây là Nghị định 33/2011/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 34/2010/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Theo đó, mức phạt tiền đã tăng lên khá cao so với các Nghị định trước đây. Cùng với việc phạt tiền, một số hành vi vi phạm còn bị xử phạt, bổ sung: tước quyền sử dụng giấy phép lái xe không thời hạn hoặc có thời hạn. Người bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn 60 ngày phải được cơ quan công an tổ chức học và kiểm tra lại Luật giao thông đường bộ trước khi nhận lại giấy phép lái xe. Người bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe không thời hạn thì sau 12 tháng mới được làm thủ tục học và sát hạch lấy giấy phép lái xe mới.
Theo Hiệp hội ôtô vận tải VN, chế tài về xử lý hành chính trong lĩnh vực giao thông hiện nay tương đối đầy đủ và nghiêm khắc. Nếu được xử lý nghiêm túc các chế tài trên chắc chắn đủ sức răn đe, đảm bảo chấn chỉnh việc chấp hành các quy định về an toàn giao thông. Việc ban hành phiếu KSLX sẽ gây tốn kém về thời gian, chi phí của Nhà nước, người dân và DN. Điều này trái với chủ trương cải cách thủ tục hành chính (Đề án 30) của Chính phủ.