Điểm tin báo chí sáng ngày 23 tháng 6 năm 2011

23/06/2011
Trong buổi sáng ngày 23/6/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo điện tử Chính phủ đưa tin: Chiều 22/6, Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã kết thúc tốt đẹp chuyến thăm hữu nghị chính thức CHDCND Lào theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHDCND Lào Chummaly Xaynhaxỏn và Phu nhân. Kết thúc chuyến thăm, hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam - Lào.

2. Báo Nhân dân đưa tin: Ngày 22-6, tại TP Hồ Chí Minh, Viện KSND tối cao tổ chức hội nghị cán bộ quán triệt những chủ trương của Ðảng, quy định mới của Nhà nước về tổ chức, hoạt động của Viện KS trong giai đoạn mới; triển khai những nhiệm vụ công tác kiểm sát trong thời gian tới.

Ðồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên  Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, dự và phát biểu ý kiến chỉ đạo. Các đồng chí Ủy viên T.Ư Ðảng: Trần Quốc Vượng, Viện trưởng Viện KSND tối cao; Nguyễn Thị Thu Hà, Phó Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh; lãnh  đạo,  cán  bộ  chủ  chốt  Viện  KSND  các tỉnh, thành phố trong cả nước dự.

3. Báo Tuổi trẻ Online có bài Về việc chủ doanh nghiệp nợ lương bỏ trốn: Kiến nghị tìm hướng giải quyết. Bài báo phản ánh: Ngày 21-6, ông Hứa Ngọc Thuận, phó chủ tịch UBND TP.HCM, đã có cuộc họp với các sở ngành về việc giải quyết vấn đề các chủ doanh nghiệp (DN) nợ lương, bảo hiểm xã hội bỏ trốn.

Theo tờ trình của Sở LĐ-TB&XH TP.HCM, tính từ tháng 4-2010 đến nay trên địa bàn TP đã xảy ra ba trường hợp DN có vốn đầu tư nước ngoài có chủ bỏ trốn và nợ lương người lao động:

Một là Công ty TNHH Jin Sang Vina (tổ 3, phường Thạnh Lộc, quận 12). Công ty này có 100% vốn đầu tư Hàn Quốc, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và chế tạo nữ trang, do ông Lee Yong Nam làm giám đốc. Qua xác minh của Công an TP.HCM, ông Lee Yong Nam đã rời khỏi VN qua sân bay Tân Sơn Nhất, để lại số nợ lương khoảng 148 triệu đồng, nợ các đối tác bên ngoài 600 triệu đồng. Hai là Công ty TNHH Haekwang Vina (ấp Đông, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn), 100% vốn đầu tư Hàn Quốc, hoạt động trong lĩnh vực gia công nón, do ông Cho Yong Gak làm giám đốc. Đến nay công ty còn nợ lương khoảng 122 triệu đồng của 56 lao động và 200 triệu đồng của các đối tác bên ngoài. Ba là Công ty dệt áo len xuất khẩu Magnicon VN (quốc lộ 1A, phường Tân Chánh Hiệp, quận 12), 100% vốn đầu tư của Đài Loan, do ông Lai Chun Nan làm giám đốc. Hiện công ty còn nợ lương của 320 lao động với số tiền khoảng 1,6 tỉ đồng, nợ đối tác bên ngoài khoảng 2,1 tỉ đồng.

Thời gian qua, Sở LĐ-TB&XH phối hợp với các ban ngành tiến hành thủ tục phá sản đối với ba doanh nghiệp này, đề nghị người lao động, chủ DN cho thuê mặt bằng khởi kiện dân sự các khoản nợ ra tòa án nhân dân. Tuy nhiên quá trình thảo luận giữa các sở, ngành, UBND quận huyện cho thấy việc tiếp tục áp dụng các quy định pháp luật về phá sản, khởi kiện dân sự đối với khoản nợ lương của chủ DN đối với người lao động là không khả thi. Thực tế cho thấy bản thân chủ DN không có trách nhiệm, sau khi nợ lương đã trốn khỏi VN, tài sản DN để lại thấp hơn giá trị các khoản nợ. Đó là chưa kể việc trông giữ tài sản còn lại của DN tại các địa phương là rất khó khăn, nếu tiếp tục kéo dài thì giá trị tài sản ngày càng giảm sút. Trong khi đó người lao động vẫn rơi vào cảnh khổ sở vì không được trả lương và bị mất việc.

Từ tình hình trên, Sở LĐ-TB&XH đã đề xuất UBND TP.HCM kiến nghị Thủ tướng Chính phủ để xin ý kiến chỉ đạo về hướng giải quyết và tìm giải pháp chung cho vấn đề này thời gian tới.

4. Trang thông tin chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam có bài Đề xuất phương án miễn thuế TNCN 2011. Bài báo đưa tin: Để đảm bảo anh sinh xã hội trong bối cảnh lạm phát tăng cao, Bộ Tài chính cùng Bộ LĐ-TBXH, Tổng Liên đoàn LĐVN vừa báo cáo Thường trực Ban Bí thư Trung ương một số giải pháp hỗ trợ người lao động ổn định cuộc sống thông qua các chính sách thuế và chính sách tài chính.

Giải pháp hàng đầu được Bộ Tài chính đề xuất là việc miễn thuế TNCN từ tháng 8 đến hết năm 2011 đối với những cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ kinh doanh đến mức phải chịu thuế TNCN ở bậc 1 của Biểu thuế luỹ tiến từng phần quy định tại Luật thuế TNCN.

Như vậy, nếu đề xuất này được thông qua thì việc miễn thuế TNCN sẽ có ba đối tượng được hưởng là cá nhân không có người phụ thuộc có thu nhập từ 5 triệu đồng/tháng trở xuống; cá nhân có một người phụ thuộc có thu nhập không quá 6,6 triệu đồng/tháng và cá nhân có hai người phụ thuộc có thu nhập không quá 8,2 triệu đồng/tháng. Đồng thời với việc miễn thuế này là việc Bộ Tài chính sẽ nâng mức thu nhập vãng lai từ 500.000 đồng lên thành 1 triệu đồng mới bị khấu trừ thuế TNCN.

5. Trang diaoconline.vn có bài Xoá bỏ chia lô, bán nền: Nhìn từ nhiều phía. Bài báo phản ánh: Dù đã “rục rịch” chuẩn bị tâm lý, nhưng nhiều DN BĐS vẫn “sốc” với thông tin Bộ Xây dựng chính thức đưa ra đề xuất cấm phân lô, bán nền, bán nhà xây thô gửi Thủ tướng Chính phủ. Mặc dù, còn nhiều ý kiến trái chiều, song nhìn chung chủ trương đó được coi là cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Nếu được thực hiện sẽ góp phần giảm thiểu yếu tố đầu cơ, hạn chế phần nào nhà đất hoang hóa.

Bà Cao Hoài Thanh - Giám đốc Cty Xây dựng Vina Line cho biết: Việc cấm phân lô bán nền là cần thiết bởi vì nó sẽ xóa bỏ được một phần nhà đầu tư nhỏ lẻ, đồng thời tránh được tình trạng hoang hoá tại các KĐT đang tồn tại hiện nay. Ngoài ra những DN hoạt động kinh doanh BĐS dưới quy mô nhỏ, thiếu khả năng về vốn, không có khả năng xây dựng và hoàn thiện dự án theo quy hoạch đã được phê duyệt từ đó sẽ hạn chế những rủi ro cho khách hàng, dự án xây dựng được hoàn thiện đúng tiến độ và đồng bộ hơn. Ví dụ dự án cao cấp như biệt thự, nhà liền kề lại không có người ở như ở KĐTM Mỗ Lao - Làng Việt kiều châu Âu còn 186/257 căn biệt thự và 191/262 căn nhà liền kề chưa sử dụng.

Không đồng quan điểm trên, ông Bùi Văn Việt - Giám đốc Cty CP Huy Hoàng Land than thở: Việc xóa hình thức phân lô bán nền và cấm bán nhà xây thô sẽ làm dự án đang triển khai sẽ đổ vỡ, DN kinh doanh BĐS sẽ phải gánh chịu đầu tiên… Trong bối cảnh siết chặt tín dụng ảnh hưởng tới việc huy động, thu hồi vốn để quay vòng đầu tư của các DN vừa và nhỏ.

Ông Bùi Văn Định, cán bộ hưu trí ở Định Công (Q.Hoàng Mai, Hà Nội) cho rằng: Chủ trương cấm phân lô bán nền của các dự án BĐS của Bộ Xây dựng nên làm triệt để, bởi ngay trong KĐT Định Công là một trong những KĐT đầu tiên được TP hoàn thiện, nhưng đã 6 năm mà nhiều nhà xây thô vẫn còn để không, cỏ mọc um tùm rất lãng phí.

Việc cấm phân lô, bán nền đã có những văn bản cụ thể được ghi rõ trong Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai; Điều 30, Chương III, Luật Nhà ở 2005; Luật Kinh doanh BĐS được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 nhưng việc áp dụng từ những văn bản như Nghị định Chính phủ, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh BĐS đã được quy định, tới thực tế lại là một khoảng cách xa vời tại các dự án nhà ở, KĐTM.

Mặc dù chủ trương cấm phân lô, bán nền sẽ gây không ít khó khăn cho các DN BĐS nhưng những DN có tiềm lực thực sự lại ủng hộ chủ trương này. Trước mắt việc cấm phân lô, bán nền sẽ hạn chế được thực trạng đầu cơ cũng như thực trạng hoang hóa ở các khu đô thị hiện nay. Đặc biệt khi chủ trương này được áp dụng sẽ loại bỏ được chủ đầu tư yếu kém về nguồn vốn. Qua đó, sẽ hạn chế được dòng tiền “ngâm” vào BĐS quá lâu, khách hàng cũng giảm thiểu được rủi ro khi tham gia dự án.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Hoạt động nghề nghiệp của nhà báo. Là hoạt động thi hành công vụ? Bài báo phản ánh:  Bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người dân, đó là trách nhiệm và cũng là lương tâm của mỗi người làm báo. Trong quá trình tác nghiệp, đồng hành cùng bạn đọc, ngày càng xảy ra nhiều trường hợp nhà báo bị đe dọa, cản trở, hành hung. Nhiều vụ việc, người dân có biết, nhưng không dám bênh vực nhà báo vì sợ bị trả thù. Trước thực trạng này, dịp kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21-6 năm nay, một vấn đề được nhiều người quan tâm là: Giải pháp nào để bảo vệ nhà báo khi hành nghề?

Khi Nghị định 02/2011/NĐ-CP được ban hành, với hầu hết các qui định vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí được tăng lên, nhất là qui định “cản trở, hành hung nhà báo bị phạt đến 30 triệu đồng”, nhiều phóng viên thấy mừng! Thế nhưng, Nghị định 02 (có hiệu lực từ 26-2) cũng đang có “nguy cơ” giống Nghị định 56 trong suốt 5 năm có hiệu lực trước đó, đã có hàng chục vụ cản trở, hành hung nhà báo xảy ra, nhưng theo thống kê của cơ quan chức năng, chưa xử phạt hành chính được trường hợp nào(!?).

Phải chăng, luật chỉ có hiệu lực “trên giấy”? Nhiều người cho rằng, vì khái niệm “cản trở nhà báo hành nghề” vẫn chưa được làm rõ. Khi xây dựng Nghị định 02, từng có ý kiến cho rằng cần qui định rõ thế nào là cản trở nhà báo hành nghề? Người thì bảo chỉ cần không cung cấp thông tin mà không có lý do chính đáng, ngăn cản nhà báo chụp ảnh, ghi âm là cản trở! Người lại cho rằng phải thu giữ phương tiện, giữ người… mới gọi là cản trở, nên hiện khái niệm này vẫn chưa được giải thích rõ trong luật!

Vấn đề này đang gây nhiều tranh cãi, nhiều người cho rằng hành vi cản trở nhà báo tác nghiệp là cản trở người thi hành công vụ, nhưng cũng có nhiều ý kiến không đồng tình. Nếu hoạt động tác nghiệp của nhà báo là thi hành công vụ, thì việc khởi tố hình sự với các đối tượng cản trở tác nghiệp của nhà báo không phụ thuộc vào tỷ lệ thương tích. Do vậy, nhiều vụ việc sẽ được xử lý nghiêm minh hơn. Nếu được tranh luận, chắc chắn các nhà báo sẽ đồng tình bảo vệ quan điểm hoạt động nghề nghiệp của nhà báo là thi hành công vụ, cản trở nhà báo tác nghiệp là cản trở người thi hành công vụ. Có như thế, mới xử lý nghiêm minh được những kẻ côn đồ, coi thường pháp luật, cản trở nhà báo!

2. Báo Thể thao & Văn hoá có bài Cần có thêm… Cục Bồi thường sức khỏe nhân dân. Bài báo phản ánh: Cục Bồi thường Nhà nước đã có quyết định thành lập từ tháng 5 và sẽ ra mắt trong tháng 6 này. Với những người không am tường luật pháp, thì tên gọi của đơn vị chuyên trách thuộc Bộ Tư pháp này có vẻ hơi... lạ lùng. Nhưng nó là cần thiết để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường.

Rất hoan nghênh, khi Nhà nước có hẳn một đơn vị chuyên trách để thực hiện trách nhiệm này. Nhưng tôi chợt nghĩ, Nhà nước đã “fair-play” như vậy, còn các doanh nghiệp thì sao?

Khi một người tiêu dùng tố cáo một sản phẩm có vấn đề, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe hoặc các quyền lợi khác của mình thì họ có thể khởi kiện doanh nghiệp đó ra tòa, hoặc kêu cứu thông qua Hội Bảo vệ người tiêu dùng. Thế nhưng, có những sản phẩm bị chứng minh là nguy hại đến sức khỏe của con người hẳn hoi, nhưng “nguyên đơn” không phải là một người tiêu dùng cụ thể, mà là cả xã hội. Còn “bị đơn” cũng có thể là một doanh nghiệp cụ thể, nhưng ở bên Tây, bên Tàu. Với những vụ việc đó, ai sẽ đứng ra kiện và kiện ai?

Thỉnh thoảng người tiêu dùng lại tá hỏa khi có các thông tin về sữa, nước tương... có chất nọ chất kia như melamine, 3-MCPD... Đó là chưa kể những mặt hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ bày bán tràn lan ngoài chợ, có nhiều nguy cơ lạm dụng các chất như chất kích thích tăng trưởng, thuốc trừ sâu... Những sản phẩm đó đương nhiên là gây hại đến sức khỏe hoặc làm thiệt hại tiền bạc của người tiêu dùng. Nhưng kết quả thì chỉ đến mức bị thu hồi hoặc bị loại ra khỏi các trung tâm thương mại, các siêu thị... là hết. Hàng ngàn, hàng triệu sản phẩm có khi vẫn trôi nổi ở các chợ cóc, chợ quê, nhất là ở các vùng sâu vùng xa, ai biết mà thu hồi xử lý? Có phải người tiêu dùng nào cũng nắm được thông tin mà cảnh giác với những thứ độc hại bị thu hồi đó đâu?

Các doanh nghiệp làm ra các sản phẩm bị chứng minh là gây nguy hại đến người tiêu dùng đó, ngoài việc phải hủy sản phẩm, họ hầu như không phải bồi thường chút gì cho những người đã sử dụng. Từ khi một loại thạch rau câu bị thu hồi vì có chứa chất DEHP, biết bao ông bố bà mẹ lo lắng. Bởi con cái họ đã ăn biết bao lần. Ảnh hưởng đến sức khỏe là đương nhiên, nhưng đến mức độ nào, có cần đi khám không, ai phải chịu trách nhiệm bồi thường? Hoàn toàn không rõ. Và cũng không thấy ai đặt ra. Đó là điều rất thiếu công bằng.

Thật ra với những sản phẩm như vậy, nếu một cá nhân khởi kiện thì rất khó, bởi phải chứng minh đã tiêu thụ bao nhiêu sản phẩm, di hại đến sức khỏe như thế nào (Trong khi mua về thì đã ăn vào bụng từ lâu rồi, di hại thì 5 - 10, 20 năm mới phát tác). Nhưng hoàn toàn có thể chứng minh là chúng có ảnh hưởng đến sức khỏe. Vì thế cả xã hội phải đòi bồi thường bằng cách, căn cứ trên tổng số sản phẩm đã bán trên thị trường nhân với số tiền phải đền bù trên mỗi sản phẩm thành một khoản tiền tương ứng. Chuyển toàn bộ số tiền bồi thường đó vào Quỹ Khám chữa bệnh của ngành y tế. Như thế những người bị ảnh hưởng từ sản phẩm bị thu hồi đến khi phát bệnh có thể dùng tiền từ Quỹ Khám chữa bệnh nói trên để chữa trị.

Ngành môi trường đã đưa ra được những số tiền cụ thể phải bồi thường khi doanh nghiệp gây ô nhiễm (như vụ Vedan đầu độc sông Thị Vải). Vậy thì không lẽ gì, lại không thể tính được số tiền phải bồi thường đối với những doanh nghiệp tung ra các sản phẩm gây “ô nhiễm” sức khỏe con người?

Vì thế tôi nghĩ, có lẽ phải thành lập hẳn một Cục Bồi thường sức khỏe nhân dân thuộc Bộ Y tế với chức năng tương tự như Cục Bồi thường Nhà nước thuộc Bộ Tư pháp, nhưng để đòi quyền lợi chung cho những người dân bị ảnh hưởng sức khỏe do những người sản xuất kinh doanh lương thực, thực phẩm gây ra.

3. Báo điện tử Chính phủ có bài Thừa Thiên – Huế triển khai công chứng trực tuyến. Bài báo phản ánh: 30 dịch vụ công chứng trực tuyến mức độ 3 cho cá nhân, tổ chức qua mạng internet được Thừa Thiên – Huế triển khai từ ngày 1/7 tới.

Phòng Công chứng số 2 sẽ là điểm đầu tiên thực hiện việc này, thông qua các địa chỉ http://www.thuathienhue.gov.vn hoặc http://pccs2-tthue.vn.

Trong số 30 dịch vụ, đáng chú ý có dịch vụ công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với cá nhân; công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất; công chứng hợp đồng mua bán xe; công chứng di chúc; công chứng hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai (phương tiện giao thông vận tải, hàng hóa...)

Theo Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tới năm 2015, cơ quan nhà nước cung cấp hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến tối thiểu mức độ 3 tới người dân và doanh nghiệp. Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.

4. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Thủ tục TGPL còn gây phiền hà. Bài báo phản ánh: Trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý (TGPL) được ghi nhận là tương đối toàn diện trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, trong thực tiễn, người được TGPL và người thực hiện TGPL còn gặp không ít bất cập.

Theo quy định hiện hành, những người có nhu cầu cần được TGPL phải xuất trình các giấy tờ như: đơn đề nghị TGPL; giấy tờ, tài liệu chứng minh mình là đối tượng TGPL. Quy định khi người dân yêu cầu TGPL phải xuất trình giấy chứng nhận người nghèo của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư ngụ hoặc cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước... nơi họ làm việc đã gây ra một số phiền hà.

Trình tự, thủ tục để luật sư tham gia bào chữa khi được yêu cầu cũng gây phiền hà. Trước hết là yêu cầu nộp bảng kê thời gian làm việc của luật sư với các cơ quan cảnh sát điều tra, trại giam, viện kiểm sát, tòa án... Thứ hai là việc cấp bản sao bản án. Nhiều luật sư cộng tác viên đánh giá đây là những quy định “cực kỳ khó khăn” và “chẳng khác gì đánh đố”. Bởi một số cơ quan tố tụng cho rằng họ không có nghĩa vụ ký và đóng dấu xác nhận thời gian làm việc của luật sư, tòa cũng không có nghĩa vụ cung cấp bản án cho các luật sư.

Theo quy định, các luật sư tham gia bào chữa phải nộp lại bản án cho Trung tâm TGPL Nhà nước để nghiệm thu vụ việc, thanh toán tiền bồi dưỡng cho luật sư nhưng có thể nói lại là quy định làm giảm phần nào ý nghĩa tích cực của công tác TGPL.

Đặc biệt, đơn yêu cầu TGPL được rất nhiều ý kiến nhận xét là không cần thiết, phải có ý kiến xác nhận của chính quyền địa phương khiến người dân ngại khó, phiền phức và không muốn trợ giúp nữa. Đối với người dân, đây là việc làm mất thời gian, rườm rà về thủ tục. Thay vì được tư vấn ngay những vấn đề đang thắc mắc, người dân phải đem đơn về xác nhận rồi quay lại nộp thì mới được tư vấn.

Đối với người ở xa, nếu buộc phải có đơn đã xác nhận rồi mới có văn bản tư vấn gửi về thì đơn thư của họ không được giải quyết kịp thời. Yêu cầu xác nhận trong mẫu đơn đã cản trở người dân trong việc tiếp cận tổ chức TGPL và thụ hưởng lợi ích từ hoạt động xã hội này.

Một bạn đọc thẳng thắn chỉ ra, thủ tục trong công tác TGPL chưa được tinh giảm, từ khâu lập hồ sơ (đơn từ - giấy tờ chứng minh - phiếu thực hiện...), giới thiệu đến thủ tục công nhận cộng tác viên, tự đánh giá chất lượng xếp loại, đánh giá lại... quy trình ISO. “Có thể nói còn rất nhiêu khê, công làm cho vụ việc thì ít, mà làm cho thủ tục thì nhiều hơn” – bạn đọc này phê bình.

Trước những vướng mắc trên, nhiều luật sư đề nghị, thay cho đơn yêu cầu TGPL bằng phiếu thực hiện TGPL ghi đầy đủ các chi tiết, thay xác nhận bảng kê thời gian làm việc của các luật sư của cơ quan tiến hành tố tụng bằng giấy xác nhận luật sư tham gia bào chữa của chủ tọa phiên tòa.

Từ phía cơ quan quản lý nhà nước, Cục TGPL (Bộ Tư pháp) cho rằng, phải cải cách thủ tục TGPL theo hướng tinh gọn, giảm những thủ tục không cần thiết; cần có cơ chế quy định các cơ quan nhận được kiến nghị của tổ chức TGPL phải trả lời đúng thời gian quy định để tổ chức TGPL có cơ sở trả lời cho đối tượng trợ giúp...



File đính kèm