I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Trang thông tin chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam đưa tin: Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, chiều 25/7, Quốc hội làm việc tại hội trường, thảo luận, biểu quyết thông danh sách bầu và tiến hành bỏ phiếu bầu Chủ tịch nước.
Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII, Chủ tịch Quốc hội khóa XIII Nguyễn Sinh Hùng đã báo cáo kết quả thảo luận tại các đoàn đại biểu Quốc hội về dự kiến nhân sự bầu Chủ tịch nước. Theo báo cáo, đã có 497/498 đại biểu nhất trí với Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII về nhân sự bầu Chủ tịch nước.
Sau khi thảo luận và thông qua danh sách để bầu Chủ tịch nước, Quốc hội đã bầu ông Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư giữ chức Chủ tịch nước với 487 đại biểu tán thành, đạt 97,4%.
Ông Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ khóa XII, đại biểu Quốc hội khóa XIII được đề cử giữ chức Thủ tướng.
Chiều cùng ngày, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã trình bày Tờ trình giới thiệu bà Nguyễn Thị Doan, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước nhiệm kỳ khóa 12, ĐBQH khóa 13 để QH bầu giữ chức Phó Chủ tịch nước. Ông Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa 12, đại biểu Quốc hội khóa 13 để Quốc hội bầu giữ chức Thủ tướng Chính phủ.
Ông Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao nhiệm kỳ khóa 12, đại biểu Quốc hội khóa 13 cũng được giới thiệu để Quốc hội bầu giữ chức Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao; ông Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi, đại biểu Quốc hội khóa 13 để Quốc hội được giới thiệu để Quốc hội bầu giữ chức Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao.
Theo chương trình, chiều 26/7, Quốc hội sẽ bầu các chức danh Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao.
2. Báo Người lao động có bài Công nghiệp ô tô: Tăng tốc trên giấy ?! Bài báo phản ánh: Bộ Công Thương vừa hoàn tất dự thảo quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 nhằm đạt mục tiêu đưa ngành công nghiệp này thành một nhân tố quan trọng góp phần thực hiện thành công chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể nhận thấy hai mục tiêu lớn của quy hoạch trong giai đoạn này là nâng cao tỉ lệ nội địa hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ô tô trong nước, thực hiện xuất khẩu và xây dựng trung tâm công nghiệp cơ khí ô tô quốc gia.
Theo dự báo, nhu cầu ô tô của Việt Nam sẽ bùng nổ vào khoảng năm 2020, khi thu nhập bình quân của người dân đạt khoảng 2.844 USD/người/năm và cơ bản hoàn thành các quy hoạch đồng bộ về phát triển công nghiệp, hạ tầng giao thông. Ước tính năm 2020, nhu cầu về ô tô các loại cả nước sẽ hơn 400.000 xe/năm và đến năm 2030 sẽ gần 900.000 xe. Nếu tính theo phương án cao, nhu cầu trong hai thời điểm này khoảng 600.000 xe/năm và 1,8 triệu xe/năm. Trong đó, nhu cầu về xe con chiếm hơn 60%; gần 40% còn lại là xe khách, xe tải, xe chuyên dụng.
Ngành công nghiệp ô tô trong nước ở giai đoạn này sẽ đáp ứng được 71% nhu cầu của thị trường trong nước với năng lực sản xuất 430.800 xe/năm. Tỉ lệ nội địa hóa là 50%-60% đối với các loại xe con, xe khách và xe tải nhẹ. Còn năm 2015, tỉ lệ nội địa hóa là 40%-45%. Tổng xe xuất khẩu trong năm 2015 khoảng 7.000 chiếc, năm 2020 đạt 65.000 chiếc. Giá trị xuất khẩu linh kiện trong hai thời điểm này là 2,5 tỉ và 4 tỉ USD...
Một chuyên gia trong lĩnh vực ô tô nhận xét cả hai chỉ tiêu nội địa hóa và xuất khẩu của Bộ Công Thương đặt ra đều không khả thi. Lý do nền tảng công nghiệp ô tô của Việt Nam sau 10 năm xây dựng vẫn không có giá trị gì đáng kể để có thể tăng tốc đạt các mục tiêu quá lớn sau chưa đầy 4 năm nữa...
Rút kinh nghiệm từ thực tế, nhiều nhà máy lắp ráp đơn thuần với quy mô nhỏ sẽ không thể đứng vững khi các loại thuế được dỡ bỏ hoàn toàn vào năm 2018, lần này Bộ Công Thương đề xuất xây dựng hẳn một trung tâm công nghiệp cơ khí và ô tô quốc gia với quy mô lớn tại Chu Lai (Quảng Nam) để kêu gọi các đại gia rót vốn đầu tư. Dự kiến, tổng vốn đầu tư cho trung tâm này là 30.000 tỉ đồng, khi đi vào hoạt động có khả năng đầu tư sản xuất linh kiện phụ tùng đáp ứng nhu cầu nội địa hóa 40%-80% đối với tất cả các dòng xe.
Hiện nay, tỉnh Quảng Nam đã hoàn thiện đề án xây dựng trung tâm cơ khí ô tô quốc gia với đối tác ban đầu là các nhà đầu tư Hàn Quốc là Kia và Hyundai. Phía Hyundai đã có kế hoạch đầu tư ở Khu Kinh tế Chu Lai một nhà máy sản xuất động cơ ô tô sản lượng 10.000 động cơ/năm. Ban Quản lý Khu Kinh tế mở Chu Lai cũng đang đàm phán với Tập đoàn Kia về dự án sản xuất, lắp ráp ô tô công suất 100.000 xe/năm, đi vào hoạt động từ năm 2015...
Trên cơ sở mục tiêu đó, tỉnh Quảng Nam đề xuất Chính phủ miễn tiền thuê đất đã có hạ tầng trong suốt thời gian thực hiện dự án; hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư, san lấp mặt bằng, đầu tư hạ tầng đến chân hàng rào. Đối với chính sách thuế, tỉnh Quảng Nam dự kiến chỉ thu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) 10% trong vòng 30 năm; miễn thuế TNDN trong 10 năm đầu kể từ khi có lợi nhuận và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo. Ngoài ra, còn có chính sách dãn thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, áp dụng quy chế doanh nghiệp chế xuất cho Tập đoàn Hyundai và Kia…
Bộ Công Thương còn đề xuất ưu đãi lớn hơn như áp dụng thuế TNDN 10% suốt đời dự án; miễn thuế 30% đối với các dự án thuộc trung tâm cơ khí ô tô; hỗ trợ 50% thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các dự án ô tô có tỉ lệ nội địa hóa từ 40% trở lên, có tỉ lệ xuất khẩu từ 70%...
3. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Phản hồi loạt bài “Mặt trái đạo đức công vụ” - Lấy công khai minh bạch làm khâu đột phá. Bài báo phản ánh: Sau loạt bài “Mặt trái đạo đức công vụ”, trả lời phỏng vấn PV Báo SGGP, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Lê Minh Trí (ảnh) khẳng định: “Sẽ cho rà soát lại những thông tin mà Báo SGGP đã phản ánh và yêu cầu các địa phương có liên quan giải trình có hay không có sự việc nói trên. Tùy tính chất, mức độ mà nhắc nhở hoặc xử lý nếu có vi phạm”.
* Phóng viên: Chúng ta đã trải qua 10 năm thực hiện cải cách hành chính, nhưng xem ra đến nay vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ nhân dân?
* Đồng chí LÊ MINH TRÍ: Nhìn chung, giai đoạn 2001 - 2010, trong bối cảnh đất nước vừa có những thuận lợi, thời cơ vừa có những khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo tập trung của Thành ủy, sự điều hành linh hoạt, kiên quyết của UBND TP và nỗ lực của các ngành, các cấp và sự năng động, sáng tạo của người dân, doanh nghiệp, đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội TP, GDP tăng trưởng bình quân 11%/năm. Sự phát triển đó có sự đóng góp quan trọng của công tác cải cách hành chính vì nó đã góp phần tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hơn, chất lượng phục vụ các yêu cầu của người dân, doanh nghiệp được nâng lên và quan trọng nhất là lòng tin, sự ủng hộ của cộng đồng xã hội đối với các cấp chính quyền TP.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của xã hội, sự phát triển và mong muốn của người dân, doanh nghiệp thì chúng ta chưa hài lòng với những gì đã đạt được. Bên cạnh mặt tích cực, cải cách hành chính TP cũng còn những hạn chế, chưa đồng bộ. Trong đó, kỷ luật, kỷ cương trong một số cơ quan hành chính còn lỏng lẻo. Thái độ phục vụ của cán bộ công chức trong giải quyết công việc cho người dân và doanh nghiệp có tiến bộ nhưng cũng còn hiện tượng nhũng nhiễu, né tránh, sợ trách nhiệm, thái độ thờ ơ trong giải quyết công việc còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ công chức, đang là lực cản gây trở ngại cho việc thực hiện chương trình cải cách hành chính của TP.
* Trở lại những vụ việc cụ thể mà Báo SGGP đã nêu. Phản hồi của nhiều bạn đọc cho thấy đó không phải là những trường hợp cá biệt mà là những hình ảnh dễ dàng thấy được ở nhiều địa phương, đơn vị. Phải chăng, ý kiến cho rằng đội ngũ cán bộ công chức ở cơ sở đang ngày càng quan liêu, xa rời quần chúng là không sai?
* Đúng là hiện nay có một bộ phận đội ngũ cán bộ công chức ở cơ sở sa sút đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm khiến người dân, doanh nghiệp bức xúc, không hài lòng. Những vụ việc Báo SGGP nêu như ở phường 12, quận Bình Thạnh lẽ ra theo quy định, cán bộ chỉ nghiên cứu hồ sơ, trả lời người dân một lần chứ không được trả đi trả lại. Việc sao y, chứng thực cũng vậy, Nghị định 79 của Chính phủ cũng có những quy định cụ thể, có những cái chỉ cần đối chiếu bản chính là đủ mà không cần bản sao, nhưng có lẽ cán bộ công chức sợ trách nhiệm nên cứ “thủ” cho chắc, gây phiền hà cho dân. Chuyện đi làm trễ, về sớm là hình thức “ăn cắp” giờ Nhà nước.
Theo quy định, khi cán bộ đi họp, học thì phải cử người thay mình phụ trách giải quyết công việc cho dân chứ đâu có chuyện bao nhiêu người chờ đợi chỉ vì anh bận họp, bận học như vậy được… Tôi sẽ cho kiểm tra lại thông tin trên báo, nếu sự thật đúng như báo nêu, cán bộ công chức phải giải trình rõ. Nếu sự việc lặp đi lặp lại nhiều lần thì phải xử lý theo quy định và người đứng đầu địa phương đó phải chịu trách nhiệm với cấp trên.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Đại đoàn kết có bài Đà Nẵng: Xử lý nghiêm những cán bộ cố tình sách nhiễu nhân dân. Bài báo phản ánh: UBND thành phố Đà Nẵng vừa có văn bản yêu cầu Sở Tư pháp và UBND các quận, huyện tăng cường công tác quản lý và đăng ký hộ tịch trên địa bàn thành phố.
Theo đó, UBND thành phố yêu cầu Sở Tư pháp, UBND các quận, huyện chỉ đạo các cơ quan tư pháp trực thuộc, UBND các xã, phường thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về hộ tịch, đặc biệt là giải quyết yêu cầu về đăng ký khai sinh, cấp lại bản chính Giấy khai sinh, cấp bản sao Giấy khai sinh từ Sổ đăng ký khai sinh, đáp ứng yêu cầu của học sinh, sinh viên trong kỳ tuyển sinh đầu năm học mới. Đồng thời, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ cố tình gây phiên hà, sách nhiễu khi giải quyết các yêu cầu đăng ký hoặc cấp các giấy tờ hộ tịch của công dân.
2. Báo Đất Việt có bài Sửa Hiến pháp theo quy trình đặc biệt. Bài báo phản ánh: Sửa hiến pháp là công việc vô cùng hệ trọng nên phải làm theo một quy trình đặc biệt. Hiện nay Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ quy định về trình tự, thủ tục lập pháp chứ chưa quy định về lập hiến. Đó là một trong những nội dung được TS Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề cập khi trao đổi với Đất Việt xung quanh việc sửa đổi Hiến pháp. Theo dự kiến, kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII sẽ thảo luận về chủ trương nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp năm 1992; xem xét thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kiến nghị Quốc hội khóa này cần dành nhiều thời gian, công sức cho việc nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi Hiến pháp năm 1992 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Theo ông, việc sửa đổi Hiến pháp vào thời điểm này có những thuận lợi và khó khăn gì?
Việc sửa đổi Hiến pháp sẽ là tiền đề để tiến hành xây dựng, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật khác. Thuận lợi là chúng ta đã trải qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 20 năm thực hiện Hiến pháp... Đó là thời gian đủ dài để tổng kết, tìm ra cái gì là phù hợp, cái gì không phù hợp. Đó là về mặt thực tiễn. Còn về lý luận, các nhà khoa học cũng có nhiều đề tài nghiên cứu và đang tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này. Hiến pháp là bản văn mang tính chính trị và pháp lý. Về góc độ chính trị, trong Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ XI cũng như Chiến lược phát triển KT-XH 2011 - 2020 cũng xác định rất rõ từng lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, quyền công dân, quyền con người... Đó là những căn cứ quan trọng để thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng. Thật ra việc nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp đã được Quốc hội khóa XII đặt ra từ đầu nhiệm kỳ, nhưng nếu làm lúc đó thì chưa thuận lợi lắm.
Về khó khăn, nếu muốn tổng kết kỹ để đi đến sửa đổi cơ bản thì phải có thời gian, phải mất vài năm. Nhưng thực tiễn đặt ra không thể trì hoãn, kéo dài được vì nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII làm sao phải sửa Hiến pháp và các luật liên quan để đến Quốc hội khóa XIV phải thực thi theo Hiến pháp mới. Như vậy, khó khăn ở đây là áp lực thời gian. Một bên là muốn chuẩn bị tổng kết sâu sắc, kỹ lưỡng với một bên là có kết quả nhanh để trình ra Quốc hội thông qua. Đó là cái khó khăn nhất.
Theo ông, việc chậm sửa đổi, bổ sung Hiến pháp sẽ ảnh hưởng như thế nào tới việc xây dựng, thực thi pháp luật trong thực tiễn?
Việc sửa đổi Hiến pháp sẽ liên quan đến những luật cụ thể cần ban hành sớm, vào năm 2012, chẳng hạn như Luật Tổ chức bộ máy nhà nước, Luật Thủ đô, Luật Đất đai..., tất cả đều liên quan đến Hiến pháp. Nếu Hiến pháp chưa sửa thì những luật liên quan chặt chẽ đến Hiến pháp, muốn ban hành sớm cũng sẽ khó khăn vì chưa biết được nguyên tắc của Hiến pháp có sửa đổi hay không. Nhưng nếu chờ có Hiến pháp mới ban hành luật thì chậm, vì những có những cái rất cấp bách mà Quốc hội đặt ra. Điều này đòi hỏi giải pháp kết hợp đồng thời, khi có chuẩn bị sửa Hiến pháp thì đồng thời cũng tổng kết để sửa đổi những luật liên quan. Như vậy có thể đáp ứng được cái lâu dài và cái trước mắt.
Thưa ông, dự kiến, Hiến pháp sẽ tập trung sửa đổi những điểm gì cơ bản?
Trong Văn kiện của Đảng chỉ nói khẩn trương tổng kết, nghiên cứu để sửa đổi bổ sung Hiến pháp. Như vậy, sửa cái gì phải qua tổng kết mới biết được. Nhưng văn kiện của Đảng quy định là một hướng mở, nghĩa là không giới hạn chỉ sửa một số điều hay vài điều mà nghiên cứu để sửa đổi bổ sung Hiến pháp thôi, có nghĩa là có thể nhiều, có thể ít, tùy vào hoạt động tổng kết. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ, vấn đề nào cũng cần được đặt ra.
Chẳng hạn như chế độ chính trị, chúng ta vẫn khẳng định xây dựng “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, có sự tập trung, phân công phối hợp giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng sẽ nâng tầm lên để khẳng định lại điều đó. Rồi vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước cũng được đặt ra một cách toàn diện. Thứ hai, liên quan đến vấn đề kinh tế. Cá nhân tôi cho rằng đây là vấn đề trọng tâm, phải nghiên cứu bởi vì chúng ta đã có tổng kết thực tiễn 25 năm đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế đa thành phần, có nhiều hình thức sở hữu. Như vậy trong quy định phải thể hiện như thế nào cho phù hợp hơn. Trong sở hữu thì đây là phải xác định sở hữu nhà nước - sở hữu toàn dân - là vai trò chủ đạo, nhưng làm cho được thực sự phát huy hết và quản lý thật chặt nguồn lực sở hữu nhà nước.
Như hiện nay có một số lĩnh vực quản lý nhà nước chúng ta cũng buông lỏng, chẳng hạn đất đai sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý, nhưng các quyền nội hàm của sở hữu đã trao gần hết cho các tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng đất, nên Nhà nước bị mất, nhân dân không được lợi gì, chỉ có một số cá nhân cá biệt hưởng lợi. Cho nên phải tính toán lại sao cho quản lý nhà nước, nguồn lực của nhà nước không bị thất thoát…
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có các bài:
3.1. Phú Yên: Kiểm tra sai phạm của chi cục trưởng Thi hành án huyện Tuy Hòa. Bài báo phản ánh: Ngày 25-7, một nguồn tin cho biết Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên đã có quyết định thành lập đoàn kiểm tra gồm sáu thành viên của cơ quan này để kiểm tra lại yêu cầu của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Phú Yên (UBKT) trong việc thi hành kỷ luật chi cục trưởng Thi hành án dân sự huyện Tây Hòa.
Trước đó, UBKT đã quyết định kỷ luật khai trừ ông Đinh Thiên Tường, Bí thư chi bộ, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Hòa, ra khỏi Đảng; đề nghị Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên xử lý kỷ luật hành chính đối với ông Tường bằng hình thức buộc thôi việc; hủy toàn bộ các quyết định của cơ quan Thi hành án dân sự huyện Tây Hòa đối với việc thi hành một vụ án mà ông Tường đã lợi dụng chức trách được giao, thực hiện nhiều hành vi trái pháp luật để trục lợi.
Theo kết luận của UBKT, khi được giao kê biên, tổ chức bán đấu giá ngôi nhà của vợ chồng ông Nguyễn Đức T., ông Tường đã xác minh tài sản không đúng, cố ý tổ chức kê biên không đầy đủ, định giá không hết diện tích đất… Sau đó, ông tổ chức một phiên đấu giá giả để chuyển dịch tài sản cho người khác nhằm thu lợi bất chính 90 triệu đồng. Ông còn nhiều sai phạm khác…
Được biết, VKSND Tối cao đã giao Cục Điều tra của viện này phối hợp VKSND tỉnh Phú Yên tiếp tục làm rõ những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự của ông Tường.
3.2. Sẽ luật hóa việc trả lương qua thẻ ATM. Bài báo phản ánh: Việc trả lương qua thẻ ATM cho người lao động sẽ được quy định cụ thể trong Bộ luật Lao động sửa đổi. Ông Hoàng Minh Hào, Phó Vụ trưởng Vụ Lao động - Tiền lương (Bộ LĐ-TB&XH), cho biết tại hội thảo về phương án tăng lương tối thiểu và chính sách lao động mới của Việt Nam ngày 25-7.
Ông Hào cho biết thêm Bộ luật Lao động sửa đổi sẽ tạo khung pháp lý, trên cơ sở đó sẽ có các văn bản quy định cụ thể việc trả lương qua thẻ. Chẳng hạn, chi phí rút tiền sẽ do người lao động hay do chủ sử dụng lao động chịu; rút tiền gặp trục trặc (bị mất tiền do bảo mật không tốt…) thì cơ quan nào chịu trách nhiệm; việc giữ một khoản tiền bảo đảm trong tài khoản do người lao động hay doanh nghiệp chịu… Được biết, dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi do Bộ LĐ-TB&XH xây dựng đã được Bộ Tư pháp thẩm định, dự kiến sẽ trình Chính phủ vào tháng 8 và trình Quốc hội tháng 10.
3.3. Có của mà không được xài. Bài báo phản ánh: Chuyện trớ trêu này rơi vào một số trường hợp vợ chồng lập di chúc chung. Khi một người chết trước, người thừa kế và người còn sống không thể định đoạt tài sản.
Theo quy định của các điều 663, 668 Bộ luật Dân sự, vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
Cách đây nhiều năm, vợ chồng ông H. cùng nhau lập di chúc chung để lại căn nhà thuộc sở hữu chung cho một người con gái. Năm 2008, vợ ông H. mất. Sau đó ông H. bị tai nạn thương tật.
Để bản thân có tiền chạy chữa, ông và con gái dự định bán nhà. Đầu tiên, con gái ông đi làm thủ tục khai nhận di sản là 1/2 nhà thuộc sở hữu của mẹ. Tuy nhiên, cơ quan công chứng cho biết không thể giải quyết yêu cầu khai nhận di sản của cô con gái.
Về phía ông H., cơ quan công chứng cũng không thể chứng nhận cho ông bán 1/2 nhà thuộc sở hữu của ông. Ông cũng không thể cùng con gái đứng tên bán cả căn nhà vì con gái ông chưa được pháp luật công nhận có quyền sở hữu 1/2 nhà của mẹ chết để lại.
Có công chứng viên hướng dẫn: Ông phải kiện ra tòa đề nghị xác định cụ thể phần nhà mà ông được sở hữu trong căn nhà thuộc sở hữu chung của vợ chồng ông rồi mới có thể bán phần nhà của ông được. “Muốn kiện cũng không hề đơn giản. Để được tòa thụ lý, giải quyết thì tôi phải đóng tạm ứng án phí, phải chờ đợi trong năm, sáu tháng trời” - ông H. nói.
Trường hợp của chị C. ở quận Bình Thạnh còn “chua chát” hơn. Ba mẹ chị có một miếng đất ở Hóc Môn và hai ông bà đã làm di chúc cho chị miếng đất đó cách đây vài năm. Năm ngoái, cứ tưởng mẹ mất rồi thì đương nhiên mình được hưởng thừa kế phần đất của mẹ; còn phần cha thì chỉ cần cha cũng ký bán là xong. Nào ngờ chị và cha chị đều không thể làm thủ tục bán đất. Do trước đó đã lỡ nhận cọc nên khi việc mua bán đất bất thành, chị phải chạy tiền bồi thường cho người đặt cọc.
Trên đây là hai dẫn chứng trong rất nhiều trường hợp gặp khó tương tự. Cuối năm 2007, Phòng Công chứng số 4 TP.HCM có tiếp nhận hai hồ sơ xin khai nhận di sản có liên quan đến di chúc chung của vợ chồng. Điểm chung của các trường hợp này là có một trong hai người lập di chúc chung chết trước và người được chỉ định thừa hưởng tài sản trong di chúc chung muốn khai nhận phần tài sản của người đã chết. Để có hướng xử lý, phòng này đã hỏi ý kiến của Sở Tư pháp và nhận được câu trả lời: “Không thể làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế”.
Theo Sở Tư pháp, trong các di chúc chung đều có nội dung “sau khi chúng tôi qua đời thì… (người được chỉ định nào đó) sẽ được trọn quyền thừa kế”. Nội dung này thể hiện thời điểm người được hưởng di sản là sau khi cả hai vợ chồng người lập di chúc qua đời. Nay khi người vợ hoặc người chồng chết và người kia vẫn còn sống tức di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực theo Điều 668 BLDS nêu ở trên nên chưa thể tiến hành thủ tục khai nhận di sản.
Với ràng buộc đã nêu, nhiều người dân có thể vướng vào tình huống “có của mà không được xài”. Khi thời điểm chết của hai người cách nhau một khoảng thời gian dài thì cũng là ngần ấy năm khối di sản chung vô tình bị phong tỏa. Người đồng sở hữu còn sống rất khó khăn để định đoạt tài sản của mình. Người thừa kế cũng chưa có quyền thừa hưởng phần di sản của người đã chết. Những trở ngại này cần được các cặp vợ chồng tính toán kỹ trước khi quyết định lập di chúc chung.