I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân đưa tin: Ngày 28-6, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội đã khai mạc Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng cho hơn 1.000 cán bộ chủ chốt của thành phố. Ðến dự có các đồng chí Ủy viên T.Ư Ðảng: Nguyễn Bắc Son, Phó Trưởng ban Tuyên giáo T.Ư; Ngô Thị Doãn Thanh, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HÐND thành phố Hà Nội.
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đưa tin: Việt Nam đã có 6 doanh nghiệp cấp chứng thực chữ ký số. Ngày 28/6/2011, tại Hà Nội đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông trao Giấy phép thứ 6 về cung cấp dịch vụ chữ ký số công cộng cho Công ty cổ phần công nghệ và Truyền thông CK (công ty CK). Đây là doanh nghiệp thứ sáu được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số tại Việt Nam với thương hiệu dịch vụ CKCA.
3. Báo Dân trí có bài Đề nghị truy tố nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty Dược phẩm Viễn Đông. Bài báo đưa tin: Tin ngày 28/6 cho biết, Cơ quan An ninh điều tra Bộ CA đã hoàn tất kết luận điều tra vụ án liên quan đến Lê Văn Dũng và đồng bọn thao túng giá chứng khoán.
Hồ sơ điều tra đã được chuyển sang VKSND Tối cao, đề nghị truy tố đối với 4 bị can về tội danh nói trên gồm: Lê Văn Dũng, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần dược phẩm Viễn Đông (DVD); Nguyễn Văn Việt (em vợ Dũng), Ủy viên Hội đồng quản trị DVD; Lê Văn Mạnh (em trai Dũng), Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần quốc tế Viễn Đông và Lê Minh Truyền, nhân viên môi giới chứng khoán của Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (SBS).
Theo kết luận điều tra, vào cuối năm 2009, Công ty DVD niêm yết trên Sàn chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HOSE). Để giữ và nâng giá, cũng như tăng tính thanh khoản giả cho cổ phiếu DVD, Lê Văn Dũng đã mượn tư cách pháp nhân và danh nghĩa của một số tổ chức, cá nhân là người nhà, người thân để mở 12 tài khoản tại các công ty chứng khoán để tiến hành giao dịch mua, bán cổ phiếu DVD. Sau đó, trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 9/2010, Dũng đã tiến hành hàng trăm giao dịch ảo, làm tăng tính thanh khoản, tăng giá và tạo giá trị ảo cho cổ phiếu DVD để thu hút nhà đầu tư, cũng như phục vụ việc niêm yết, chào bán chứng khoán. Cơ quan điều tra làm rõ, tổng số tiền thực hiện các giao dịch ảo lên tới trên 221 tỷ đồng.
Ngoài ra, Lê Văn Dũng và đồng bọn còn thực hiện việc cấu kết lôi kéo người khác thực hiện nhiều giao dịch ảo đối với cổ phiếu của Công ty dược phẩm Hà Tây (DHT) nhằm mục đích thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp này vào vào DVD. Sự việc này gây ra thiệt hại cho nhiều nhà đầu tư.
Cơ quan điều tra cũng xác định, mặc dù biết các thủ đoạn của Lê Văn Dũng, nhưng Lê Minh Truyền không ngăn chặn mà còn đắc lực tiếp tay. Trong đó để đảm bảo cho các giao dịch thành công khi thực hiện các giao dịch nội bộ (giao dịch khớp chéo) giữa các tài khoản trong nhóm với nhau, tránh tình trạng tài khoản nằm ngoài nhóm tài khoản của Lê Văn Dũng khớp lệnh mua mất cổ phiếu từ tài khoản khác trong nhóm, Truyền đã chọn mốc thời gian ít có giao dịch trên sàn nhất hoặc thời gian có các giao dịch ở mức giá thấp để thực hiện khớp lệnh ở mức giá cao hơn mức giá đưa ra.
Cơ quan An ninh điều tra còn phát hiện Lê Văn Dũng và một số đối tượng liên quan có hành vi “Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che dấu sự thật trong hoạt động chứng khoán”, “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” nên đã tách ra để xác minh và xử lý trong một vụ án khác.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo VietNamPlus đưa tin: Từ ngày 1/7, sẽ có 8 luật mới bắt đầu hiệu lực thi hành. Đó là các Luật Thanh tra; Luật Tố tụng hành chính; Luật Khoáng sản; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Luật sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Luật An toàn thực phẩm và Luật Thi hành án hình sự.
2. Báo Người cao tuổi có bài Trong ngành toà án tỉnh Bến Tre: Sai phạm như con voi, xử lí như con kiến. Bài báo phản ánh: Báo Người cao tuổi số 844 ra ngày 22-12-2010, số 845 ra ngày 24-12-2010 và số 846 ra ngày 25-12-2010 đăng bài: "Bến Tre: Cục Thi hành án dân sự chạy theo thành tích và nhiều tiêu cực" phản ánh trường hợp ông Phạm Hoài Thuận, Cục trưởng Cục Thi hành án Dân sự (CTHADS) tỉnh Bến Tre đã cố tình vùi lấp nhiều tiêu cực, gây thất thoát hàng tỉ đồng ngân sách và dùng "trò ảo thuật" để được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ Tư pháp, Huân chương Lao động hạng Ba… đến nay đã có kết luận thanh tra nhưng xử lí kỉ luật lại theo kiểu "đầu voi, đuôi chuột"...
Trước đây, ông Phạm Hoài Thuận vốn là Phó Giám đốc Sở Tư pháp kiêm Trưởng Phòng Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre đã bị cách chức Phó Giám đốc sở vì thu lợi bất chính 5.000 USD kí giấy đăng kí kết hôn bất hợp pháp cho hai người xuất cảnh sang Ca-na-đa, kéo theo hàng loạt cán bộ của ngành Tòa án và Viện kiểm sát tỉnh bị kỉ luật. Sau đó, ông Thuận lại bị Tỉnh ủy Bến Tre "khiển trách" về hành vi lập quỹ trái phép. Bẵng đi ít lâu, ông Thuận được đề bạt Cục trưởng Cục THADS tỉnh Bến Tre. Ngựa quen đường cũ, hàng loạt vụ tiêu cực trong ngành thi hành án đã diễn ra ở phạm vi rộng, từ thành phố Bến Tre lan xuống các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm... nhưng đều được ông Cục trưởng nhấn chìm. Ông dùng chiêu bài "báo cáo láo" để được cấp trên phê chuẩn "thành tích ảo". Thực tế, hành vi "lừa đảo cấp trên" đã trót lọt để CTHADS tỉnh Bến Tre được nhận Huân chương Lao động hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ Tư pháp cùng nhiều phần thưởng khác. Ông Cục trưởng Phạm Hoài Thuận chủ động nhấn chìm việc gây thất thoát hàng tỉ đồng ngân sách. Nhiều cán bộ trong ngành thi hành án đã tham ô, chiếm dụng công quỹ, tác phong, lối sống buông thả, độc đoán, gia trưởng; thải hồi và thu nhận cán bộ không tuân thủ các quy định của pháp luật. Những sai phạm có tính hệ thống là có sự tiếp tay của một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. "Các ông kết luận kiểu này thì chết tôi. Nếu không có sự đồng ý của Viện kiểm sát tỉnh, thì ông nội tôi sống lại tôi cũng không bao giờ dám làm chuyện đó…" Ông Thuận, Cục trưởng CTHADS đã bộc bạch như vậy tại cuộc họp thông qua báo cáo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bến Tre. Đặc biệt, trong vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Tả Mạnh Lâm ở huyện Giồng Trôm, Cục THADS tỉnh Bến Tre đã cố tình đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài thời gian bảo kê cho những kẻ cố tình phạm pháp. Gần đây, ngày 13-6-2011, Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS-Bộ Tư pháp đã có Công văn chỉ đạo số 2027/THA-GQKNTC yêu cầu Cục THADS tỉnh Bến Tre tiếp tục tổ chức kê biên, xử lí tài sản của vợ chồng Tả Mạnh Lâm, Đỗ Thị Kim Đáng, báo cáo kết quả về Tổng Cục THADS. Trong vụ án này có hai Phó Chủ tịch UBND xã Châu Hòa kí hai hợp đồng đối với một tài sản chuyển nhượng trái pháp luật trong cùng một tháng nhằm góp sức bảo kê cho vợ chồng Tả Mạnh Lâm tẩu tán tài sản để không phải thi hành án. Đó là Nguyễn Văn Phú, Phó Chủ tịch UBND xã hiện đã bị cách chức. Còn Trần Văn Chí Em, khi sai phạm còn làm Phó chủ tịch UBND xã, nay lại lên chức Chủ tịch UBND xã Châu Hòa và trúng cử HĐND xã. Những người bị hại, nhiều người dân đã gửi đơn tố cáo từ xã đến tỉnh, nhưng ông Chí Em vẫn được bảo vệ ngồi trên chiếc ghế lãnh đạo xã như chưa hề có cuộc làm bậy nào? Các cán bộ lão thành tại địa phương đặt câu hỏi: "Hai cán bộ đều là Phó Chủ tịch UBND xã làm bậy như nhau mà lại xử lí kỉ luật một người, sao lại bất công như vậy ?".
Sau khi Báo Người cao tuổi đăng 3 kì liên tục về những vụ tiêu cực này, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bến Tre thành lập đoàn kiểm tra. Kết quả, Đoàn kiểm tra đế xuất kiến nghị xử lí 11 vụ việc tiêu cực gồm:
1- Đề nghị thẩm tra lí lịch nhằm bãi nhiệm chức danh Chấp hành viên đối với Lê Văn Hiền. 2- Làm rõ việc xếp hồ sơ, xóa sổ thụ lí 19 vụ việc với 35 người không thi hành án mà Cục THADS tỉnh cố tình làm trái Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 17-6-2005 của TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA-BTC, yêu cầu phục hồi để thi hành án đối với những vụ việc có điều kiện thi hành án. 3- Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15-9-2009 và ngày 23-9-2009 của ông Lâm, bà Đáng bán cho Tả Thị Lệ Hồng và ông Trần Văn Lực vì nội dung hai hợp đồng này có gian dối vi phạm pháp luật. 4- Đối với Cchấp hành viên Lê Văn Tiếp, Phó Chi cục THADS huyện Giồng Trôm, báo cáo cấp trên thiếu trung thực, gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất lòng tin, gây oan sai, hoài nghi trong quần chúng nhân dân, cần kiểm điểm xử lí trách nhiệm. 5- Đối với Phan Văn Nhờ, Viện trưởng và Võ Minh Trung, kiểm sát viên thuộc VKSND huyện Giồng Trôm do cẩu thả trong khi làm nhiệm vụ dẫn đến vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu trong quần chúng nhân dân. Cần kiểm điểm làm rõ và có hình thức xử lí trách nhiệm. 6- Đối với Nguyễn Văn Phú, Phó Chủ tịch và Trần Văn Chí Em nguyên Phó Chủ tịch UBND xã Châu Hòa, huyện Giồng Trôm cần kiểm điểm và có hình thức xử lí trách nhiệm. 7- Đối với bà Huỳnh Thị Ngọt, Phó Giám đốc và bà Võ Thị Mai Phương, cán bộ tín dụng Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam Chi nhánh Bến Tre cho vay lãi suất không đúng đối tượng 4%/năm, thông đồng với chính quyền xã kí hợp đồng lùi ngày để hợp thức hóa chứng từ. Cần kiểm điểm và có hình thức xử lí. 8- Đối với Nguyễn Văn Nghiệp, Phó Cục trưởng CTHADS tỉnh Bến Tre tham gia họp xếp hồ sơ THA, xóa sổ thụ lí không đúng quy định và vi phạm về hướng dẫn nghiệp vụ chỉ đạo cấp dưới trả đơn yêu cầu của đương sự trái pháp luật, cần phải kiểm điểm và xử lí trách nhiệm. 9- Đối với ông Phạm Hoài Thuận, Cục trưởng CTHADS tỉnh, vai trò tham mưu công tác bổ nhiệm cán bộ không tuân thủ quy định của ngành, cán bộ có sai phạm không xử lí kịp thời, để kéo dài thời gian hết thời hiệu xử lí. Đề nghị xếp hồ sơ, xóa sổ thụ lí 19 vụ việc (35 người) với số tiền 196.856.000 đồng và 152,6 lượng vàng (trong đó có 149,6 lượng vàng 24k, 3 lượng vàng 18k) là người trực tiếp chỉ đạo THA gây hậu quả nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản nhà nước, trong quản lí chỉ đạo điều hành không nghiên cứu hồ sơ vụ việc chỉ nghe cấp dưới báo cáo dẫn đến chỉ đạo sai, gây mất lòng tin của Đảng đối với nhân dân, quản lí tài chính quá lỏng lẻo, có nhiều vi phạm, tiền thì thâm hụt quỹ nhưng đem cất giấu gửi tiết kiệm, lập quỹ đen để ngoài sổ sách kế toán, thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ thiếu nghiêm túc. Đoàn Thanh tra đề nghị có hình thức xử lí kỉ luật về Đảng và Chính quyền. 10- Đối với Trần Văn Chí, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh, phụ trách công tác THA đã tham gia cùng ông Thuận xếp hồ sơ, xóa sổ thụ lí THA 19 vụ là cố tình làm trái Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 17-6-2005 và Thông báo số 36/TB-VP ngày 10-4-2005 của UBND tỉnh, gây thất thoát số tiền quá lớn cho ngân sách nhà nước. Trong chỉ đạo vụ ông Lâm, bà Đáng và bà Trinh ở xã Châu Hòa, Giồng Trôm để xảy ra quá nhiều sai sót. Đoàn Thanh tra đề nghị kiểm điểm và có hình thức xử lí trách nhiệm. 11- Yêu cầu Cục trưởng CTHADS tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo Chi cục THADS thành phố Bến Tre tiến hành rút tiền gửi ngân hàng (quỹ đen) để nhập vào quỹ Chi cục nhằm khôi phục số tiền quỹ bị thâm hụt.
Sự việc đã quá rõ ràng như vậy rồi, chỉ cần các hành vi "lập quỹ đen", "Thiếu tinh thần trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng", "Cố ý làm thất thoát quá lớn ngân sách Nhà nước", "Buông lỏng quản lí tài chính…" cũng đủ các yếu tố cầu thành nhiều tội danh về hình sự, nhưng đến nay thời gian đã quá lâu mà Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bến Tre mới công bố một quyết định xử lí kỉ luật đối với ông Phạm Hoài Thuận, Cục trưởng CTHADS tỉnh bằng hình thức "Khiển trách", đúng là kiểu xử lí "đầu voi đuôi chuột", trong khi một đứa trẻ mồ côi đói khổ ăn cắp một chiếc xe đạp, thì bị "các quan nêu trên" khởi tố hình sự và truy tố, đem ra tòa xét xử công khai, phạt tù. Còn những cán bộ có chức có quyền, thực thi pháp luật, được đào tạo bài bản qua nhiều trường lớp bằng ngân sách, vậy mà từ Phó Giám đốc Ngân hàng Công thương đến Viện Kiểm sát tỉnh và ngành thi hành án gây ra biết bao tiêu cực, làm xáo trộn về công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan chức năng, gây mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng?
Đề nghị Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bến Tre cần chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra của Công an hoặc cơ quan điều tra của Viện kiểm sát tỉnh để làm rõ những sai phạm theo đúng chức năng luật định. Việc xử lí kỉ luật ông Cục trưởng CTHADS cũng mang tính "độc quyền" giống như tỉnh này đã từng bán chỉ định "rẻ như cho" bốn doanh nghiệp Nhà nước lớn nhất tỉnh cho Ngân hàng tư nhân Sacombank gây thất thoát hàng nghìn tỉ đồng ngân sách ? Kẻ nào đã bất chấp kỉ cương phép nước đến thế ? Ắt hẳn rồi đây cơ quan công luận sẽ lên tiếng về vấn đề này.
3. Báo Tiền phong Online có bài Sai lệch ủy quyền, nhập nhèm thế chấp. Bài báo phản ánh: Gần đây, xảy ra rất nhiều vụ các đối tượng lừa đảo mượn sổ đỏ của người khác đem thế chấp ngân hàng vay tiền, rồi bỏ trốn. Chủ tài sản bị ngân hàng xiết nợ thường là những nông dân nghèo, kém hiểu biết, ít quan hệ, số tiền ngân hàng cho vay khó đến tay họ…
Xung quanh chuyện này, một số luật sư, thẩm phán, công chứng viên đang tranh luận về hai chủ đề: Ủy quyền và Thế chấp. Dường như đang có những cách hiểu rất khác nhau về hai vấn đề này.
Ngày 10-12-2009, tại Văn phòng công chứng V.T. (Hà Nội), ba nông dân ở huyện Đan Phượng và huyện Phúc Thọ (Hà Nội) ký ba Hợp đồng ủy quyền với ông Nguyễn Duy T. (ở Hải Dương), và giao các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) của họ cho ông T. Các hợp đồng quy định giống nhau: Ông T được "thế chấp sổ đỏ để vay vốn, hoặc thế chấp cho bên thứ ba được vay vốn các ngân hàng, tổ chức tín dụng".
Ngày 6-01-2010, cũng tại Văn phòng công chứng V.T., ông T. ký Hợp đồng thế chấp, dùng 03 QSDĐ để bảo đảm cho Cty K (trụ sở tại Hải Dương) vay tiền Ngân hàng S Chi nhánh Hải Dương (gọi tắt là ngân hàng). Theo đó, Bên thế chấp là ông T; Bên cho vay là ngân hàng; Bên vay là Cty K; tài sản thế chấp là 3 sổ đỏ tổng giá trị 7,652 tỷ đồng.
Ngày 13-1-2010, Cty K ký Hợp đồng tín dụng với ngân hàng, vay 2,8 tỷ đồng "bổ sung vốn kinh doanh", thời hạn 10 tháng. Tài sản bảo đảm là 3 sổ đỏ theo Hợp đồng thế chấp đã nêu. Vay được tiền, Cty K không sử dụng đúng mục đích, mà giao cho ông T. Sau khi nhận tiền, ông T. bỏ đi khỏi địa phương.
Hết hạn cho vay, Ngân hàng yêu cầu Cty K và ba nông dân trả nợ. Tại cuộc gặp ba bên mới đây, Cty K đề nghị Ngân hàng "xử lý theo pháp luật"; Ngân hàng tuyên bố nếu ba nông dân không trả nợ, sẽ xử lý tài sản của họ; ba nông dân có nguy cơ phải bán nhà đất để trả khoản nợ "trời ơi đất hỡi"…
Những vụ việc như nêu ở trên rất phổ biến thời gian gần đây. Về cơ sở pháp lý, quan hệ giữa ba nông dân và ông T. dựa trên Chế định Ủy quyền của Bộ luật Dân sự 2005, được quy định cụ thể tại các Điều từ 139 đến 148 (quy định về Đại diện), và các Điều từ 581 đến 589 (quy định về Hợp đồng Ủy quyền). Theo đó, nói ngắn gọn, người được ủy quyền được "nhân danh và vì lợi ích của Người uỷ quyền, xác lập giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện".
Về nguyên tắc, chủ sở hữu tài sản (SHTS) có thể ủy quyền cho người khác mua bán, thế chấp... tài sản của mình. Tuy nhiên, trong các giao dịch đó, người được ủy quyền không nhân danh chính mình, mà nhân danh chủ SHTS để đàm phán, ký kết, thể hiện rõ ở danh tính "các bên" của hợp đồng.
Văn bản hợp đồng phải chặt chẽ, bởi nó cho thấy quyền và nghĩa vụ phát sinh qua các giao dịch mua bán, thế chấp... thuộc chủ SHTS, không thuộc người được ủy quyền. Giả sử được nhận tiền thông qua các giao dịch này, người được ủy quyền phải chuyển lại cho chủ SHTS. Nếu phát sinh tranh chấp, bên mua (hoặc bên nhận thế chấp) khởi kiện ra tòa, bị đơn sẽ là người ủy quyền, không phải người nhận ủy quyền.
Trường hợp ba nông dân và ông T, theo các phân tích trên đây, ông T. được ký Hợp đồng thế chấp với Ngân hàng, với điều kiện bên thế chấp phải ghi rõ ba nông dân, người đại diện theo ủy quyền của họ là ông T. Thực tế Hợp đồng thế chấp ghi bên thế chấp là ông T. là sai chế định Ủy quyền (sai chủ thể của hợp đồng).
Áp dụng sai chế định Ủy quyền xuất phát từ một nhận định đang khá phổ biến: Khi chủ SHTS đã ký hợp đồng công chứng cho phép người được ủy quyền "toàn quyền" mua bán, thế chấp tài sản, điều đó đồng nghĩa người được ủy quyền được sử dụng tài sản của người ủy quyền như tài sản của chính mình để mua bán, thế chấp.
Từ cách hiểu sai lệch này, thay vì người được ủy quyền chỉ tiếp nhận quyền đàm phán, ký kết, thực hiện các hợp đồng mua bán, thế chấp... từ người ủy quyền, người ta mặc nhiên "công nhận" người được ủy quyền đã tiếp nhận quyền SHTS từ người ủy quyền, nhờ đó, họ được nhân danh chính mình trong các bản hợp đồng.
Trong sai phạm kiểu này, có trách nhiệm lớn của các công chứng viên, và nhiều trường hợp, có cả trách nhiệm của các tổ chức tín dụng. Trường hợp ông T, Ngân hàng S và Văn phòng công chứng V.T. là một ví dụ.
Hậu quả của cách hiểu sai lệch về chế định Ủy quyền, đó là nhiều người lợi dụng quan hệ ủy quyền để che đậy quan hệ chuyển nhượng nhằm trốn thuế; nhiều đối tượng lừa đảo có thể chiếm đoạt tài sản người khác một cách dễ dàng; nhiều hợp đồng mua bán, thế chấp QSDĐ có nguy cơ bị tòa án tuyên vô hiệu.