I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Trang thông tin chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam có bài VN thực hiện nghiêm túc Công ước Luật Biển. Bài báo đưa tin: Từ 13-17/6, tại New York (Mỹ) đã diễn ra Hội nghị lần thứ 21 các quốc gia thành viên Công ước của LHQ về Luật Biển 1982 với sự tham dự của đại diện gần 200 đoàn từ các quốc gia thành viên Công ước, các nước thành viên LHQ và các tổ chức quốc tế.
Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Đại diện Thường trực Việt Nam tại LHQ Lê Lương Minh dẫn đầu, đã có bài phát biểu khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc thực hiện nghiêm túc Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Lương Minh tái khẳng định Công ước Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý quốc tế toàn diện và bao quát nhất điều chỉnh các vấn đề liên quan đến biển và đại dương, nhấn mạnh mọi hoạt động trên biển phải được tiến hành phù hợp với Công ước, tôn trọng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ được quy định theo Công ước.
Đề cập việc gần đây Trung Quốc liên tục phá hoại hoạt động khảo sát bình thường do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tiến hành trên các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Lương Minh khẳng định, đây là những hành vi có chủ ý, được tính toán kỹ, nhằm mục đích biến các vùng biển hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam thành khu vực tranh chấp, xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, vi phạm các quy định và nguyên tắc cơ bản của Công ước. Đồng thời, Trưởng đoàn ta cũng bác bỏ đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông, khẳng định yêu sách này hoàn toàn không có cơ sở pháp lý quốc tế và không thể chấp nhận.
Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định lại quyết tâm và lập trường của Việt Nam thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước Luật Biển cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm xây dựng khu vực Biển Đông thành khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị và ổn định.
Tại Hội nghị, phần lớn các nước ASEAN đã phát biểu chia sẻ quan điểm của Việt Nam, nhấn mạnh yêu cầu tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Công ước Luật Biển khi tiến hành các hoạt động trên biển; đề cao sự cần thiết của việc duy trì hòa bình, ổn định và an ninh ở khu vực Biển Đông, thực hiện đầy đủ DOC và tiến tới sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
2. Báo cũng có bài Bộ Tài chính đề xuất hỗ trợ người nộp thuế TNCN. Bài báo đưa tin: Bộ Tài chính đang xem xét, cân nhắc việc có thể trình Chính phủ để Chính phủ xem xét báo cáo Quốc hội một số giải pháp cấp bách hỗ trợ người nộp thuế trong khi chờ đợi sửa Luật thuế thu nhập cá nhân.
Theo nguồn tin từ Bộ Tài chính, cơ quan này có thể sẽ trình Chính phủ xin ý kiến Quốc hội vào tháng 7 cho phép miễn thuế thu nhập cá nhân đối với những trường hợp:
- Người làm công ăn lương, không có người phụ thuộc, có thu nhập từ 5 triệu đồng/tháng trở xuống.
- Người làm công ăn lương, có một người phụ thuộc, có thu nhập không quá 6,6 triệu đồng/tháng.
- Người làm công ăn lương, có hai người phụ thuộc, thu nhập không quá 8,2 triệu đồng/tháng...
Các loại thuế thu nhập từ chứng khoán, thuế thu nhập doanh nghiệp... cũng có thể sẽ được trình để có chính sách giảm, hoãn có thời hạn.
3. Báo VietNamPlus có bài Công điện yêu cầu đối phó với áp thấp nhiệt đới. Bài báo đưa tin: Sáng 19/6, Văn phòng Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương-Văn phòng Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn đã có Công điện gửi Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, đề nghị Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn các tỉnh, thành phố thông báo cho chủ các phương tiện tàu, thuyền đang hoạt động trên biển biết vị trí và diễn biến của áp thấp nhiệt đới để chủ động phòng, tránh. Bên cạnh đó, theo dõi chặt chẽ diễn biến của áp thấp nhiệt đới, chủ động liên lạc với các chủ tàu, thuyền để thông tin kịp thời; duy trì lực lượng, phương tiện cứu hộ, cứu nạn, sẵn sàng ứng cứu khi có yêu cầu. Mặt khác, tổ chức trực ban nghiêm túc và thường xuyên báo báo tình hình tàu, thuyền đang hoạt động trên biển Đông về Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương và Văn phòng Uỷ ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn theo quy định.
4. Báo dân trí có bài Truy nã quốc tế nguyên tổng giám đốc tài chính Vinashin. Bài báo đưa tin: Ngày 18/6, Ban tổng thư ký của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) đã ra lệnh truy nã quốc tế đối với ông Hồ Ngọc Tùng, nguyên TGĐ tài chính của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy VN (Vinashin) và Giang Kim Đạt, nguyên trưởng phòng kinh doanh Công ty vận tải viễn dương Vinashin.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Trang web gocluatsu.com.vn của Văn Phòng Luật Sư Nguyễn Văn Hậu & Cộng Sự có bài BÀO CHỮA VIÊN NHÂN DÂN: Phải được cơ quan, tổ chức thuộc MTTQ giới thiệu. Bài báo phản ánh: Báo Pháp Luật TP.HCM gần đây có bài phản ánh chuyện TAND tỉnh Phú Yên cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho ông V. (không phải là luật sư) với tư cách bào chữa viên nhân dân để bảo vệ hai bị cáo là người quen của ông.
Việc này đã gây tranh cãi: Bên ủng hộ nói luật cho phép bị cáo có quyền nhờ người khác bào chữa. Luật cũng quy định người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của bị cáo, bào chữa viên nhân dân. Bên phản đối bảo bào chữa viên nhân dân phải là người được tổ chức, đoàn thể cử ra. Ông V. không thuộc một tổ chức, đoàn thể nào, chỉ là người quen của bị cáo…
Trước hết, phải khẳng định quyền được nhờ người khác bào chữa cho mình là quyền hiến định (Điều 132 Hiến pháp năm 1992). Để cụ thể hóa Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
Về người bào chữa là luật sư, đã có nhiều văn bản pháp luật quy định. Nhưng đối với người bào chữa là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân thì thực tiễn xét xử còn nhiều ý kiến khác nhau. Một phần do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định không cụ thể, một phần do các cơ quan tố tụng trung ương chưa có hướng dẫn.
Đối với người bào chữa là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố tụng với hai tư cách: vừa là người bào chữa, vừa là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Mỗi tư cách tố tụng có quyền và nghĩa vụ khác nhau. Đối với người này, bị can, bị cáo vẫn có quyền từ chối, không đồng ý để họ bào chữa cho mình nhưng lại không được từ chối họ là người đại diện hợp pháp của mình (tư cách đại diện là đương nhiên theo luật).
Đối với bào chữa viên nhân dân, khái niệm này có từ trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và tồn tại đến nay nhưng rất tiếc chưa có văn bản pháp luật quy định người như thế nào thì được coi là bào chữa viên nhân dân. Các cơ quan tố tụng ở trung ương cũng chưa có hướng dẫn nên mỗi nơi thực hiện một khác. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, Nghị quyết số 03 ngày 2-10-2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã hướng dẫn một người được coi là bào chữa viên nhân dân khi người đó được Ủy ban MTTQ Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử ra bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Tòa căn cứ vào giấy giới thiệu của Ủy ban MTTQ Việt Nam hoặc tổ chức thành viên từ cấp xã, phường trở lên mà cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho bào chữa viên nhân dân.
Để bảo đảm tính thống nhất cần phải có một thông tư liên tịch của TAND Tối cao, VKSND Tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn chế định bào chữa viên nhân dân hoặc Chính phủ ban hành một nghị định về chế định này.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Sở Tư pháp TP.HCM nhận cờ thi đua của Chính phủ. Bài báo đưa tin: Sáng 18-6, thừa ủy quyền Thủ tướng, Bí thư Thành ủy TP.HCM Lê Thanh Hải đã trao cờ thi đua của Chính phủ cho 19 tập thể có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua của TP năm 2010, trong đó có Sở Tư pháp.
3. Báo Nhân dân có bài Rắc rối thủ tục thi hành án dân sự. Bài báo phản ánh: Thủ tục thi hành án dân sự được ngành chức năng từng bước cải tiến theo hướng đơn giản, thuận tiện hơn cho người dân. Theo đó, một số thủ tục, hồ sơ, giấy tờ đã được lược bỏ. Về phương thức gửi đơn yêu cầu thi hành án, người dân có thể lựa chọn cách gửi đơn trực tiếp tại trụ sở cơ quan thi hành án hoặc gửi đơn gián tiếp qua đường bưu điện.
Tuy nhiên, thủ tục thi hành án dân sự còn không ít phiền hà, rắc rối. Phổ biến nhất là vướng mắc trong khâu tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án. Hiện nay, theo quy định, người có quyền lợi về thi hành án, cần có đơn (viết theo đúng mẫu quy định). Nhiều trường hợp, do trình độ hiểu biết của người dân còn hạn chế hoặc do không được cán bộ cơ quan thi hành án hướng dẫn cặn kẽ mà người dân gặp không ít lúng túng khi viết đơn yêu cầu thi hành án. Có người phải làm đi làm lại nhiều lần mà đơn vẫn bị trả lại với lý do 'không đạt yêu cầu theo mẫu'. Nhưng, khó khăn và phiền toái hơn cả là việc người có đơn yêu cầu thi hành án phải thể hiện được những thông tin về điều kiện tài sản của người phải thi hành án. Yêu cầu này gây nhiều trở ngại cho người dân.
Bà Vũ Thị Tuyết, một người dân ở xã Trực Thuận (Trực Ninh, Nam Ðịnh) phàn nàn: Tôi có con trai là Mai Văn Cường, nạn nhân trong vụ tai nạn giao thông xảy ra ở thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh). Vụ việc này được tòa án địa phương đưa ra xét xử, buộc chủ phương tiện gây tai nạn cho con tôi phải bồi thường hơn 63,5 triệu đồng. Tôi có đơn yêu cầu gửi cơ quan thi hành án thị xã Cẩm Phả, nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Gần đây, tôi còn bị Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Cẩm Phả trả lại đơn với lý do 'trong đơn không thể hiện thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án'. Tôi sống ở Nam Ðịnh, đời sống gia đình khó khăn, ít có điều kiện đi xa trong khi chủ phương tiện gây tai nạn cho con tôi hiện cư trú ở thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh). Hai địa bàn này cách xa nhau vài trăm cây số, thế mà cơ quan thi hành án cứ một mực yêu cầu tôi phải cung cấp thông tin về tình hình tài sản của chủ phương tiện gây tai nạn thì quả là 'đánh đố' gia đình tôi...
Theo chúng tôi, thủ tục yêu cầu người có quyền lợi thi hành án phải chứng minh về tình hình tài sản và thu nhập của người có nghĩa vụ thi hành án là việc làm máy móc, khiên cưỡng. Với những người ở cùng hoặc ở gần địa bàn cư trú với người phải thi hành án thì có thể dễ dàng tìm hiểu, nắm bắt tình trạng tài sản của nhau. Còn với những trường hợp, hai bên đương sự ở hai tỉnh khác nhau, cách xa nhau hàng trăm, thậm chí hàng nghìn cây số thì để bổ sung được thủ tục cung cấp thông tin tài sản theo đúng quy định là rất khó khăn. Mong cơ quan thi hành án các địa phương đẩy mạnh cải tiến, đổi mới hơn nữa phương pháp nghiệp vụ, tránh gây phiền hà, rắc rối cho người dân.
4. Báo Người lao động có bài Lo về chính sách, khổ vì thuế. Bài báo phản ánh: Thị trường bất động sản (BĐS) hiện đang gặp nhiều khó khăn, do thiếu vốn, sức mua giảm mạnh. Mới đây, việc Bộ Xây dựng kiến nghị Chính phủ thực hiện biện pháp xoá bỏ hình thức phân lô, bán nền; cấm mua bán nhà bằng tiền mặt; bỏ công chứng trong chuyển nhượng, mua bán nhà đất… đang tiếp tục gây áp lực lên tâm lý nhà đầu tư.
Mặc dù Nghị định 71 và Thông tư 16 cho phép chủ đầu tư cấp 1 sau khi hoàn thành thủ tục giải phóng mặt bằng, nộp thuế cho Nhà nước thì được phép bán 20% dự án không phải qua sàn để huy động nguồn vốn nhưng vẫn còn đến 80% phải đợi xây xong móng mới được bán qua sàn. Các dự án BĐS lâu nay đều trông chờ vào hai nguồn vốn từ ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng thì siết chặt tín dụng, nay lại cộng thêm việc cấm phân lô, bán nền, đợi xây hoàn chỉnh mới được phép bán như thế sẽ khiến cho các doanh nghiệp càng lao đao. Nếu đề án này được thông qua sẽ buộc chủ đầu tư không có tiềm lực tài chính phải ra khỏi thị trường.
Nhiều chủ đầu tư cho rằng khi Bộ Xây dựng đưa ra đề xuất xóa bỏ chia lô, bán nền thì cũng nên phân loại từng dự án, từng loại hình nhà để áp dụng. Với loại hình nhà biệt thự, phần lớn chủ nhân thích được tự hoàn thiện theo ý mình. Vì vậy, đề xuất của Bộ Xây dựng yêu cầu các dự án phải xây thô và hoàn thiện nhà là chưa phù hợp với thói quen ở biệt thự. “Chia lô, bán nền không phù hợp với các TP lớn. Nếu có thể, Bộ Xây dựng nên đề xuất lộ trình nhưng cần phân loại, quản lý chặt chẽ các dự án, cương quyết xử lý các dự án không phù hợp với quy hoạch, gây ra lãng phí lớn về đất đai, hạ tầng tốn kém vì phải đầu tư nhiều…” - giám đốc một công ty BĐS ở TPHCM nhận xét.
Bên cạnh đó, những kiến nghị như bỏ công chứng trong việc chuyển nhượng, mua bán nhà đất cũng khiến nhiều người lo ngại vì sợ mua trúng nhà đất giấy tờ dỏm thì không biết nhờ ai xử lý.
Theo quy định hướng dẫn thuế thu nhập cá nhân liên quan đến hoạt động chuyển nhượng BĐS, chuyển nhượng hợp đồng góp vốn, trường hợp cá nhân không có đủ chứng từ hợp lệ để xác định giá bán, giá mua và các chi phí liên quan, cơ quan thuế sẽ áp dụng thuế thu nhập cá nhân theo mức thuế suất 2% tính trên hợp đồng chuyển nhượng thay vì 25% tính trên chênh lệch giữa giá mua và bán. Nếu giá ghi trong hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng góp vốn bằng hoặc thấp hơn giá vốn đã góp thì cơ quan thuế sẽ ấn định giá chuyển nhượng sau khi tham khảo giá chuyển nhượng nền nhà cùng lô đất, căn hộ cùng tầng tại chủ dự án đầu tư hoặc sàn giao dịch BĐS tại cùng thời điểm tính thuế. Thế nhưng, khi áp dụng thực tế lại không như vậy.
Chị L., nhà đầu tư mua 2 căn hộ tại một dự án ở quận 2-TPHCM, cách đây vài tháng, khi thị trường còn tốt đã bán 1 căn với lợi nhuận khoảng 20 triệu đồng có đầy đủ giấy tờ, hóa đơn để chứng minh. Lúc này, cơ quan thuế yêu cầu đóng 25% trên khoản lợi nhuận có được (khoảng 5 triệu đồng). Căn còn lại do cần tiền làm ăn nên chị bán lúc giá đang xuống thấp, dù trên thực tế bán lỗ so với lúc mua vào nhưng chị vẫn xin chủ mới chứng minh qua hợp đồng công chứng mua bán so với hợp đồng công chứng của chủ trước lời khoảng 12 triệu đồng. Dù có đầy đủ giấy tờ hợp lệ nhưng cơ quan thuế nhất quyết buộc chị phải đóng thuế 2% trên tổng giá trị hợp đồng công chứng. Nếu nộp theo cách cũ chỉ khoảng 3 triệu đồng, còn theo cách mới thì số tiền chị L. phải nộp gấp gần 10 lần, khoảng 30 triệu đồng.
5. Báo An ninh thủ đô có bài Cần có những hướng dẫn cụ thể. Bài báo phản ánh: Nghị định 56/CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2007/NĐ - CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú đã tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện luật này. Tuy nhiên, cần có những hướng dẫn cụ thể để công an cấp cơ sở thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công dân đăng ký cư trú, đăng ký tạm trú…
Trước đây, tại những nơi đã có quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà công dân chuyển đến ở thì không được nhập khẩu. Nay, NĐ 56/CP đã sửa đổi, bổ sung những trường hợp trên được nhập khẩu, tháo gỡ được một số trường hợp nằm trong diện có quyết định thu hồi đất “treo” nhiều năm mà người dân ở đây không được ĐKHK. Chỉ trừ trường hợp công dân chuyển đến chỗ ở đã có phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không được đăng ký thường trú. Về giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp để đăng ký thường trú đối với các trường hợp cho thuê, mượn, ở nhờ, theo NĐ 107/CP thì giữa 2 bên phải có hợp đồng hoặc cam kết. Nay, theo NĐ 56/CP, những trường hợp trên không cần cam kết, nhưng bắt buộc phải có hợp đồng và hợp đồng phải được công chứng hoặc chứng thực của UBND cấp xã, phường. Riêng đối với nhà ở, nhà khác tại thành phố Hà Nội, trong hợp đồng phải ghi rõ diện tích cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ.
Về điều kiện công dân tạm trú được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương, NĐ 56/CP quy định rất cụ thể: Công dân tạm trú liên tục tại chỗ ở đó từ 1 năm trở lên và nơi đề nghị được đăng ký thường trú phải là nơi đang tạm trú. Khác với quy định trước đây là cứ có giấy tờ đăng ký tạm trú tại thành phố 1 năm là được, công dân có thể ở nhiều nơi khác nhau trong thành phố, chỉ cần chứng minh bằng xác nhận ở các nơi tạm trú và cộng lại đủ 1 năm là được xem xét giải quyết.
Theo các đơn vị công an cấp cơ sở, việc quy định chặt chẽ về nơi cư trú của công dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng công an quản lý hiệu quả nhân khẩu, hộ khẩu trên địa bàn. Tuy nhiên, công an cấp cơ sở có những đề xuất và kiến nghị để tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật Cư trú. Cụ thể, việc quy định đối với chỗ ở cho thuê, mượn, hoặc ở nhờ tại thành phố Hà Nội phải đảm bảo diện tích tối thiểu là 5m2 sàn/người chưa cụ thể, gây khó khăn cho CSKV phụ trách địa bàn khi trả lời yêu cầu xác minh. Bởi quy định trên không xác định rõ việc tính diện tích tối thiểu bao gồm tất cả số người có tên trong hộ khẩu của chủ nhà (cho thuê, mượn, ở nhờ) cùng với người thuê, mượn, ở nhờ hay là chỉ tính số người đang ở tại nơi đăng ký thường trú.
Đối với các trường hợp cho thuê, mượn, ở nhờ, theo NĐ 56/CP thì phải có hợp đồng và hợp đồng phải được công chứng hoặc chứng thực của UBND cấp xã, phường. Nhưng hiện nay, nhiều nơi không tạo điều kiện chứng thực cho người dân; hay nói cách khác, nhiều UBND cấp xã, phường không xác nhận vào hợp đồng cho người dân. Lý do UBND cấp địa phương đưa ra là UBND thành phố chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề chứng thực hợp đồng cho những trường hợp trên. Mặt khác, nếu hợp đồng được cơ quan công chứng xác nhận, thì việc xác nhận này chưa “chuẩn” bởi công dân ở quận này có thể đến quận khác làm thủ tục công chứng. Và cơ quan công chứng chỉ căn cứ vào giấy tờ, kê khai của 2 bên mà xác nhận; không có sự kiểm tra cụ thể, chính xác về tình trạng chỗ ở hợp pháp có nằm trong diện quy hoạch hay không, cũng như xác định diện tích thuê, mượn, ở nhờ… Về vấn đề này, chỉ có UBND phường, xã sở tại, cụ thể là cán bộ địa chính phường là người thẩm định hồ sơ đảm bảo đúng quy định.