Điểm tin báo chí sáng ngày 08 tháng 6 năm 2011

08/06/2011
Trong buổi sáng ngày 08/6/2011, một số báo chí đã có bài phản ánh những sự kiện nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:

1. Báo điện tử VnMedia có bài Hải quan "lách luật" cho doanh nghiệp ôtô. Bài báo phản ánh: Một số doanh nghiệp nhập khẩu xe tải cho biết họ đang gặp rắc rối khi nhập linh kiện phụ tùng xe tải về để lắp ráp xe chuyên dùng. Nếu đúng theo quy định, họ sẽ phải nộp thuế nhập khẩu cao, rồi lại được hoàn thuế. Để giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, Tổng cục Hải quan đang kiến nghị cho phép doanh nghiệp được tạm nộp thuế linh kiện theo xe chuyên dùng.

Theo phản ánh của Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) tại công văn số 1697 ngày 14/4/2011, các đơn vị thành viên của tập đoàn này nhập khẩu bộ linh kiện các chủng loại xe tải tự đổ Scania để về lắp ráp xe tải tự đổ nguyên chiếc chuyên dùng để chở than. Tuy nhiên theo quy định hiện hành, những linh kiện này sẽ áp dụng thuế suất của xe tải nguyên chiếc và điều này sẽ dẫn đến việc công ty phải nộp một số thuế chênh lệch lớn, sau đó lại được hoàn thuế.

Tương tự, công ty cổ phần ôtô TMT có kế hoạch nhập linh kiện, phụ tùng và ôtô sát-xi trọng tải từ 500 kg đến 8 tấn để lắp ráp thành xe đông lạnh các loại. Theo quy định, thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện xe tải từ 0 đến 30% nhưng thuế nhập khẩu ưu đãi của xe đông lạnh là 15% nên không khuyến khích việc lắp ráp xe đông lạnh trong nước. Vì thế, công ty này đề nghị được nộp thuế theo thuế suất của xe đông lạnh khi thông quan và cam kết trong vòng 90 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai nhập khẩu, các linh kiện phụ tùng, sát-xi sẽ được sản xuất thành xe động lạnh hoàn chỉnh, nếu không sẽ bị truy thu thuế như thuế xe tải thông thường.

Trước kiến nghị của nhiều doanh nghiệp, ngày 3/6/2011, Tổng cục Hải quan đã có văn bản 2565 gửi tới Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công Thương khẳng định việc nộp thuế trước và hoàn thuế sau như trên sẽ dẫn tới việc doanh nghiệp phải nộp một khoản thuế lớn, gây khó khăn về tài chính, ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, Tổng cục Hải quan đề nghị cho phép doanh nghiệp tạm nộp thuế linh kiện, phụ tùng ôtô và xe ôtô sát-xi theo xe chuyên dùng và quyết toán sau với cơ quan hải quan.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 7-6, bà Nguyễn Thị Bích Vân, Phó phòng Ngoại vụ UBND tỉnh Phú Yên, cho biết theo thông tin từ Bộ Ngoại giao, tòa án Brunei đã tuyên tàu cá PY-90260TS cùng 11 ngư dân Phú Yên đã vi phạm lãnh hải nước này. Trước đó, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Phú Yên đã khẳng định vùng biển tàu đánh cá PY-90260TS hành nghề thuộc chủ quyền Việt Nam. Do đó, việc Brunei bắt giữ 11 ngư dân này cùng chiếc tàu cá là trái với luật pháp quốc tế. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã có công hàm gửi Đại sứ quán Brunei tại Việt Nam yêu cầu sớm trả tự do cho ngư dân. Tuy nhiên, tòa án Brunei vẫn tuyên phạt thuyền trưởng Đỗ Văn Phụng một năm tù giam hoặc 10.000 đôla Brunei.

3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Hôm qua, 7-6, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã chủ trì hội nghị trực tuyến về quy hoạch mạng lưới các trường ĐH-CĐ dạy nghề và kế hoạch di dời các trường ĐH-CĐ ra ngoại thành Hà Nội và TPHCM. Tại hội nghị, Bộ Xây dựng và Bộ GD-ĐT đã đưa ra các tiêu chí cho việc chọn trường di dời. Theo đó, Bộ Xây dựng đưa ra các tiêu chí liên quan đến vị trí, diện tích của trường. Cũng liên quan đến vấn đề này, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga nêu rõ, từ năm 2011 sẽ không tiếp nhận hồ sơ thành lập mới hoặc nâng cấp cơ sở đào tạo ĐH-CĐ trong nội thành TP Hà Nội và TPHCM. Ngoài ra, Bộ GD-ĐT yêu cầu giảm mật độ sinh viên trong nội thành Hà Nội, giảm từ 478.856 SV năm 2011 xuống còn khoảng 150.000 SV vào năm 2030. Đối với TPHCM giảm mật độ SV đại học từ 516.544 SV năm 2011 xuống còn khoảng 170.000 SV vào năm 2030.

Theo tính toán của Bộ GD-ĐT và của Hà Nội, TPHCM, sẽ có ít nhất 40 trường phải di dời trong giai đoạn 2011-2015. Trước mắt mỗi thành phố sẽ thí điểm di dời 5 trường với nhu cầu vốn khoảng 600 triệu USD (chưa tính chi phí giải phóng mặt bằng). Giai đoạn 2015-2020, mỗi thành phố sẽ di dời tiếp khoảng 10 - 15 trường, nhu cầu vốn tương ứng 1,2-1,8 tỷ USD (chưa tính các chi phí giải phóng mặt bằng). Giai đoạn 2020-2030 sẽ di dời các trường còn lại. Tổng cộng các giai đoạn, khoảng 80 trường phải di dời (Hà Nội 40, TPHCM 40). Chốt lại vấn đề, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân giao Bộ GD-ĐT tiếp tục bàn bạc với UBND TP Hà Nội và TPHCM về tiến độ di dời các trường ĐH-CĐ, chậm nhất chỉ đến năm 2025 chứ không nên kéo dài tới 2030. Phó Thủ tướng cũng đồng ý về nguyên tắc giữ lại ở nội thành các trường đại học lớn có truyền thống lịch sử với kiến trúc đẹp trong nội đô của 2 thành phố. Trước 10-7, Bộ Xây dựng trình Thủ tướng quy hoạch xây dựng các trường ĐH-CĐ thuộc Hà Nội và TPHCM.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tiết kiệm 2.700 tỉ đồng/năm nếu bỏ công chứng mua bán nhà đất. Bài báo phản ánh: “Nên bãi bỏ quy định bắt buộc công chứng đối với các hợp đồng dân sự liên quan về nhà ở và quyền sử dụng đất. Thay vào đó, người dân có quyền tự quyết định có công chứng hay không”. Đó là ý kiến được nhiều người ủng hộ tại buổi tham vấn về việc thực thi nghị quyết của Chính phủ về bãi bỏ yêu cầu bắt buộc công chứng đối với các hợp đồng, giao dịch về nhà ở và quyền sử dụng đất do Cục Kiểm soát thủ tục hành chính (VPCP) tổ chức ngày 7-6.

Theo các chuyên gia, Bộ luật Dân sự đã quy định người dân có quyền tự định đoạt trong các giao dịch dân sự với nhiều hình thức như giao dịch bằng miệng giữa hai bên, bằng văn bản hoặc hợp đồng có sự làm chứng của bên thứ ba. Vì vậy, quy định hiện hành bắt buộc các giao dịch về nhà đất phải công chứng là không hợp lý.

Theo tính toán của Tổ Công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng, nếu bãi bỏ quy định bắt buộc phải công chứng sẽ tiết kiệm được 2.700 tỉ đồng/năm. Phương án này cũng đã được Chính phủ thông qua tại các Nghị quyết số 25/2010 và 52/2010. Trước đó, Bộ Xây dựng đã có văn bản gửi Bộ Tư pháp đề nghị sửa đổi Điều 93 Luật Nhà ở theo hướng bãi bỏ yêu cầu bắt buộc công chứng đối với bảy loại hợp đồng về nhà ở. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp cho rằng vấn đề này cần tiếp tục thảo luận, lấy ý kiến của nhiều cơ quan, ban ngành có liên quan để có cái nhìn thấu đáo hơn, chặt chẽ hơn.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Không khởi tố hành vi chiếm dụng tài sản cho thuê tài chính. Bài báo phản ánh: Việc tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật đối với hoạt động của doanh nghiệp cho thuê tài chính là rất cần thiết. Tuy nhiên, Nghị định về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp cho thuê tài chính cũng như văn bản hướng dẫn Nghị định này đều không điều chỉnh về vấn đề khởi tố hành vi chiếm dụng tài sản. Đây là thông tin được đưa ra tại tọa đàm về thu hồi tài sản cho thuê tài chính do Ban Quản lý Chương trình 585 (Bộ Tư pháp) phối hợp với Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam và Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp tổ chức vào sáng nay.

Có thể nói việc thu hồi tài sản cho thuê tài chính đã được pháp luật quy định khá đầy đủ và chặt chẽ. Tuy nhiên, thực tế lại xảy ra tình trạng không thể thu hồi được tài sản cho thuê tài chính do bên thuê bị thua lỗ, phá sản hoặc cố tình không trả tài sản thuê. Và một nguyên nhân nữa là bên cho thuê không nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ tích cực của chính quyền địa phương cũng như cơ quan công an. Tổng Thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam Đàm Đức Long dẫn chứng: “Có trường hợp, khi đoàn thu hồi tài sản cho thuê đến thì doanh nghiệp không những không tiếp, mà còn cho chó ra xua đuổi đoàn; hoặc khi đoàn thu hồi tài sản cho thuê đến thì doanh nghiệp không có cán bộ công án là đại diện cơ quan có thẩm quyền vào”. Vì vậy, ông Long đề nghị, khi đến hạn trả nợ, bên thuê không trả nợ, bên cho thuê có quyết định thu hồi tài sản mà bên thuê không giao tài sản thì phải được coi như bên thuê cố tình chiếm dụng tài sản và phải xem đây là hành vi vi phạm hình sự để các cơ quan thực thi pháp luật khởi tố vụ án.

Nhưng theo nhận định của Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự Kinh tế (Bộ Tư pháp) Dương Đăng Huệ, nếu làm vậy là “rất nguy hiểm”. Bởi việc khởi tố hành vi chiếm dụng tài sản cho thuê tài chính thực chất sẽ là hình sự hóa quan hệ dân sự. Đại diện Phòng Pháp luật kinh tế ngành (Vụ Pháp luật Dân sự Kinh tế) phân tích rõ hơn: Quan hệ giữa bên cho thuê và bên thuê là quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế. Quyền của bên cho thuê được thu hồi tài sản là quyền do luật định mà không cần phải có phán quyết của Tòa án. Nếu bên thuê không trả tài sản, bên cho thuê nên sử dụng triệt để hệ thống cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc đòi lại tài sản.

3. Báo Nhân dân có bài Hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Bài báo phản ánh: Thi hành án dân sự là một khâu quan trọng trong hoạt động tố tụng, góp phần đưa các bản án và quyết định của cơ quan tòa án có ý nghĩa trên thực tế. Ðể bảo đảm quyền lợi chính đáng của người được thi hành án, cơ quan chức năng cần tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác này.

Bạn đọc Hoàng Thanh Xuân (Ðồng Nai): Hệ thống cơ quan thi hành án các cấp và các thủ tục về thi hành án dần được hoàn thiện. Các khâu thụ lý đơn, thông báo, miễn, giảm, xác minh tài sản, cưỡng chế thi hành án có những cải tiến theo hướng đơn giản, thuận tiện. Tuy nhiên, thủ tục hành chính rườm rà, rắc rối trong lĩnh vực này chưa hết, tỷ lệ án tồn đọng vẫn ở mức cao. Có nhiều bản án kéo dài hàng chục năm chưa được đưa ra thi hành. Nguyên nhân là do bản thân đối tượng phải thi hành án không tự giác chấp hành án; đồng thời, do cơ quan chức năng thiếu kiểm tra, đôn đốc. Không ít trường hợp, sự phối hợp giữa chính quyền, đoàn thể với ngành chủ quản và các đơn vị liên quan chưa đồng bộ, khiến cho việc thi hành án gặp khó khăn, trở ngại.  Nhiều trường hợp, để có thể nhận được khoản tiền thi hành án ít ỏi, đương sự phải chờ đợi hoặc đi lại nhiều lần vất vả. Thậm chí, xuất hiện những chấp hành viên và thẩm tra viên có biểu hiện nhũng nhiễu, tiêu cực.

Bạn đọc Trương Hương Lan (Thừa Thiên - Huế): Các bản án xét xử việc tranh chấp nhà, đất do cơ quan tòa án các cấp phải giải quyết ngày càng nhiều. Ðây là loại án dân sự khó thi hành. Thị trường bất động sản biến động từng ngày, trong khi thời gian để xử lý vụ việc kéo dài. Do vậy, ở vào thời điểm đưa ra thi hành bản án, giá nhà, đất cao hơn so với việc định giá lúc tòa án xét xử, khiến nảy sinh thắc mắc, khiếu kiện từ phía đương sự, từ đó gây trở ngại cho công tác triển khai thi hành án. Việc cưỡng chế thi hành án liên quan nhà, đất thường gặp phải sự chống đối quyết liệt từ phía người có nghĩa vụ chấp hành án. Nhiều khi, các cơ quan chức năng tiến hành cưỡng chế buộc giao nhà, đất vào buổi sáng thì ngay buổi chiều, đối tượng ngoan cố chiếm lại. Vấn đề thi hành khoản cấp dưỡng nuôi con cũng khó thực hiện, vì người đàn ông sau ly hôn thường vô trách nhiệm đối với con của mình với người vợ cũ.

Bạn đọc Lưu Thanh Bình (Quảng Ninh): Với những trường hợp người được thi hành án không cùng địa bàn với đối tượng phải thi hành án thì việc giải quyết gặp nhiều trở ngại. Người được thi hành án khó theo dõi, nắm bắt đầy đủ các khoản thu nhập của đối tượng phải thi hành án để kịp thời gửi đơn yêu cầu thi hành án. Nhiều người được thi hành án vượt quãng đường xa hàng trăm cây số từ địa phương này tới địa phương khác để làm thủ tục thi hành án. Trường hợp của bà Vũ Thị Tuyết, ở đội 5, xã Trực Thuận (Trực Ninh, Nam Ðịnh) là đại diện người bị hại trong vụ tai nạn giao thông xảy ra ở thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh) ngày 18-1-2010. Bản án buộc phía chủ xe gây tai nạn là anh Hà Anh Hùng, chị Nguyễn Thúy Nga phải bồi thường cho bà Tuyết hơn 63,5 triệu đồng. Thế nhưng, cho đến nay, mặc dù bà Tuyết nhiều lần gửi đơn, nhưng anh Hùng, chị Nga vẫn chây ỳ, chưa thực hiện nghĩa vụ thi hành án.

4. Báo Dân Việt có bài Dự thảo Luật Giá còn nhiều khiếm khuyết. Bài báo phản ánh: Chỉ còn chưa đầy 1 tháng nữa, Dự thảo Luật Giá (DTLG) sẽ được trình Chính phủ, song tại hội thảo góp ý lần cuối diễn ra tại Hà Nội hôm qua (7.6), vẫn còn rất nhiều các ý kiến trái chiều xung quanh nội dung của DTLG này.

Ông Đinh Sỹ Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật (Văn phòng Chính phủ) cho rằng, DTLG vẫn còn quá nhiều điều chưa rõ ràng. Ví dụ, DTLG bắt buộc phải niêm yết giá liệu có phù hợp với thực tế? Bởi niêm yết giá mà không buộc phải bán theo giá niêm yết mà vẫn có thể thỏa thuận về giá thì quy định như vậy chẳng có ý nghĩa gì. Hay hành vi cấm thỏa thuận giá trái pháp luật trong DTLG này cũng rất "mênh mông", bởi DTLG không quy định cụ thể thế nào là thỏa thuận trái pháp luật. Ngay các điều khoản về bình ổn giá trong DTLG cũng còn nhiều ý kiến khác nhau như việc sử dụng Quỹ bình ổn. Ông Dũng nói: "Nhiều quỹ bình ổn của ta hiện nay, như xăng dầu, thực tế liệu có đem lại lợi ích cho doanh nghiệp và người tiêu dùng? Quỹ bình ổn không cẩn thận sẽ trở thành quỹ xin-cho, không đem lại lợi ích cho người tiêu dùng mà chỉ có lợi cho chính doanh nghiệp kinh doanh".

Chuyên gia luật Vũ Xuân Tiền - Giám đốc Công ty Luật VFAM cũng nêu ý kiến, việc quy định có tổ chức thẩm định giá của Nhà nước trong DTLG này là một điểm mới so với Pháp lệnh Giá nhưng là một "bước lùi". Bởi trước đây, các trung tâm thẩm định giá Nhà nước đều đã chuyển thành doanh nghiệp. Đến nay lại "phục hồi" có phải là đi ngược lại với chủ trương tăng cường xã hội hóa đối với những dịch vụ công được phép xã hội hóa?

Chuyên gia kinh tế, TS Vũ Đình Ánh cũng nêu quan điểm rằng, DTLG lần này vẫn chưa tạo được khuôn khổ pháp lý cho cả Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. DTLG "quên mất vai trò của người đi mua". Giá cả là vận động khách quan nên nó phải liên quan đến người mua chứ không chỉ đứng về người bán như DTLG xây dựng. Ông Ánh cho rằng, DTLG nên chỉ rõ Nhà nước cần làm gì để bình ổn giá chứ quy định chung chung là điều tiết cung - cầu, áp dụng chính sách tài chính, tiền tệ thì "bó tay, không làm được".

5. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài Luật làm méo mó thị trường. Bài báo phản ánh: Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều tiết thị trường bất động sản, như: Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và hàng trăm văn bản hướng dẫn. Về tổng thể thì khung pháp lý cho thị trường này dường như đã đầy đủ. Song, với cách xây dựng luật đơn lẻ, không đồng bộ, thậm chí có quy định mâu thuẫn, sơ hở, khung pháp lý ấy đang làm “méo mó” thị trường, giá bất động sản tăng vọt một cách bất thường, cản trở tăng trưởng kinh tế do giá mặt bằng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh bất hợp lý. Một trong những nền tảng cơ bản để phát triển thị trường bất động sản là quan hệ về sở hữu bất động sản. Song, các quy định hiện hành về vấn đề này đang chồng chéo, không thống nhất, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.

Hiến pháp và Bộ luật Dân sự đều khẳng định quyền sở hữu bất động sản của người dân, nhưng Luật Đất đai và Luật Kinh doanh bất động sản lại không quy định rõ ràng phạm vi quyền sở hữu bất động sản của Nhà nước đến đâu, của công dân đến đâu. Theo Luật Đất đai, trong một số trường hợp Nhà nước có quyền thu hồi bất động sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây chính là sơ hở pháp lý lớn để một bộ phận đầu cơ thông đồng với cán bộ nhà nước được giao quyền kiếm những khoản lợi kếch sù từ việc chuyển đổi sở hữu bất động sản. Các bất động sản được “phù phép” chuyển đổi sở hữu một cách hợp pháp từ sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể (Nhà nước giao cho các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã) thành sở hữu của một số cá nhân thông qua việc thực hiện các dự án thương mại. Người dân bức xúc vì bị mất quyền sở hữu bất động sản nên khiếu kiện và tình hình này vẫn tiếp tục gia tăng và kéo dài. Khiếu kiện về bất động sản trở thành vấn đề bức xúc nhất của xã hội, chiếm đến 90% trong tất cả các loại khiếu kiện.

Số lượng các giao dịch bất động sản ngày càng tăng nhanh, việc giao dịch bất động sản đã trở nên quen thuộc với rất nhiều người, kể cả nông dân. Nhờ đó, một nguồn vốn rất lớn đã được khơi dậy từ bất động sản. Song, nguồn vốn này vẫn chưa được điều tiết một cách minh bạch và sử dụng đúng với bản chất của nó. Vốn tạo ra từ bất động sản ít được gia tăng giá trị bằng các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mà chủ yếu chạy “lòng vòng”, đẩy nhau cùng tăng giá. Thị trường bất động sản chính thức thì luôn khát vốn, trông chờ vào ngân hàng, nhưng ngân hàng lại bị động do các biện pháp hành chính của cơ quan quản lý.

Cơ sở pháp lý cho các giao dịch bất động sản chưa đầy đủ (dự kiến xây dựng Luật Đăng ký bất động sản sau nhiều năm vẫn chưa được Quốc hội xem xét) làm cho các giao dịch tự phát theo lợi ích của nhà đầu tư chứ không dựa trên cơ sở nhu cầu sử dụng bất động sản. Vì người mua bất động sản chủ yếu là đầu tư nên giá bất động sản luôn có xu hướng tăng, dẫn đến việc hình thành các nhu cầu giao dịch bất động sản trong tương lai, điển hình là thị trường chung cư và đất liền kề trong thời gian gần đây. Tuy Luật Kinh doanh bất động sản, Nghị định 71/2010 của Chính phủ và Thông tư 16/2010 của Bộ Xây dựng đều có quy định việc ứng tiền trước khi mua bất động sản nhưng Luật Đất đai lại chỉ công nhận những giao dịch khi đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng bất động sản.

Những quy định mâu thuẫn, không chặt chẽ này kéo dài khiến cho quyền sở hữu bất động sản sau khi giao dịch chưa được bảo đảm tính pháp lý, thiếu cơ chế giám sát các giao dịch để giảm thiểu rủi ro và thu thuế hiệu quả. Ở các nước phát triển, các giao dịch này được khuyến khích và trở thành các giao dịch chủ yếu trên thị trường bất động sản, đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhà ở của người dân, kể cả người có thu nhập thấp. Song để bảo đảm tính khả thi, các giao dịch này đều bắt buộc phải thực hiện qua thủ tục tại ngân hàng.

Ngân hàng sẽ thẩm định nhu cầu sử dụng, khả năng chi trả của người mua để quyết định bán các bất động sản cho những người có nhu cầu sử dụng bất động sản thực sự, chứ chủ đầu tư không được trực tiếp bán động sản bằng các hợp đồng góp vốn như ở Việt Nam hiện nay. Quy định này tuy thêm thủ tục nhưng chặt chẽ hơn, tạo ra sự minh bạch cho thị trường nhờ sự phối hợp kiểm soát nguồn vốn của thị trường tài chính, góp phần hạn chế đầu cơ, làm cho giá bất động sản trở về đúng giá trị thực, phản ánh nhu cầu sử dụng bất động sản trên thực tế.

Trong tình hình kinh tế khó khăn, Chính phủ quyết định nhiều biện pháp kinh tế vĩ mô nhằm duy trì tăng trưởng và ổn định thị trường (Nghị quyết 11/2011), nhưng nguồn lực rất lớn của thị trường bất động sản vẫn chưa được quan tâm điều tiết để mang lại lợi ích kinh tế. Điều dễ nhận thấy là rất nhiều bất động sản dù thuộc sở hữu Nhà nước hay tư nhân đều đang bị sử dụng vô cùng lãng phí, bất hợp lý. Để giải quyết được tận gốc những bất ổn của thị trường bất động sản cần sửa đổi đồng bộ những bất hợp lý về cơ sở pháp lý của quyền sở hữu và giao dịch bất động sản. Chỉ khi đó thị trường mới vận hành theo quy luật của nó, Nhà nước thu được thuế, người dân được bảo đảm thực hiện các quyền của mình đối với bất động sản.

 



File đính kèm