I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Người lao động có bài “Hai bộ “tố” nhau”. Bài báo phản ánh: Sau khi Bộ Xây dựng có văn bản “nhắc nhở” về chuyện chậm trễ xử lý sai phạm tại Ban Quản lý dự án 1 (PMU1) và các đơn vị thuộc Bộ GTVT (Báo Người Lao Động ngày 8-6 đã đưa tin), Bộ GTVT cho biết sẽ tiếp tục có văn bản phản đối kết luận thanh tra và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết trong trường hợp hai bên không đi tới thống nhất.
Tháng 11-2010, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Bùi Phạm Khánh đã ký kết luận thanh tra công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng của PMU1 (Bộ GTVT) và hai dự án cải tạo Quốc lộ 12 và mở rộng Quốc lộ 1A đoạn Mỹ Thuận-Cần Thơ. Kết luận thanh tra đã chỉ ra nhiều thiếu sót, sai phạm của các đơn vị thuộc Bộ GTVT. Qua thanh tra, Thanh tra Bộ Xây dựng phát hiện trong quản lý các dự án đầu tư, PMU1 còn nhiều thiếu sót, sơ hở, tùy tiện và có biểu hiện thiếu trách nhiệm, gây thất thoát vốn đầu tư. Điều này thể hiện qua việc lập, phê duyệt hồ sơ thiết kế, dự toán chi phí xây dựng, lựa chọn nhà thầu không tuân thủ các quy định của pháp luật, làm lãng phí và thất thoát lớn vốn đầu tư của Nhà nước. Bộ Xây dựng cho rằng tổng số tiền sai do tính toán không đúng quy định của Nhà nước trong các dự án trên là hơn 124,9 tỉ đồng. Cụ thể, số tiền này sai phạm từ khâu lập, thẩm định và phê duyệt dự toán không đúng. Trong đó, dự án Quốc lộ 1A đoạn Mỹ Thuận-Cần Thơ do Tổng cục Đường bộ làm chủ đầu tư, sai phạm hơn 118 tỉ đồng; dự án Quốc lộ 12 do Bộ GTVT làm chủ đầu tư, sai phạm hơn 6,9 tỉ đồng. Ngoài ra, tại dự án Quốc lộ 12, Thanh tra Bộ Xây dựng đã phát hiện số tiền chi sai do đã thanh toán trước cho các nhà thầu khi chưa thi công (tiền lãi tính cho 10 tháng) là hơn 815 triệu đồng, PMU1 phải thu hồi, nộp về tài khoản tạm giữ của Thanh tra Bộ Xây dựng.
Tuy nhiên, Bộ GTVT cho rằng trong kết luận của Thanh tra Bộ Xây dựng có rất nhiều vấn đề. Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động chiều 8-6, ông Nguyễn Văn Phụng, Phó chánh Thanh tra Bộ Xây dựng (trưởng đoàn thanh tra các dự án trên), cho biết việc thanh tra đã được thực hiện đúng theo quy định tại điều 17 Nghị định số 46/2005 của Chính phủ về quy định nội dung thanh tra chuyên ngành xây dựng. Tuy nhiên, Bộ GTVT lại khẳng định quá trình thanh tra của Bộ Xây dựng đã vi phạm về các hành vi bị cấm quy định tại điều 12 của Luật Thanh tra: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái luật; thanh tra vượt quá thẩm quyền, phạm vi nội dung trong quyết định thanh tra. Ông Nguyễn Xuân Hào, Chánh Thanh tra Bộ GTVT, cho rằng tại điều 61 Nghị định 111/2006 hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng quy định: Bộ Kế hoạch-Đầu tư chủ trì, tổ chức kiểm tra về đấu thầu trên phạm vi cả nước.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, địa phương, UBND các cấp kiểm tra về đấu thầu đối với các đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình và các dự án do mình quyết định đầu tư. “Như vậy, có thể thấy Thanh tra Bộ Xây dựng đã lấn sân vào lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của mình, không theo hướng dẫn của Nghị định 111”-ông Hào khẳng định. Ông Hào cũng cho biết do chưa đi đến thống nhất và các đơn vị thuộc Bộ GTVT vẫn đang phản đối kết luận thanh tra nên số tiền mà Bộ Xây dựng yêu cầu phải thu hồi, nộp về tài khoản tạm giữ của Thanh tra Bộ Xây dựng chưa được thực hiện. Được biết, trước khi thanh tra, Bộ Xây dựng đã có văn bản thông báo về việc thanh tra gửi Bộ GTVT. Ngoài ra, cho đến thời điểm này, Thanh tra Bộ GTVT cũng chưa tiến hành thanh tra các dự án được nêu trong kết luận của Bộ Xây dựng.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Sau 3 phiên liên tiếp không đổi, sáng nay tỷ giá bình quân liên ngân hàng giảm 5 VND, xuống còn 20.623 VND mỗi USD. Đây là mức thấp nhất kể từ ngày 11/2.
Công bố của Ngân hàng Nhà nước cho biết, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND và USD ngày 8/6 là 20.623 VND/USD. Như vậy, sau khi giữ mức thấp 20.628 VND từ ngày 4/6, tỷ giá đã lập đáy mới. Mức tỷ giá hôm nay là mức thấp nhất kể từ ngày 11/2, ngày Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ giá tới hơn 9% so với trước đó, đồng thời thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn 1% thay vì 3%, cũng là ngày đánh dấu sự điều chỉnh tỷ giá lên-xuống linh hoạt hàng ngày chứ không giữ cố định.
Liên quan đến thị trường ngoại hối, tại thông tin về hoạt động ngân hàng tháng 5, Ngân hàng Nhà nước cho biết, trạng thái ngoại tệ của ngân hàng thương mại được cải thiện, tâm lý thị trường ổn định hơn, thị trường ngoại tệ tự do tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ và hầu như không có giao dịch. Các ngân hàng thương mại tiếp tục mua ròng ngoại tệ từ khách hàng, chính vì thế, từ đầu năm đến gần hết tháng 5, Ngân hàng Nhà nước đã mua ròng khoảng 877 triệu USD.
Thị trường ngoại hối diễn biến như vậy là nhờ một loạt chính sách của cơ quan quản lý đã được thực hiện thời gian vừa qua, trong đó phải kể đến việc kiểm soát chặt chẽ việc giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do, áp trần lãi suất huy động USD xuống mức 3%/năm...
3. Báo Thanh niên phản ánh: Tiến hành rà soát các dự án, nâng tỷ lệ cắt giảm từ 1% lên 10% trong năm nay... những động thái cho thấy quyết tâm cắt giảm đầu tư công (ĐTC) của Chính phủ. Nhưng giữa quyết tâm và kết quả thực hiện vẫn còn độ "vênh" lớn.
Điều này thể hiện rất rõ trong số liệu mới công bố của Tổng cục Thống kê 5 tháng đầu năm nay, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thực hiện 73,3 nghìn tỉ đồng, bằng 39% kế hoạch năm và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2010. Có thể thấy số liệu tại nhiều tỉnh, thành, ĐTC vẫn tăng rất mạnh với mức tăng trên 30%, 40%; vẫn có những địa phương tiếp tục xin ứng vốn của năm sau? Lại có tình trạng, một số địa phương nhanh chóng giải ngân nguồn vốn đầu tư ngay khi thực hiện giải pháp cắt giảm ĐTC coi như một "sự đã rồi". Còn nhớ hồi tháng 4, khi CPI tăng quá mạnh, dư luận đã đặt câu hỏi về hiệu quả của việc cắt giảm ĐTC. Khi đó, một số người có thẩm quyền đã trấn an rằng, cắt giảm ĐTC phải có độ trễ dài hơn so với chính sách tiền tệ. Nhưng đã hết 5 tháng và chuẩn bị hết quý 2, ĐTC không những không giảm mà vẫn tăng, thậm chí có nơi tăng quá mạnh như nói trên khiến lo ngại về việc kiểm soát lạm phát lại dấy lên. Bởi chúng ta đều hiểu, cắt giảm ĐTC là biện pháp thu hẹp tổng cầu nhanh chóng nhất, giảm sức ép lạm phát hiệu quả nhất trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, nếu giải pháp này không được thực hiện hiệu quả, khó nói đến việc kiểm soát lạm phát trong những tháng cuối năm.
Con số cắt giảm ĐTC theo công bố đã xấp xỉ 80.000 tỉ đồng tính đến cuối tháng 4 nhưng thống kê lại cho thấy, ĐTC vẫn tăng. Có gì mâu thuẫn trong những con số trên? Cắt giảm ĐTC hiện "vướng" ở khâu nào, chỗ nào, lý do vì sao... Để trả lời các câu hỏi này, điều đầu tiên phải công khai các danh mục cần cắt giảm của từng địa phương; công khai các dự án đã cắt giảm, địa chỉ cụ thể, con số cụ thể chứ không thể đơn thuần đưa ra một con số chung chung như hiện nay. Nếu không minh bạch việc cắt giảm ĐTC thì việc quyết liệt thực hiện như chúng ta vẫn nói, xét cho cùng cũng chỉ là trên giấy mà thôi.
Mục tiêu kiềm chế lạm phát năm nay đã được điều chỉnh lên 15%, tăng gấp đôi so với kế hoạch hồi đầu năm nhưng nỗi lo đạt chỉ tiêu này vẫn canh cánh; hàng ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ đang cố gắng cầm cự chờ đợi các giải pháp kiểm soát của Chính phủ có tác dụng để giảm lãi suất; gánh nặng giá cả vẫn đang đè nặng lên cuộc sống hằng ngày của người dân... Tất cả những vấn đề này đang phụ thuộc, đang chờ được giải quyết từ việc cắt giảm ĐTC. Vì vậy, rất cần sự quyết liệt bằng hành động cụ thể, con số cụ thể và hiệu quả cụ thể.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Đại Đoàn kết có bài Thu hồi tài sản cho thuê: Vướng từ Luật. Bài báo phản ánh: Việc thu hồi tài sản cho thuê tài chính (CTTC) đã được pháp luật quy định khá cụ thể trong Luật Các tổ chức tín dụng, Nghị định của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-NHNN-BCA-BTP về hướng dẫn thu hồi và xử lý tài sản thu hồi và xử lý tài sản CTTC. Tuy nhiên, trong thực tế việc thu hồi CTTC gặp khó khăn do “vướng” từ Luật.
Ở Việt Nam, CTTC là một hình thức cấp tín dụng được pháp luật lần đầu tiên ghi nhận tại Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và Công ty tài chính năm 1990 với tên gọi hoạt động thuê mua tài chính. Tại buổi Tọa đàm giải đáp pháp luật về CTTC do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 7-6, đa số đại diện các công ty CTTC đều cho rằng; tranh chấp hợp đồng giữa công ty CTTC với khách hàng trong quá trình hoạt động còn phức tạp. Có trường hợp tài sản cho thuê đã được phán quyết nhưng việc thi hành rất khó khăn. Bên cạnh đó, thủ tục tố tụng cũng như thời gian ra phán quyết của Tòa án đối với các vụ kiện đòi tài sản trong các hợp đồng CTTC còn kéo dài, gây phiền hà và thiệt hại về tài chính cho các tổ chức tín dụng.
Theo ông Đàm Đức Long, Tổng Thư ký Hiệp hội CTTC Việt Nam, mặc dù công ty CTTC đã thực hiện đúng các thủ tục, trình tự quy định theo hướng dẫn của pháp luật nhưng khi doanh nghiệp thuê tài sản cố tình không trả tài sản cho thuê và thanh toán tiền thuê còn lại thì công ty CTTC không thể thu hồi được tài sản cho thuê. Theo quy định tại điểm d, khoản 2, Mục I của thông tư liên tịch UBND và công an có trách nhiệm giúp công ty CTTC thu hồi tài sản cho thuê. Nhưng trên thực tế UBND một số địa phương không ủng hộ việc tài sản cho thuê bị thu hồi với lý do “ngại” va chạm với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn vì ít nhiều những doanh nghiệp này đã có hỗ trợ địa phương thực hiện các chính sách xã hội. Chính vì vậy dẫn tới thực trạng có trường hợp đã có quyết định thu hồi tài sản cho thuê của Tòa án từ cuối năm 2000, nhưng đến nay việc thu hồi tài sản cho thuê chưa thực hiện được vì thiếu sự hỗ trợ của cơ quan thi hành án.
Tại điểm b, khoản 6, Mục II của Thông tư liên tịch quy định thời hạn tối đa không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu thu hồi tài sản, bên thuê có nghĩa vụ giao tài sản cho thuê và các giấy tờ có liên quan cho công ty CTTC. Nhưng theo Hiệp hội CTTC Việt Nam thời gian quy định như vậy là quá lâu và kiến nghị thời hạn chỉ nên để 10 ngày là đủ. “Trường hợp khi đến hạn trả nợ, bên thuê không trả nợ, bên cho thuê có quyết định thu hồi tài sản nhưng bên thuê không giao tài sản, hành vi này coi như bên thuê cố tình chiếm đoạt tài sản và phải xem đây là hành vi vi phạm Luật hình sự, trên cơ sở đó cơ quan thực thi pháp luật có thể nhanh chóng cưỡng chế, khởi tố vụ án”- Ông Long kiến nghị.
Để khắc phục những tồn tại và bất cập hiện nay trong hoạt động CTTC, ông Hồ Quang Huy, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm Bộ Tư pháp cho rằng: cần sớm rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật về CTTC, trong đó tập trung khắc phục những vướng mắc về cơ chế bảo vệ chủ sở hữu tài sản; giải quyết những “xung đột” về lợi ích giữa bên CTTC với người thứ 3. Vì giữa các quy định của pháp luật vẫn chưa có sự thống nhất, đồng bộ. Điển hình như tại khoản 7 Điều 26 Nghị định 16 bên thuê “không được dùng tài sản cho thuê để thế chấp, cầm cố hoặc để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác”. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 13 Nghị định số 163/2006/NĐ- CP quy định về việc xử lý tài sản bảo đảm là tài sản thuê có thời hạn từ một năm trở lên và không thuộc diện phải đăng kí quyền sở hữu.
2. Báo Pháp luật và xã hội có bài Hiểm họa từ biển quảng cáo trên cao: Muốn xử lý nhưng còn vướng luật. Bài báo phản ánh: Cơn giông tối 5-6 vừa qua đã khiến biển hiệu của một tiệm vàng tại quận Hà Đông, Hà Nội rơi xuống ba người đang trú mưa. Hai người nhập viện do bị rạn xương đùi, rạn xương vai, gẫy tay, ba chiếc xe máy bị đè bẹp dúm, toàn bộ khung biển hiệu và mái hiên đổ nát vụn. Những năm trước đây cũng đã xảy ra nhiều lần biển quảng cáo kích cỡ lớn bị các trận cuồng phong giật đổ, gây cản trở giao thông và đứt đoạn hệ thống điện của khu vực. Nhưng biển hiệu bị đổ sập lần này ở cửa hàng vàng bạc Ngọc Toàn, số 30 đường Quang Trung, quận Hà Đông có kích thước 3,4m x 5,5m, đã từng bị UBND phường Quang Trung 3 lần lập biên bản. Nhưng lần nào chủ doanh nghiệp cũng từ chối kí vào biên bản. Nguyên nhân là do Nghị định số 103/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc treo biển hiệu không phải xin phép nhưng lại không quy định cụ thể về kích thước của biển hiệu nên chủ doanh nghiệp đã viện dẫn Nghị định này để không chịu phạt. Mà nếu có phạt thì mức xử phạt hành chính cao nhất với trường hợp này của cấp phường chỉ là 2 triệu đồng/lần, không đủ sức răn đe.
Cuối năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định 103 sửa đổi Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng đã không quy định về vấn đề biển hiệu, do đó sẽ không có quy định cụ thể về kích thước, chiều cao, nội dung và mức xử phạt ở lĩnh vực này. Được biết, Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Hà Nội cũng gửi văn bản đề nghị quy định kích thước biển hiệu trong dự thảo Nghị định 103 về quy chế quản lý hoạt động quảng cáo. Tuy nhiên, đề xuất này không được chấp thuận. Bởi theo lí giải Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch, kích thước biển hiệu không thể thực hiện thống nhất trong toàn quốc mà phải áp dụng theo quy hoạch về biển hiệu ở từng đô thị. Để lập lại trật tự trong việc viết, đặt biển hiệu trên cơ sở đặc thù của Thủ đô, Hà Nội đã ban hành Quyết định số 94 vào tháng 8-2009, theo đó yêu cầu các biển hiệu ngang có chiều cao tối đa là 2m, chiều dài biển hiệu không được vượt quá chiều ngang mặt tiền nhà, diện tích biển hiệu không vượt quá 30m2. Còn đối với biển hiệu dọc, chiều cao tối đa là 4m, chiều ngang 0,6m và không vi phạm chỉ giới xây dựng.
Hiện nay, theo một thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính riêng mảng kinh doanh quảng cáo tấm biển lớn đã có khoảng trên dưới 300 doanh nghiệp. Có một căn bệnh chung của các doanh nghiệp làm quảng cáo, đó là việc xem chuyện cấp phép "như đùa". Đa số lỗi vi phạm đều thuộc phạm vi cấp phép: Sai phép hoặc không đăng ký. Nhiều Cty quảng cáo sau khi bị xử lý vi phạm, lại tiếp tục sử dụng chính bảng hiệu bị dỡ bỏ để ký thêm hợp đồng. Cái khó trong việc triển khai Quyết định 94 trong thực tế, cũng là một trong những điều đầu tiên cơ quan quản lý ở Hà Nội phải đối diện chính là hệ thống biển hiệu đang được xem là lộn xộn gây mất mỹ quan thành phố hiện nay. Trong khi đó, chiếu theo các quy định đã có, thì cả hai loại biển hiệu nói trên đều không vi phạm. Thế nên, chưa triển khai, đội ngũ thanh tra đã thấy "choáng", vì nếu các hộ kinh doanh không tự giác tháo gỡ thì số biển hiệu phải cưỡng chế tháo dỡ, sửa chữa lên đến hàng triệu... Liệu có đủ người để làm việc này? Trong khi đó mùa mưa bão đã đến, người dẫn vẫn lo nơm nớp mỗi khi trú mưa ở dưới các biển hiệu quảng cáo.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Cải cách không hẳn là cắt bỏ. Bài báo phản ánh: Đọc tin về nội dung cuộc tham vấn hôm 7-6 xung quanh đề xuất của Bộ Xây dựng là bãi bỏ công chứng hợp đồng giao dịch về nhà ở sẽ tiết kiệm 2.700 tỉ đồng/năm, nhiều người nửa mừng nửa lo.
Mừng vì thủ tục được tiết giảm thì chi phí đi lại, giấy tờ và lệ phí công chứng cũng giảm nhưng lại lo là khi xảy ra vụ kiện tranh chấp hợp đồng thì xử lý thế nào. Theo thống kê gần đây trên 75% các vụ khiếu kiện hiện tại liên quan đến nhà đất, nhiều vụ hết sức phức tạp do các văn bản được sử dụng làm chứng cứ “chỏi” nhau, mâu thuẫn nhau. Vì thế thủ tục công chứng hợp đồng đặt ra giúp kiểm soát bước đầu các giao dịch hợp lệ, chống hiện tượng lừa đảo trong giao dịch tài sản lớn là nhà đất. Vì thế bỏ thủ tục này thì nếu xảy ra tranh chấp, bộ máy Nhà nước sẽ phải huy động để giải quyết mà nếu cộng dồn các chi phí thì số tiền có thể còn tốn kém hơn nhiều con số 2.700 tỉ đồng nói trên. Hơn thế, trật tự pháp luật sẽ bất ổn, bởi hiện nay ngay cả khi buộc phải thực hiện thủ tục công chứng chứng thực mà kiện tụng, lừa đảo còn xảy ra...
Bản thân Cục trưởng Cục Quản lý nhà và Thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) Nguyễn Mạnh Hà cũng thừa nhận nếu không quy định phải công chứng bắt buộc thì công việc lại “dồn” lên vai các văn phòng đăng ký nhà đất, mà ai cũng biết người dân ngại va chạm nhất là ở “cửa” này. Dù đại diện Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ có cho rằng phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính này không phải là bãi bỏ hoạt động công chứng mà là chuyển từ việc bắt buộc sang việc tự lựa chọn thì vẫn đáng lo. Bởi khác với các giao dịch thông thường, các hợp đồng giao dịch về nhà ở và quyền sử dụng đất đều có giá trị lớn, có khi là tài sản mồ hôi, nước mắt của cả một đời người. Trong khi đó ở thời điểm giao dịch, ít ai nghĩ rằng sẽ có tranh chấp hoặc không công chứng sẽ gây hậu quả vô cùng lớn trong tương lai nên sẽ ít người “tự nguyện” công chứng nếu luật pháp không yêu cầu. Thiết nghĩ những chính sách đụng tới những vấn đề hệ trọng của công dân như tài sản có giá trị lớn là nhà ở... không nhất thiết phải “tiết giảm” thủ tục, bởi khi hậu quả xảy ra, những thứ mất đi khó tính được bằng tiền.
4. Báo Hà Nội mới có bài Cải cách thủ tục hành chính trong giao dịch nhà ở: Kiểm soát thị trường, tránh rủi ro. Bài báo phản ánh: Trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính, Bộ Xây dựng đã có văn bản đề nghị sửa đổi Luật Nhà ở. Theo đó, 7 loại hợp đồng giao dịch nhà ở như: hợp đồng mua bán; đổi; tặng, cho; thế chấp; thuê mua; thuê nhà ở của tổ chức có chức năng kinh doanh bất động sản và thuê nhà ở của cá nhân, tổ chức có thời hạn cho thuê dưới 6 tháng thì không bắt buộc phải qua công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, nếu chỉ cắt khâu công chứng hợp đồng thì người dân có bớt được phiền hà trong các giao dịch nhà đất vốn có nhiều phiền phức?
Công chứng viên Vương Trọng Thế (Văn phòng Công chứng Hoàng Cầu, quận Đống Đa): Công chứng không phải thủ tục hành chính. Kể từ khi xã hội hóa hoạt động công chứng, Văn phòng Công chứng không còn là cơ quan hành chính nhà nước mà chỉ là đơn vị được Nhà nước giao quyền hỗ trợ hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm tính hợp pháp, tính xác thực của các giao dịch. Văn phòng Công chứng và công chứng viên không thể kiểm tra Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, di chúc, bản án... có được cấp, lập hợp pháp, đúng trình tự hay không mà chỉ có thể căn cứ trên những giấy tờ (đã được cơ quan có thẩm quyền cấp) do các bên thực hiện giao dịch cung cấp để xác định giao dịch được thiết lập liên quan đến nhà, đất đó có hợp pháp hay không, qua đó có thể tư vấn cho các bên tham gia thực hiện giao dịch một cách hợp pháp, giảm nguy cơ xảy ra tranh chấp. Hiện nay, các quy định về thủ tục xác nhận, cấp giấy chứng nhận... cho các giao dịch liên quan đến nhà, đất ở các quận, huyện, thị xã rất khác nhau. Trong khi đó, cán bộ tại bộ phận "một cửa" của các cơ quan này lại không chuyên về lĩnh vực nhà, đất, do vậy không thể thực hiện chức năng tư vấn cho những người tham gia giao dịch. Khi không còn là thủ tục hành chính bắt buộc, tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch vẫn sẽ cần đến sự hỗ trợ của nghiệp vụ công chứng như một dịch vụ để bảo đảm tính hợp pháp cho các hợp đồng của mình, tránh rủi ro về sau.
Ông Trương Hoài Nam (phường Ngọc Hà, quận Ba Đình): Tôi đã từng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do gia đình chia cho và mua một căn nhà. Cả hai lần thực hiện thủ tục chuyển nhượng và mua nhà ở, tôi đều đến một văn phòng công chứng để được tư vấn về thủ tục, giấy tờ và được thực hiện rất nhanh chóng, thuận tiện. Tuy nhiên, đến khi thực hiện các bước tiếp theo như nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký nhà đất các quận, huyện, thị xã xin xác nhận, đo vẽ... thì rất phiền hà, mất nhiều thời gian mà không có thời hạn hoàn thành rõ ràng. Không bắt buộc công chứng sẽ giảm được một khoản phí cũng như quy trình cho người thực hiện các giao dịch mua bán, thuê mua... nhà ở nhưng nếu thiếu sự đơn giản hóa một số thủ tục hành chính còn lại thì người dân vẫn gặp khó khăn.
Bà Hoàng Thị Nga (Văn phòng Giao dịch bất động sản tại phường Giang Biên, quận Long Biên): Theo quy định của pháp luật, công chứng viên phải chịu trách nhiệm pháp lý liên quan đến tính xác thực của các giao dịch mà mình công chứng. Trong khi đó, công chức nhà nước thực hiện các thủ tục liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở nếu có làm chậm trễ thì lại không phải chịu trách nhiệm rõ ràng chỉ cần đổ lỗi "quá tải" là xong. Sự dễ dãi này có thể là cơ hội cho công chức hành chính hành dân để trục lợi, làm đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trên thực tế, việc thực hiện các giao dịch liên quan đến nhà, đất thường khó khăn về vướng thủ tục hành chính, tiềm ẩn rủi ro. Trong các giao dịch này luôn tồn tại một bộ phận trung gian, hay còn gọi là "cò" mà chúng ta chưa xóa bỏ được. Do vậy, cải cách thủ tục hành chính phải gắn liền với tăng cường quản lý chặt chẽ con người thực hiện hành vi hành chính thì mới hiệu quả.
Luật sư Đỗ Tiến Đạt (Công ty Luật Basico): Hiện tại, số bất động sản được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở chiếm tỉ lệ không cao. Ở nhiều khu chung cư, khu đô thị mới..., "sổ hồng" còn chưa phủ kín. Trong khi đó, nhu cầu mua bán, trao đổi, thuê, mượn nhà ở luôn sôi động. Theo quy định, một trong những giấy tờ bắt buộc phải có khi thực hiện thủ tục công chứng một hợp đồng giao dịch bất động sản là "Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở". Nếu pháp luật quy định mọi hợp đồng liên quan đến nhà ở, đất đai phải qua công chứng thì một phần lớn giao dịch không bảo đảm điều kiện "sổ đỏ", sẽ không thể thực hiện được, tạo ra những giao dịch vi phạm về hình thức hợp đồng. Đây cũng chính là kẽ hở mà một số tổ chức, cá nhân lợi dụng để lật lọng trong các quan hệ mua - bán. Khi đó, bên trục lợi chỉ cần đưa hợp đồng ra Tòa án là được hủy giao dịch với lý do vi phạm về mặt hình thức. Theo tôi, nên bỏ quy định hình thức hợp đồng phải có công chứng để kiểm soát tốt hơn thị trường bất động sản.