I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài E ngại tính khả thi quỹ tiết kiệm nhà ở. Bài báo phản ánh: Việc thành lập quỹ tiết kiệm nhà ở được kỳ vọng sẽ giúp người nghèo có cơ hội mua nhà; tuy nhiên nhiều người e ngại tính khả thi của quỹ này và có thể sẽ khó trở thành hiện thực nếu không có sự quyết tâm từ cơ quan quản lý.
Trong buổi hội thảo bàn về những tác động qua lại giữa thị trường bất động sản và thị trường tài chính Việt Nam do Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia tổ chức mới đây, Bộ Xây dựng cho biết Thủ tướng đã đồng ý với đề án lập quỹ tiết kiệm nhà ở theo mô hình tổ chức phi lợi nhuận với mức đóng góp tự nguyện 1% tiền lương hằng tháng của người lao động. Như vậy theo tinh thần hoạt đông của quỹ thì sẽ không bắt buộc tất cả mọi người lao động phải tham gia, mà chỉ trích 1% lương từ những người có nhu cầu muốn mua nhà ở xã hội, nhà cho người thu nhập thấp. Quỹ sẽ cho các thành viên vay và dành một phần cho các doanh nghiệp xây dựng tham gia chương trình phát triển nhà ở xã hội. Những người tham gia quỹ sau này không có nhu cầu mua nhà sẽ được rút toàn bộ số tiền gốc lẫn lãi, với lãi suất 3% - 5% một năm. Hiện vẫn còn phải chờ thêm thông tin chi tiết về quy chế họat đông của quỹ này, nhưng một số người hoạt động trong ngành địa ốc vẫn đang hoài nghi về tính khả thi của đề án.
Ông Nguyễn Văn Đực, Phó giám đốc Công ty Địa ốc Đất Lành, cho rằng quỹ có tính chất tự nguyện nên khó có khả năng thu hút nhiều người tham gia, trong đó có những người không có nhu cầu mua nhà vì đã có nhà rồi. Như vậy chỉ còn lại số ít người muốn mua nhà ở xã hội mới quan tâm đến quỹ này. Hơn nữa, việc đóng 1% tiền lương là quá thấp so với tình hình giá nhà thực tế hiện nay, kể cả các dự án nhà dành cho người thu nhập thấp. Theo ông Đực, chỉ cần làm phép tính đơn giản cũng thấy một người có mức lương 5 triệu đồng/tháng. Nếu trích 1% người này sẽ đóng vào quỹ mỗi tháng 50.000 đồng, tức khoảng 600.000 đồng một năm. Nếu tham gia quỹ trong vòng 10 năm người này mới chỉ góp được 6 triệu đồng. Với số tiền góp trong 10 năm chưa mua nổi nửa mét vuông căn hộ được cho là nhà-giá-thấp hiện nay, và giả thiết phải đóng đủ 30% giá trị căn nhà thì bao giờ người này mới đủ điều kiện để mua nhà.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM, cho biết theo kinh nghiệm của các nước khác thì người tham gia quỹ phải xếp hàng từ 12 – 15 năm mới tới lượt mua một căn hộ. Chẳng hạn như Singapore người mua nhà ở xã hội cũng phải xếp hàng 12 năm. Ông Châu cho rằng quỹ tiết kiệm nhà ở không thể dùng khoản tiền của người dân đóng góp vào mà phải có thêm nguồn lực của nhà nước. Ngoài ra, quỹ cũng phải hoạt động tốt có thể thu hút thêm các nguồn quỹ từ các tổ chức phi chính phủ khác mới đủ. Bên cạnh việc huy đông vốn, công tác quản lý vận hành quỹ sao cho minh bạch, công bằng cũng là một vấn đề được nhiều người quan tâm.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Quy định mới trong xét tuyển nguyện vọng (NV) 2, 3 năm 2011 là thí sinh được rút hồ sơ trong thời hạn 15 ngày, các trường phải cập nhật cụ thể thông tin về số lượng thí sinh (TS) đăng ký xét tuyển hàng ngày trên website. Sáng kiến này được Bộ GD-ĐT cho rằng xuất phát từ quyền lợi của TS. Quy định cho TS được rút hồ sơ trong vòng 15 ngày thực tế đã gây rối cho TS lẫn các trường. Về phía các trường, để có người học và vì quyền lợi của TS, chuyện tăng người thêm việc trong việc thu nhận hồ sơ NV2 là chuyện không đáng nói. Tuy nhiên, điều đáng bàn chính là quyền lợi giữa TS ở việc rút hồ sơ và không được rút hồ sơ. Nhìn một cách tổng thể, quy định mới này có nhiều bất hợp lý. Đó là chuyện rút hồ sơ chỉ giải quyết cho một bộ phận nhỏ thí sinh tập trung ở các khu vực thành thị, khu vực gần trường. Rất nhiều TS ở tỉnh, vùng sâu vùng xa không hưởng được quyền lợi này. Một chuyên gia làm công tác đào tạo phân tích: Hơn 2/3 thí sinh của cả nước đều ở nông thôn. Vậy việc rút hồ sơ chỉ thỏa đáng quyền lợi cho một số nhỏ thí sinh ở khu vực gần trường. Hơn nữa, những TS gửi hồ sơ qua đường bưu điện khi biết mình nộp hồ sơ vào ngành đã có quá đông hồ sơ, họ sẽ bằng cách nào để rút hồ sơ?
Chuyện công khai, cập nhật thông tin về số liệu hồ sơ vào từng ngành nghề để TS nắm bắt thông tin là việc nên làm. Tuy nhiên, điều quan trọng là ở cách làm. Do đó, TS, phụ huynh sẽ không biết được thông tin mà các trường công khai sẽ thật đến đâu để lấy đó làm cơ sở tham khảo để rút hồ sơ nơi này để nộp vào nơi khác. Và sự thật - ảo trong việc công bố số liệu hồ sơ dễ dẫn đến phản tác dụng, thậm chí là có thể đánh lừa thí sinh. Thực tế hiện nay đã chứng minh: Trường ĐH Công nghiệp TPHCM nhận được rất nhiều hồ sơ (chưa tính qua đường bưu điện) và cán bộ tuyển sinh không nhập thông tin kịp, thậm chí nhập chưa chính xác đã buộc phải công khai con số không sát với thực tế. Nhiều trường như ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Nông Lâm TPHCM, ĐH Mở TPHCM không đủ tự tin để công bố hồ sơ.
Như vậy, những quy định mới trong xét tuyển NV2 năm nay khi áp dụng đã có những phản ứng ngược, thậm chí chưa có tính khoa học, đồng bộ để đạt đến mong muốn chấm dứt tình trạng TS phải chơi “xổ số” ở NV2, 3. Và chuyện hôm nay nộp, mai rút hồ sơ coi như không mang lại hiệu quả thiết thực cho TS mà thậm chí còn làm cho TS, phụ huynh hồi hộp, căng thẳng hơn.
3. Báo Thanh niên phản ánh: Cách đây 2 năm, lãnh đạo Bộ Xây dựng từng trả lời báo chí lạc quan về chương trình nhà ở cho người thu nhập thấp (TNT) và hiệu quả của những chính sách mà Bộ đề xuất (Ban hành theo Quyết định 67/2009 của Thủ tướng Chính phủ). Nhưng tổng kết mới đây của Bộ này cho thấy, thực tế chưa đạt một phần nhỏ trong cái chiến lược được vẽ ra. Số dự án (DA) nhà TNT của Hà Nội vừa qua không thể gọi là nhiều nhưng đã phát tín hiệu “ế”. Chẳng hạn, DA Đặng Xá (Gia Lâm) của Viglacera, mở bán đến 3 lần vẫn chưa hết gần 1.000 căn hộ. Lý do bị chê là vì giá cao. Với cơ chế trong QĐ 67, các DA nhà TNT được miễn từ tiền sử dụng đất cho đến thuế thu nhập doanh nghiệp, được giảm thuế giá trị gia tăng, được vay vốn ưu đãi, được hỗ trợ lãi suất… Thế nhưng trong khi suất đầu tư do Bộ Xây dựng quy định là 8 triệu đồng/m2 thì một số DA nhà TNT ở Hà Nội bán 11-13 triệu đồng/m2.
Với vai trò quản lý nhà nước, giám sát việc thực hiện chính sách, lẽ ra lập tức Bộ Xây dựng phải cho kiểm tra và công khai câu trả lời tại sao giá nhà TNT lại cao như vậy, tại sao người TNT lại không thể mua nhà TNT? Nếu nguyên nhân tại chính sách thì phải sửa, nếu tại nhà đầu tư “ăn gian” thì phải xử. Nhưng Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam (ông Nam trước đây là Tổng giám đốc Viglacera) mới đây có văn bản gửi chính quyền Hà Nội đề nghị mở rộng đối tượng mua nhà trong các DA nhà TNT. Không hiểu lý lẽ của đề xuất này là gì, nhưng rõ ràng, mũi tên của chính sách đang chệch khỏi cái đích dự định cần đến. Nhóm có thu nhập cao hơn nhóm có TNT sẽ được ưu tiên nhận hỗ trợ từ Nhà nước, người có TNT lại phải đợi chờ.
Việc phát triển các DA nhà TNT hiện nay sẽ khó mang lại thành công chính là bởi vì tính “bao cấp” của nó. Trở lại lịch sử một chút, trong cả thời kỳ bao cấp khá dài mà Nhà nước cũng chỉ bao cấp được có 30% nhu cầu nhà ở cho người thuộc diện được bao cấp. Một cơ chế mà chúng ta đã quyết tâm "giã biệt" vào năm 1994 (Nghị định 61 bán nhà thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê) thì nay đang quay lại. Quy định "tuyển người có TNT" để được thụ hưởng ưu đãi của Nhà nước đang khiến cơ chế "xin - cho" vận hành.
Để giải quyết vấn đề nhà ở cho người TNT, việc của Bộ Xây dựng không phải là bàn chuyện căn hộ đó bán cho ai mà phải thiết lập cơ chế, trong đó xóa bỏ mọi tàn dư của tư duy "xin - cho" trong hệ thống quản lý; Tạo ra những cơ chế cho người có TNT, người nghèo cơ hội về đất đai, tín dụng để họ tự giải quyết nhà ở, đừng để các nhà đầu tư có quyền điều hành đứng giữa Nhà nước và họ, thậm chí còn đứng ra điều phối các hỗ trợ của Nhà nước cho họ như hiện nay.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo điện tử Dân trí có bài Những diễn biến mới nhất vụ án 194 phố Huế. Bài báo phản ánh: Sau khi Dân trí đăng trên tải trên 10 bài báo phản ánh các dấu hiệu sai phạm trong vụ án 194 phố Huế đã nhận được sự ủng hộ, khuyến khích của đông đảo bạn đọc. Mới đây nhất, Cục Thi hành án Hà Nội đã có hồi âm bước đầu về vụ việc này.
Ông Dương Minh Công, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự TP. Hà Nội vừa ký công văn số 1376/THA, ngày 23/8/2011 gửi Báo Dân trí cho biết các cơ quan chức năng có thẩm quyền đang vào cuộc xem xét vụ án 194 phố Huế. Cụ thể: “Cục Thi hành án dân sự TP. Hà Nội nhận được thông tin từ Ban Bạn đọc của Báo Nhân Dân đăng ngày 12/8/2011 và Báo Dân trí đăng nhiều số báo về vụ việc thi hành án liên quan đến nhà số 194 phố Huế, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội, do Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng thi hành. Về nội dung các bài báo nêu, Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng đã có văn bản số 108/CCTHA – HBT ngày 15/8/2011 gửi Ban Biên tập Báo Nhân Dân và văn bản số 109/CCTHA – HBT ngày 15/8/2011 gửi Ban Biên tập Báo Dân trí, để trả lời bạn đọc về nội dung các báo đã nêu… Công văn trên nhấn mạnh hiện nay vụ việc này đang chờ ý kiến kết luận của các cơ quan có thẩm quyền, khi có kết quả chính thức sẽ phúc đáp Báo Dân trí...”.
Liên quan đến vụ việc trên, 23/8/201, ông Trịnh Ngọc Chung đã chủ động liên hệ với Ban Biên tập Báo Dân trí xin hẹn lịch làm việc về nội dung các bài Báo Dân trí đã đăng tải. Ban Biên tập Báo Dân trí đã thống nhất bố trí nhân sự trực tiếp làm việc với ông Trịnh Ngọc Chung vào 9h ngày 24/8/2011. Tuy nhiên, ông Chung không đến theo lịch hẹn và cũng không thông báo lại với tòa soạn. Thậm chí, khi tòa soạn gọi điện xác nhận, ông Chung còn thản nhiên trả lời không đến được vì “bận đi viếng đám ma”!
Liên quan đến vụ việc trên, ngày 21/7/2011, Báo Điện tử Dân trí đã có công văn số 32/BBĐ-2011 chuyển đơn của ông Hoàng Ngọc Minh (trú tại số 194 phố Huế, Hà Nội) tố cáo một số việc làm có dấu hiệu sai phạm của Cơ quan Thi hành án quận Hai Bà Trưng trong quá trình cưỡng chế thi hành án vụ 194 phố Huế đến Tổng cục Thi hành án (Bộ Tư pháp) và Cục Thi hành án TP. Hà Nội. Tuy nhiên, đến ngày 28/8/2011, Báo Dân trí vẫn chưa nhận được hồi âm của Tổng cục Thi hành án (Bộ Tư pháp).
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Vụ Dân kêu trời vì thi hành án: Chấp hành viên chỉ cần “rút kinh nghiệm”. Bài báo phản ánh: Như Báo CATP đã phản ánh, sáng 17-11-2010, một đoàn người do chấp hành viên Cục Thi hành án (THA) dân sự TPHCM Trần Văn Hảo dẫn đầu đến khu đất do gia đình bà Danh Thị Kiều Nga (ngụ đường Hoàng Văn Hợp, quận Bình Tân) quản lý sử dụng trên đường Ấp Chiến Lược, khu phố 15, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân để đo đạc theo quyết định “khẩn cấp tạm thời” của TAND thành phố. Bà Nga được yêu cầu ký vào biên bản làm việc.
Sau khi biên bản được mang về UBND phường Bình Trị Đông cho Phó chủ tịch Nguyễn Hồng Xuân ký tên đóng dấu thì phát sinh thêm dòng chữ “người phải thi hành án” ngay trên chữ ký của bà Nga. Quá bức xúc, bà Nga làm đơn tố cáo chấp hành viên Trần Văn Hảo lợi dụng chức quyền làm trái công vụ; dùng lời lẽ thô tục, thiếu văn hóa trấn áp tinh thần, đe dọa bắt người... Cục trưởng Cục THA dân sự thành phố chỉ đạo lập đoàn kiểm tra xác minh làm rõ bằng quyết định số 1431A/QĐ.TCTHA ngày 19-4-2011. Ngày 27-4-2011, chấp hành viên Trần Văn Hảo có bản giải trình thừa nhận: Do sơ suất, thư ký ghi biên bản không ghi dòng chữ “người phải thi hành án”. Sau khi đóng dấu phát hiện thấy thiếu nên ghi thêm vào biên bản.
Phó cục trưởng Cục THA dân sự TPHCM Vũ Quốc Doanh kết luận: qua kiểm tra xác minh cho thấy việc chấp hành viên Trần Văn Hảo ghi thêm dòng chữ “người phải thi hành án” sau khi bà Nga đã ký tên vào biên bản là có thật. Việc ghi thêm vào biên bản chỉ để xác định tư cách của bà Nga theo đúng quy định và không làm thay đổi nội dung làm việc ngày 17-11-2010. Đây là “thiếu sót” của chấp hành viên do sơ suất trong tác nghiệp đã “quên” không ghi rõ tư cách pháp lý của đương sự trước khi ký tên, cần “rút kinh nghiệm”. Như vậy, không có cơ sở để kết luận chấp hành viên Hảo lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
…Cho rằng Cục THA dân sự thành phố xử lý chấp hành viên Hảo theo kiểu “giơ cao đánh khẽ”, bà Nga tiếp tục khiếu nại vụ việc lên Tổng cục THA dân sự Bộ Tư pháp và các cơ quan chức năng.
3. Báo Lao động có bài Mua nhà đấu giá, một hộ dân phải đi ở trọ. Bài báo phản ánh: Sau nửa năm hoàn thành việc bán đấu giá nhà và đất tại 20 Xô Viết Nghệ Tĩnh (TP.Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng), nhưng đến nay (cuối tháng 8.2011), Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) TP.Đà Lạt vẫn không giao tài sản cho người trúng đấu giá khiến cho hộ dân này phải lang thang ở trọ.
Trong khi đó, Cục THADS Lâm Đồng có văn bản “chỉ đạo”: “Chi cục THADS TP.Đà Lạt kê biên tài sản là đúng, nhưng việc ký hợp đồng bán tài sản là không đúng theo thẩm quyền quy định...”. Việc “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” này khiến cho người dân mua được nhà và đất đấu giá càng thêm khốn đốn. Chi cục THADS TP.Đà Lạt cho biết: Ông Nguyễn Đình Hiến (45 tuổi, ngụ tại 17B đường 3/4, TP.Đà Lạt) là người trúng đấu giá (hơn 4,6 tỉ đồng) trong vụ bán đấu giá nhà và đất tại 20 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 8, TP.Đà Lạt vào ngày 25.2.2011. Việc bán đấu giá này của Chi cục THADS TP.Đà Lạt được thực hiện theo hợp đồng với Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản (DVBĐGTS) Lâm Đồng đúng theo luật định. Sau khi trúng đấu giá, gia đình ông Nguyễn Đình Hiến đã bán ngôi nhà cũ và vay mượn thêm để thanh toán toàn bộ số tiền trên cho Trung tâm DVBĐGTS Lâm Đồng.
Ngay sau đó, trung tâm này cũng đã chuyển đủ số tiền nói trên cho Chi cục THADS TP.Đà Lạt để chi cục bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá sau 10 ngày theo quy định. Thế nhưng, mãi đến nay, sau nửa năm mua được tài sản đấu giá, gia đình ông Nguyễn Đình Hiến vẫn không được bàn giao tài sản gồm một căn nhà 456m2 (một tầng hầm, một trệt và một lầu) cùng 347m2 đất (300m2 đất thổ cư và 47m2 đất nông nghiệp) tại 20 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 8, TP.Đà Lạt. Trong những tháng qua, ông Hiến đã 3 lần gửi đơn yêu cầu giao tài sản, nhưng hai cơ quan này vẫn chưa thực hiện.
GĐ Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản Lâm Đồng – ông Vũ Văn Thúc, cho biết: “Việc mua bán khối tài sản này diễn ra công khai, đúng trình tự và thủ tục theo luật định”. Cùng đó, Chi cục THADS TP.Đà Lạt cũng cho biết là việc bán đấu giá tài sản nhà và đất ở 20 Xô Viết Nghệ Tĩnh được căn cứ vào các bản án của TAND TP.Đà Lạt và TAND tỉnh Lâm Đồng; và việc bán đấu giá cũng đã có sự chứng kiến của người có tài sản – ông Ngô Đình Đạt và bà Trần Thị Tâm Hiền (chủ cũ của ngôi nhà đã bị thu hồi bán đấu giá để thi hành bản án số 19/2010/QĐST-KDTM của TAND tỉnh Lâm Đồng buộc ông Đạt và bà Hiền thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Thương Tín chi nhánh Lâm Đồng gần 3 tỉ đồng tiền nợ) – và đại diện của đơn vị có quyền lợi liên quan (Ngân hàng Thương Tín). Hơn thế, tại biên bản bán đấu giá tài sản ngày 25.2.2011, chính ông Đạt và bà Hiền cùng đại diện Ngân hàng Thương Tín (ông Lê Tấn Loan) cũng đã ký xác nhận. Tuy nhiên, sau khi việc bán đấu giá của Trung tâm DVBĐGTS Lâm Đồng được thực hiện theo hợp đồng với Chi cục THADS TP.Đà Lạt (ngày 25.2.2011), ngày 14.3.2011, Cục THADS tỉnh Lâm Đồng đã có văn bản yêu cầu Chi cục THADS TP.Đà Lạt “tạm dừng việc chi trả tiền” vì ông Ngô Đình Đạt và bà Trần Thị Tâm Hiền có khiếu nại về việc bán đấu giá. Tiếp đó, ngày 21.6.2011, Cục THADS tỉnh Lâm Đồng có công văn số 253/NV-THA gửi Chi cục THADS TP.Đà Lạt, cho rằng Chi cục THADS TP.Đà Lạt “ký hợp đồng bán tài sản là không đúng thẩm quyền” nên yêu cầu đơn vị này giải quyết mức độ thiệt hại theo Luật THADS; còn khối tài sản nhà và đất 20 Xô Viết Nghệ Tĩnh sẽ được cơ quan THADS tỉnh giải quyết theo chức năng và thẩm quyền.
Việc “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” nói trên của cơ quan chức năng tỉnh Lâm Đồng đã khiến cho hộ ông Nguyễn Đình Hiến lao đao: “Tôi đã bán nhà, gom hết tài sản và cả vay mượn mới đủ số tiền để trả cho Trung tâm DVBĐGTS Lâm Đồng trong vụ bán đấu giá này. Nay, cả nhà tôi phải đi ở trọ quả là phi lý!” – ông Hiến bức xúc.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Một luật sư bị tố lừa dối khách hàng. Bài báo phản ánh: Bà Nguyễn Thị Phương Hoa (ngụ quận 12, TP.HCM) vừa gửi đơn đến Liên đoàn Luật sư Việt Nam tố cáo luật sư PVS (Đoàn Luật sư TP.HCM) đã nhận tiền nhưng không làm hết trách nhiệm của người được ủy quyền. Hiện đơn tố cáo của bà Hoa cũng đang được Hội đồng Kỷ luật của Đoàn Luật sư TP.HCM xác minh làm rõ. Theo trình bày của bà Hoa, tháng 1-2008, bà cho vay 350 triệu đồng nhưng người mượn không trả nên bà tìm đến văn phòng luật sư S. nhờ hỗ trợ pháp lý. Theo hợp đồng, luật sư S. sẽ làm đại diện theo ủy quyền cho bà Hoa trong suốt quá trình tố tụng để đòi lại tài sản. Thù lao cho luật sư S. là 10% giá trị tài sản, tương ứng với 35 triệu đồng. Luật sư lấy trước 10 triệu đồng, 25 triệu đồng còn lại bà sẽ giao đủ khi có kết quả xét xử.
Sau đó, luật sư S. đã thay mặt bà Hoa gửi đơn khởi kiện đến TAND quận Gò Vấp và được tòa này tống đạt giấy thông báo đóng tiền tạm ứng án phí đến văn phòng luật sư. Trong thời gian này, người vay tiền đã mang 50 triệu đồng trả cho bà Hoa nên bà gọi điện thoại báo cho luật sư S. rút bớt số tiền khởi kiện xuống còn 300 triệu đồng. Lúc này luật sư S. ra điều kiện khi luật sư đòi được bà phải chia đôi cho luật sư một nửa số tiền. Tuy nhiên, gia đình bà Hoa không đồng ý. Lúc này luật sư S. yêu cầu bà Hoa đưa thêm 10 triệu đồng để đóng tạm ứng án phí. Ít lâu sau, thấy không có tin tức gì, bà Hoa liên tục gọi điện thoại hỏi thăm về tiến độ vụ án thì luật sư S. nói chắc rằng: “Chị cứ yên tâm, xong xuôi hết rồi, giờ đang chờ tòa giải quyết”. Qua ngày 12-1-2010 (ngày hết thời hiệu khởi kiện là ba năm) nhưng vẫn không thấy gì mới nên bà Hoa gặp luật sư S. hỏi cho ra chuyện. Đến đây thì luật sư mới thú nhận rằng mình chưa đóng tạm ứng án phí và thời hiệu khởi kiện đã hết, không thể làm gì được nữa.
Bà Hoa cho rằng việc luật sư S. lấy của bà 20 triệu đồng trong gần một năm nhưng không làm hết trách nhiệm như hợp đồng để bà mất quyền khởi kiện là vi phạm đạo đức nghề nghiệp, gây thiệt hại lớn cho bà. Bà Hoa yêu cầu luật sư S. bồi thường và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền có hình thức kỷ luật thỏa đáng với luật sư S.
Tại biên bản đối chất giữa bà Hoa và luật sư S. (Hội đồng Kỷ luật của Đoàn Luật sư TP.HCM chủ trì), luật sư S. thừa nhận có nhận 10 triệu đồng của bà Hoa ngoài số tiền 10 triệu đồng trả trước theo hợp đồng. Tuy nhiên, luật sư S. bảo đây là tiền bà Hoa bồi dưỡng cho một luật sư tập sự tại văn phòng của ông để xài tết. Khi đó ông đã để tiền trong hộc bàn của mình rồi về quê. Người luật sư tập sự đã đến lấy nó. Người tập sự luật sư tại văn phòng luật sư S. cũng nhìn nhận có nhận 10 triệu đồng từ hộc bàn của luật sư S., chờ khi nào luật sư S. ở quê vào sẽ tính toán sau...