Điểm tin báo chí sáng ngày 14 tháng 12 năm 2009

14/12/2009
Trong buổi sáng ngày 14/12/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 13-12, Đoàn Thanh niên TP Hà Nội tổ chức ngày “Công chức trẻ thủ đô với cải cách hành chính” với nhiều hoạt động bổ ích.
Gần 100 công chức trẻ từ 13 sở, ngành của TP đã trực tiếp tư vấn cho người dân và doanh nghiệp về các vấn đề cấp giấy chứng nhận, mua bán, chuyển nhượng, tranh chấp nhà đất; công tác quản lý tài nguyên, môi trường; tuyển dụng nhân sự; thủ tục thành lập doanh nghiệp; cấp đổi hộ chiếu, chứng minh thư, con dấu... Các công chức trẻ của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, tòa án, thanh tra TP còn tư vấn về các thủ tục hành chính liên quan đến đời sống dân sinh như tiếp nhận đối tượng bảo trợ xã hội, hỗ trợ cải thiện nhà ở cho người có công; thủ tục về khiếu nại tố cáo, khởi kiện đất đai, thừa kế...
2. Báo Lao động có bài Lương, một vòng luẩn quẩn. Bài báo phản ánh: Sau khi Kiểm toán nhà nước công bố báo cáo kiểm toán của mình, dư luận nóng lên với chuyện lương bổng. Lương của lãnh đạo công ty đầu tư vốn nhà nước (SCIC), một doanh nghiệp nhà nước 100%, cỡ 78 triệu đồng/tháng (trong khi lương của các tổng giám đốc các tập đoàn chỉ cỡ 6 triệu/tháng). Lương của các lãnh đạo Jetstar Pacific, mà nhà nước còn chiếm 70% cổ phần, khoảng đến 5 tỉ đồng/năm trong khi công ty thua lỗ nặng. So với mức lương và thù lao hàng triệu USD/năm của mấy ông "tư bản kếch sù" của các công ty tư nhân lớn gần phá sản nhưng vẫn xài máy bay riêng đến cầu xin Chính phủ Mỹ cứu trợ hàng chục tỉ USD và đã gây một làn sóng phẫn nộ trong dân chúng, thì tình hình ở nước ta cũng khá giống Mỹ. Giới chuyên môn và báo chí đã bàn nhiều về các vòng luẩn quẩn của chuyện Nhà nước ta làm kinh tế.
Việc của Nhà nước là quản lý, làm chính sách, tạo dựng môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy kinh doanh chứ không phải là đi trực tiếp làm kinh doanh. Nhà nước có thể vẫn là chủ sở hữu của một số doanh nghiệp. Song phải tách vai trò ông chủ và việc trực tiếp làm. Lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước được coi là công chức. Chính vì Nhà nước làm việc không phải của mình, vì sự nhập nhằng không tách bạch vai trò người chủ và người quản lý, nên. Nhà nước khiến các doanh nghiệp của mình hoạt động kém hiệu quả: sử dụng quá nhiều nguồn lực quốc gia, nhưng mang lại thành tích không tương xứng. Về vấn đề này đã được phân tích khá nhiều. Dưới đây chỉ nêu một vòng luẩn quẩn nữa, vòng luẩn quẩn về lương của lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ nhất, các lãnh đạo chủ chốt của các tập đoàn kinh tế nhà nước được coi là các công chức nhà nước, được lãnh đạo cấp cao bổ nhiệm. Lãnh đạo SCIC cũng thế. Họ là công chức nên lương phải theo quy định của Nhà nước: bằng mức lương cơ bản nhân với hệ số tương ứng (thí dụ, lương tổng giám đốc tập đoàn chỉ từ 8,5 đến 8,8 x 650.000 đồng, khoảng 6 triệu đồng/tháng). Với mức lương quá "rẻ mạt" này (kể cả mức 78 triệu/tháng của SCIC) thì kiếm đâu ra các nhà quản trị chuyên nghiệp sẵn sàng làm tổng giám đốc ở các tập đoàn và công ty này? Thế mà vẫn có hàng triệu người mơ ước chức vụ đó. Vì sao?
Trong thị trường lao động, có một thị trường của các nhà quản trị doanh nghiệp. Trên thị trường này, ở Việt Nam hiện nay, với mức lương 6-10 triệu may ra kiếm được các ứng viên cho nhân viên cấp trung hay các chức trưởng phó phòng. Lương 78 triệu/tháng có lẽ cho mức phó tổng giám đốc. Lương tổng giám đốc các công ty lớn có thể từ 100 đến vài trăm triệu/tháng (thuê người nước ngoài có thể đến 5 tỉ đồng/năm như ở Jetstar Pacific) là bình thường. Nếu muốn SCIC trở thành "một Temasek" của Việt Nam, thì chỉ riêng với mức lương như vậy ước mơ sẽ khó thành hiện thực. Cái vòng luẩn quẩn về lương chỉ có thể giải quyết khi Nhà nước tách bạch quyền sở hữu của mình với quyền quản lý doanh nghiệp. Các nhà quản trị có thành tích kém phải bị sa thải và việc bổ nhiệm chỉ dựa trên tài kinh doanh, thành tích kinh doanh, chứ không dựa vào tiêu chuẩn chính trị.
Thứ hai, với mức lương 6-10 triệu đồng thì các tổng giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị các tập đoàn và các doanh nghiệp nhà nước nói chung sẽ sống bằng "bổng" là chính. Thu nhập của họ chắc cũng gấp 10-20 lần "lương chính thức", nếu không nói là hơn nhiều. Đấy là một trong vài lý do (mà quyền lực còn gây nghiện khủng khiếp) vì sao hàng triệu người (tuyệt đại bộ phận không là các nhà quản trị chuyên nghiệp và nếu có tuyển chọn cạnh tranh minh bạch thì trượt hết) lại ao ước các chức đó (kể cả phải "mua"). Đấy là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, cho "mua quan bán chức", cho "vận động chính sách" méo mó, cho sự cấu kết nảy sinh, vì ở đó quyền lực lớn và "tiền nhiều như quân Nguyên". Như thế, cái lỗi là ở tư duy sai, ở các quy định không sát thực tế là chính, tuy những con người cụ thể cũng có thể góp phần vào.
Nếu nhìn thế, thì có thể lương "cao", tuy vẫn ở mức thấp so với thị trường thật, ở SCIC có thể là một bước tiến, chứ đừng vội phàn nàn. Vấn đề là tính minh bạch và sự sòng phẳng. Tôi không bàn đến con người cụ thể. Nhà quản lý không làm được việc thì ông chủ (Nhà nước) phải sa thải và kiếm người khác trên cơ sở cạnh tranh, minh bạch. Lương cao thì phải đóng thuế thu nhập nhiều.
Những người tài hưởng lương cao một cách minh bạch như thế, bất luận họ làm ở doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, phải đáng được vinh danh chứ không đáng lên án. Ngược lại, phải lên án, thậm chí trừng trị những kẻ làm bậy, lạm quyền, tham nhũng, gây lãng phí thất thoát. Vấn đề chính là ông chủ hãy làm đúng việc của ông chủ, kể cả trong quy định lương cho các nhà quản trị doanh nghiệp cho phù hợp với thị trường. Ông chủ Nhà nước cũng phải chấp nhận rủi ro kinh doanh như các ông chủ khác; không có chuyện doanh nghiệp chỉ có lãi liên tục mà cũng có thể phải chịu tổn thất do rủi ro kinh doanh (và khi đó đừng dùng quy định hình sự để xử lý).
Phá các vòng luẩn quẩn với các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước nói riêng, trong đó có sự luẩn quẩn về lương: buộc chúng phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh thực sự, không tạo ra các môi trường riêng (luật riêng, nghị định riêng) cho chúng, đối xử với chúng cũng bình đẳng như các doanh nghiệp khác (về tín dụng khi Nhà nước mua sắm, về các chính sách), bắt chúng phải minh bạch (kể cả về thu nhập của các lãnh đạo), phải chịu kiểm toán độc lập, v.v..., (đấy là cách phá các vòng luẩn quẩn đó), thì chúng sẽ hoạt động hiệu quả hơn. Như thế cùng các doanh nghiệp khác các doanh nghiệp nhà nước sẽ trở thành các "công cụ kinh tế" thực sự mạnh của đất nước.
3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam phản ánh: Sáng 14/12, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng Đoàn đại biểu Cấp cao Chính phủ Việt Nam rời Hà Nội đi thăm và làm việc tại Liên bang Nga từ ngày 14 - 15/12 theo lời mời của Thủ tướng Vla-đi-mia Vla-đi-mi-rô-vích Pu-tin.
Tiếp đó, từ 16 đến 18/12, Thủ tướng sẽ tham dự phiên thảo luận cấp cao của Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (COP15) và Hội nghị lần thứ 5 các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP5) (gọi chung là Hội nghị Thế giới về Biến đổi Khí hậu) tại thành phố Cô-pen-ha-ghen, Vương quốc Đan Mạch. Chuyến thăm nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với Liên bang Nga, đồng thời khẳng định quyết tâm của Việt Nam chung tay góp sức cùng cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu.
4. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Văn Trọng Lý vừa ký Công văn số 8758/VPCP-KTN thông báo ý kiến của Thủ tướng đối với đề án “Đường hàng không thẳng Nội Bài - Tân Sơn Nhất dọc kinh tuyến 106 độ đông” (còn gọi là “Đường bay vàng” do cựu phi công quân đội Mai Trọng Tuấn đề xuất mà báo chí và dư luận quan tâm trong thời gian qua).
Theo đó, Thủ tướng đồng ý với ý kiến của Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Quốc phòng là chấm dứt việc xem xét đề án này. Thủ tướng cũng giao Bộ Giao thông Vận tải tiếp tục phối hợp với Bộ Quốc phòng hoàn thiện hệ thống các đường hàng không theo quy định hiện hành, bảo đảm kết hợp tốt các lợi ích phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
5. Báo điện tử Dân trí phản ánh: Hàn Quốc và Triều Tiên đã gửi phái đoàn chung gồm 10 quan chức của mỗi bên đến thăm các khu công nghiệp tại Trung Quốc và sau đó là tại Việt Nam, bắt đầu từ ngày 13/12. Phái đoàn này sẽ bắt đầu lịch trình 10 ngày với việc thăm các khu công nghiệp ở Thanh Đảo, Tô Châu và Thẩm Quyến tại Trung Quốc và sẽ thăm khu công nghiệp Yên Phong tại Việt Nam từ ngày 19 đến 22/12.
Đoàn đại biểu Hàn Quốc do Đại diện thường trú tại Khu công nghiệp liên Triều Kaesong của Bộ Thống nhất, ông Kim Young-tak, dẫn đầu. Đoàn đại biểu Triều Tiên do Phó tổng cục trưởng Tổng cục chỉ đạo đặc khu Trung ương, ôngPark Cheol-su, làm trưởng đoàn. Bộ Thống nhất Hàn Quốc hy vọng việc gửi phái đoàn chung ra nước ngoài sẽ giúp 2 miền tạo sự hiểu biết lẫn nhau về cách thức phát triển Khu công nghiệp liên Triều Kaesong.
Đây là nỗ lực cử phái đoàn chung thăm nước ngoài thứ ba giữa hai miền Triều Tiên, tiếp sau chuyến đi đầu tiên năm 2005 và chuyến đi thứ hai năm 2007.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam có bài Trở lại vụ “Bản án bị bỏ bùa” ở Ý Yên - Nam Định: Đạo lý, pháp lý và thực thi công lý. Bài báo phản ánh: Câu chuyện về một bản án đã có hiệu lực từ năm 2003 nhưng nhiều năm không thể thi hành án đã từng được Báo TNVN phản ánh trong bài phóng sự “Bản án bị bỏ bùa” cách đây 2 năm. Bài báo đã nhận được rất nhiều sự chú ý của công luận và Ban chỉ đạo thi hành án huyện Ý Yên - Nam Định, nơi vụ án diễn ra, đã nhiều lần cam kết sẽ tổ chức cưỡng chế thi hành án để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, đến thời điểm này, bản án vẫn không được thi hành và thậm chí sự việc còn trở nên bế tắc bởi sự xuất hiện của một văn bản vô cùng khó hiểu của Công an tỉnh Nam Định. Vì sao một bản án dân sự có đủ điều kiện thi hành mà không thể thực thi? Báo TNVN trở lại câu chuyện này và phân tích chi tiết các yếu tố đạo lý - pháp lý và thực thi công lý.
Kỳ I: Trăm cái lý và... “một tý cái tình”
Câu chuyện được bắt đầu theo một cách không thể buồn hơn đối với cô gái trẻ tên là Vân Anh (khi đó còn là một sinh viên Sư phạm). Đó là một ngày hè cách đây hơn 8 năm, Vân Anh tất tả xuyên màn đêm từ Hà Nội về Ý Yên (Nam Định) để thăm người cha đang ốm nặng. Cô gái không biết rằng, khi về đến quê nhà, cô sẽ mất tất cả.Đêm 27/5/2001, khi Vân Anh về đến nhà thì ông Phạm Sao Mai, cha cô đã qua đời trước đó ít phút. Và cũng ngay trong đêm đó, hai người chú của cô đã khởi sự một âm mưu để chiếm đoạt toàn bộ tài sản mà anh trai mình để lại cho cô con gái độc nhất. Một người chú giữ toàn bộ số tiền gần 200 triệu đồng, người chú kia thì chuyển đến ở trong ngôi nhà trên mảnh đất mặt đường quốc lộ 10 của anh trai. Ngay sau đám tang, họ đuổi cô gái ra khỏi nhà, thậm chí còn không công nhận cô gái là người trong họ. Hành động ngang ngược ấy của hai người chú khiến ngay cả những người trong họ tộc cũng không khỏi bất bình, ba cuộc họp họ đã được tổ chức để yêu cầu hai ông chú trả lại tài sản cho Vân Anh nhưng đều bị làm ngơ. Phẫn nộ, nhưng không thể làm gì giúp cô gái, ông trưởng họ chỉ còn biết khuyên cô nhờ đến pháp luật. Hai phiên toà đã diễn ra, và cuối năm 2003, bản án phúc thẩm dân sự của TAND tỉnh Nam Định đã đưa ra quyết định cuối cùng, yêu cầu hai ông chú phải trả lại tài sản cho cô cháu gái. Sau đó, TAND Tối cao cũng đã có văn bản khẳng định, không có cơ sở để xem xét lại bản án, bản án có hiệu lực pháp luật. Mặc dù vậy, đến nay đã hơn 6 năm, bản án vẫn chưa được thi hành, cô sinh viên năm nào, giờ đã là một nữ giáo viên dạy văn, đã lấy chồng, sinh con nhưng vẫn phải đi ở nhờ và không thể thờ phụng cha mình trong ngôi nhà của ông.
Hai cấp toà đã xử, TAND Tối cao cũng có văn bản khẳng định giá trị của bản án, công lý trên giấy tờ đã đứng về phía cô gái bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Song, những quyết định của toà thể hiện qua bản án vẫn không được thực hiện. Việc chậm trễ thi hành án, thông thường xuất phát từ lý do cơ quan thi hành án không nhiệt tình thực thi pháp luật. Yếu tố này không xuất hiện trong vụ việc kể trên. Theo báo cáo của Thi hành án dân sự huyện Ý Yên: Từ năm 2004 đến nay đã có tổng cộng 12 buổi họp bàn về việc cưỡng chế thi hành bản án. Tất cả các buổi họp đều thống nhất quan điểm phải cưỡng chế ngay, thậm chí cơ quan thi hành án còn đặt vấn đề phải khởi tố hình sự đối với đối tượng về hành vi không chấp hành bản án... Tuy nhiên, mọi quyết tâm của cơ quan Thi hành án huyện Ý Yên đều trở nên vô vọng khi mà Công an huyện Ý Yên không đưa ra phương án bảo vệ theo quy trình hỗ trợ cưỡng chế thi hành án dân sự. Và sự chờ đợi vẫn kéo dài từ năm này sang năm khác...
Ngày 3/8/2009, trước những bức xúc của dư luận nhân dân về sự chậm trễ này, Chủ tịch UBND huyện Ý Yên, Trưởng ban chỉ đạo thi hành án, đã tổ chức một cuộc họp giao cho các cơ quan chức năng để lên kế hoạch, tổ chức cưỡng chế thi hành bản án trong tháng 10/2009. Ngay lập tức, Thi hành án huyện Ý Yên đã lên kế hoạch, phương án chi tiết, gửi Công an huyện Ý Yên để triển khai phương án bảo vệ cưỡng chế theo quy trình. Song, trái ngược với sự quyết tâm của Ban chỉ đạo thi hành án, ngày 16/10/2009, Công an huyện Ý Yên có công văn gửi Ban chỉ đạo thi hành án huyện đề nghị Ủy ban phải... bố trí nơi ở mới cho đối tượng bị cưỡng chế. Tiếp đó, ngày 27/10/2009, Công an tỉnh Nam Định cũng gửi Công an huyện Ý Yên và UBND huyện Ý Yên (để biết) với nội dung: 1-Việc Toà án đã xử phúc thẩm và bản án đã có hiệu lực phải thi hành, song bản án không được lòng dân. 2- Nếu xã chưa chuẩn bị được chỗ ở mới cho hộ ông Thuỳ (đối tượng bị cưỡng chế thi hành án - PV) thì chưa thể cưỡng chế.
Theo quy trình cưỡng chế thi hành án dân sự thì một cuộc cưỡng chế chỉ có thể thực hiện nếu có phương án bảo vệ của công an. Tuy nhiên, với những điều kiện mà Công an huyện Ý Yên và Công an tỉnh Nam Định đặt ra thì việc cưỡng chế thi hành bản án sẽ chưa thể được tiến hành nếu như UBND huyện Ý Yên không bố trí được nơi ở mới cho đối tượng bị thi hành án.
Xét về mặt pháp lý, đây là một văn bản có vấn đề bởi vì bản án đã có hiệu lực thi hành theo khoản 1, khoản 2, khoản 3, điều 115 (cưỡng chế trả nhà, giao nhà) của Luật Thi hành án dân sự, tức là ông Phạm Xuân Thuỳ phải thực hiện vô điều kiện. Theo quy trình hỗ trợ cưỡng chế thi hành án dân sự, được ban hành theo Quyết định số 1501/2008/QĐ-BCA của Bộ Công an thì: “Hỗ trợ cưỡng chế thi hành án dân sự khi có yêu cầu của cơ quan thi hành án là trách nhiệm của lực lượng công an nhân dân, trong đó lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp là nòng cốt nhằm bảo vệ trật tự an toàn cho việc cưỡng chế, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật; góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức”.
Trở lại với những công văn của cơ quan Công an huyện Ý Yên và Công an tỉnh Nam Định, rõ ràng nội dung của những công văn này đi ngược lại mục đích “bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Trong vụ việc này, lợi ích của Nhà nước là bản án được tuyên “Nhân danh nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” cần được thi hành. Còn lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân là cô giáo Vân Anh được nhận lại ngôi nhà của cha mình theo phán quyết của Toà. Ông Phạm Xuân Thuỳ, đối tượng phải thi hành án là người đã chiếm giữ, sử dụng trái phép nhà và đất thuộc về chị Vân Anh trong nhiều năm qua. Về mặt pháp lý, ông Thuỳ phải trả lại nhà và đất một cách vô điều kiện, không có bất cứ điều khoản pháp lý nào quy định phải bố trí nơi ở mới cho ông Thuỳ. Vì vậy, việc các cơ quan công an đề nghị UBND huyện Ý Yên phải bố trí nơi ở mới cho ông Thuỳ là không có cơ sở, do đó gián tiếp tạo ra những khó khăn, cản trở việc thi hành án để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Chính vì vậy, khi bình luận về nội dung Công văn số 327/PC16 ngày 27/10/2009 của Công an tỉnh Nam Định, ông Nguyễn Văn Minh, Phó Trưởng thi hành án huyện Ý Yên chua chát nói: “Nếu cứ đi cướp nhà của người khác rồi được bố trí nơi ở mới thì ai cũng muốn được thi hành án!” - Rõ ràng, không có một lý do nào về mặt pháp lý để trì hoãn việc thi hành bản án này! Song, trong Công văn số 327/PC16 ngày 27/10/2009 của Công an tỉnh Nam Định, có một vấn đề được đề cập, đó là “Bản án đã có hiệu lực phải thi hành, song bản án không được lòng dân”. Với một nhận định như vậy nhưng cơ quan Công an tỉnh Nam Định lại không đưa ra được những căn cứ cụ thể rằng bản án không được lòng dân ở khía cạnh nào.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Báo cáo tổng kết về công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2009 của Sở Tư pháp TP.HCM cho biết năm 2009 đã tiếp gần 1.400 lượt công dân và tiếp nhận được hơn 600 đơn gồm khiếu nại, tố cáo và các đơn thư phản ánh khác. Trong đó, hơn 150 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan này đã được giải quyết theo đúng thời hạn luật định. Đồng thời chuyển những đơn thư không thuộc thẩm quyền xử lý của mình đến những cơ quan khác có thẩm quyền xử lý.
Để đảm bảo cho việc tiếp nhận thông tin thắc mắc, phản ánh của người dân, Sở Tư pháp vẫn tiếp tục duy trì đường dây nóng qua điện thoại, thùng thư và sổ góp ý tại cơ quan Sở.
3. Báo Người lao động có bài Đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí. Bài báo phản ánh: Trong hai ngày 12 và 13-12, tại Thừa Thiên – Huế đã diễn ra hội thảo “Đánh giá việc thực hiện Luật Báo chí hiện hành và những kiến nghị, đề xuất cần sửa đổi, bổ sung. Đánh giá tác động của dự án đào tạo nâng cao chất lượng báo chí VN và những đề xuất về mô hình hợp tác trong tương lai”. Hội thảo do Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Đại sứ quán Thụy Điển tại VN tổ chức.
Tại hội thảo, các đại biểu cho rằng Luật Báo chí đã bộc lộ một số hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung. ông Nguyễn Quang Thông, Tổng Biên tập Báo Thanh niên, cho rằng luật nên chia cách quản lý báo chí làm hai phần: Báo chí chính thống và truyền thông xã hội. Trong đó, cần quy định cụ thể về trách nhiệm đối với các tổ chức cá nhân đưa thông tin phát tán ra cộng đồng; đồng thời, quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn với người phát ngôn của các cơ quan chức năng để tạo điều kiện thuận lợi cho phóng viên tác nghiệp.
Với loại hình báo điện tử, ông Phạm Hiếu, Phó Tổng Biên tập báo điện tử Vnexpress, kiến nghị cần quy định cụ thể về quảng cáo để phù hợp với khách hàng cũng như cơ quan quản lý; cần làm rõ phương thức, thời gian cải chính thông tin trên báo điện tử; quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm đối với thông tin báo chí. Về hoạt động của các loại hình báo chí, ông Bùi Đức Khiêm, Tổng Biên tập Báo Công thương, cho rằng cần quy định cấp phép xuất bản báo chí một cách cụ thể đối với các lĩnh vực báo, tạp chí, phát sóng... Đơn vị nào cần được cấp phép và không được cấp phép để quy hoạch báo chí cho phù hợp... TTXVN cho biết những ý kiến, góp ý này sẽ được Bộ Thông tin và Truyền thông tập hợp để trình Quốc hội xem xét trong các kỳ họp sắp tới.


File đính kèm