I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo điện tử Thông tấn xã Việt Nam phản ánh: Ngày 5/6, một số phương tiện truyền thông ở ngoài nước loan tin về việc đã xảy ra "các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc" trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là thông tin sai sự thật. Trên thực tế, sáng 5/6, có một số ít người đã tự phát tụ tập, đi ngang qua Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh để thể hiện tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, bày tỏ thái độ phản đối việc các tàu hải giám của Trung Quốc cản trở hoạt động, cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 khi tàu này đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Những người này cho rằng, hành động của các tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, vi phạm Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc, vi phạm Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Những người này tụ tập một cách trật tự, bày tỏ thái độ một cách ôn hòa, và sau khi được các đoàn thể, các cơ quan chức năng của Việt Nam giải thích, họ đã tự giải tán, ra về.
2. Báo điện tử VnMedia phản ánh: Theo kết quả bầu cử ĐBQH khóa XIII vừa qua, có bốn thành phần đã không đạt chỉ tiêu so với dự kiến và giảm so với Quốc hội khóa VII. Đó là đại biểu là người ngoài đảng, đại biểu là người trẻ tuổi, đại biểu là phụ nữ và đại biểu là người dân tộc thiểu số...
Theo đó, đại biểu là người ngoài đảng chỉ có 42 người, chiếm tỉ lệ 8,40%, ít hơn so với dự kiến và giảm 0,32% so với Quốc hội khóa VII. Đại biểu là người trẻ tuổi (dưới 40 tuổi) có 62 người, chiếm tỉ lệ 12,40%, ít hơn 8 người so với dự kiến và giảm 1,39% so với Quốc hội khóa VII. Kết quả cũng cho thấy, đại biểu là phụ nữ có 122 người, chiếm tỉ lệ 24,40%, ít hơn 28 người so với dự kiến và giảm 1,36% so với Quốc hội khóa VII. Trong khi đó, đại biểu là dân tộc thiểu số có 78 người, chiếm tỉ lệ 15,60%, ít hơn 12 người so với dự kiến và giảm 2,05% so với Quốc hội khóa VII.
Trong cơ cấu thành phần người trúng cử đại biểu Quốc hội lần này, có hai thành phần đại biểu tăng, đó là đại biểu tái cử đạt 167 người, chiếm tỉ lệ 33,40%, tăng 7 người so với dự kiến và tăng 5,81% so với Quốc hội khóa VII. Cùng có tỷ lệ tăng trong kỳ Quốc hội này, đó là đại biểu tự ứng cử đạt 4 người, chiếm tỷ lệ 0,80%, tăng 3 người và tăng 0,60% so với Quốc hội khóa VII.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Hàng loạt doanh nghiệp (DN) bất động sản đang ngồi chờ chết. Có DN chết rồi nhưng chưa nói ra thôi”. Đó là nhận định của ông Trần Văn Thành, Trưởng ban Điều hành phía Nam Mạng các sàn giao dịch bất động sản. Theo ông Thành, hiện thị trường bất động sản quá căng. Từ năm 2010 nhiều DN đã bán bớt tài sản, chuyển nhượng dự án để cầm cự. Nhưng qua năm 2011 bị bồi thêm siết tín dụng nên nhiều DN đuối. Ngoài ra, các tác động khác như sức mua thị trường quá yếu, nhiều chính sách về thị trường, thuế ban hành gần đây chưa hợp lý… cộng thêm nhiều chủ đầu tư bán tài sản, dự án không được đã và đang đẩy DN bất động sản đến bờ vực phá sản.
Ông Nguyễn Văn Đực, Phó Giám đốc Công ty Địa ốc Đất Lành, chia sẻ thị trường bất động sản giá trung bình thấp - một phân khúc có đông khách hàng tham gia hiện đông cứng. Lạnh đến mức ngay dự án Thái An của Đất Lành giá khá mềm nhưng sản phẩm bán ra cũng rất khó. “Gần đây có thêm tình trạng một số khách hàng đã mua căn hộ Thái An rồi đề nghị rút vốn lại” - ông Đực nói.
Giám đốc một công ty bất động sản ở quận 3 bình luận, ngân hàng mới siết tín dụng đợt một (về mức 22%) ở giữa năm mà thị trường bất động sản đã rung rinh, xì hơi. “Vậy nên sắp tới khi ngân hàng đưa tín dụng phi sản xuất về mức 16% vào cuối năm thì nhiều dự án sẽ chao đảo, thậm chí không trụ vững”.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Thể thao và văn hóa có bài Hội Luật gia ra tuyên bố về việc tàu Hải giám TQ. Bài báo phản ánh: Ngày 26/5/2011, ba tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) khi tàu Bình Minh 02 đang khảo sát địa chấn trong vùng thềm lục địa của Việt Nam. Hành động này đã vi phạm nghiêm trọng Hiến chương Liên hợp quốc (tại các Điều 2 khoản 3, Điều 2 khoản 4) và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (tại các Điều 58 khoản 3, Điều 76, Điều 77 khoản 1, Điều 301); đồng thời vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình và gây thiệt hại về kinh tế đối với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Hành động này cũng đã đi ngược lại Cam kết của Trung Quốc tại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký năm 2002, cũng như nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
Hội Luật gia Việt Nam kêu gọi phía Trung Quốc tuân thủ nghiêm Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 mà Trung quốc là nước thành viên, cũng như Luật pháp quốc tế liên quan; thực hiện nghiêm túc các cam kết được nêu trong Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông; không để tái diễn những hành động tương tự trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam; bồi thường những tổn thất mà 3 tàu hải giám của Trung Quốc gây ra cho Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam. Hội Luật gia Việt Nam luôn mong muốn thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa nhân dân và giới luật gia hai nước Việt Nam-Trung Quốc, cùng với phía Trung Quốc góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, giữ gìn hòa bình và an ninh trong khu vực và trên thế giới.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Bộ Công Thương “rào sân” cho doanh nghiệp độc quyền?. Bài báo phản ánh: Ngày 18/8/2008, Bộ Công Thương có quyết định số 28/ QĐ-BCT phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác và tuyển quặng Apatít giai đoạn 2008-2010, có tính đến sau năm 2020. Quyết định này đặt ra các mục tiêu : việc quy hoạch khai thác quặng apatít Lào Cai tiếp tục sử dụng và khai thác triệt để các thiết bị khai thác hiện đang sử dụng trên dây chuyền sản xuất như khoan nổ, xúc bốc, vận tải để nâng cao năng lực phục vụ sản xuất và kinh doanh. Từng bước đầu tư đổi mới công nghệ và đồng bộ thiết bị theo hướng hiện đại, hợp lý như máy xúc thủy lực, máy khoan thủy lực…Với sản lượng bình quân quặng nguyên khai loại I, loại II và quặng tuyển dự kiến cho giai đoạn quy hoạch khoảng 10,5 triệu tấn. Ngoài ra, quy hoạch tuyển quặng để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất super lân và DAP có công suất tuyển tinh quặng được xác định là 2 triệu tấn/năm. Để đạt được mục tiêu trên, Bộ này giao toàn bộ việc quản lý, khảo sát, quy hoạch sử dụng và khai thác mỏ quặng apatít tại tỉnh Lào Cai cho Tập đoàn hóa chất Việt Nam. Tập đoàn được liên kết, hợp tác với các DN khác có khả năng và mong muốn đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến quặng apatít phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Điều đáng nói là ngay khi Quyết định 28 còn là dự thảo, Bộ Tư pháp đã có văn bản cho rằng: “Không nên quy định trách nhiệm của Tập đoàn hóa chất Việt Nam trong văn bản này”. Bộ Tư Pháp khẳng định việc Nhà nước giao cho Tổng công ty hóa chất Việt Nam là đơn vị duy nhất chịu trách nhiệm trước Nhà nước về quản lý, khảo sát quy hoạch trên toàn vùng mỏ Lào Cai…như trong quyết định của Bộ Công thương đã thể hiện sự đối xử không bình đẳng của Nhà nước đối với các doanh nghiệp cùng hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, ý kiến của Bộ Tư Pháp khi đó đã không được Bộ Công Thương tiếp thu, chỉnh sửa.
Khó hiểu là bản thân Bộ Công thương cũng tự mâu thuẫn với chính mình trong việc quy hoạch khoáng sản tỉnh Lào Cai. Tại văn bản số 4851/BCT – CNNg ngày 27/5/2009 Bộ này lại nêu rõ: “Mọi Doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, không phân biệt là DN trung ương hay địa phương, nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật liên quan đều có thể được tham gia đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản theo quy định…”. Như vậy văn bản 4851 đã mâu thuẫn với chính QĐ số 28 song hơn 10 năm qua vẫn mặc nhiên được thực hiện, trở thành “barie” cản các doanh nghiệp muốn đầu tư thăm dò, khai thác quặng apatít.
…Thừa nhận thế song thực khó hiểu khi mới đây trong công văn kiểm điểm thực hiện quy hoạch quặng apatit để báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương vẫn nhất nhất khẳng định: gần 3 năm triển khai thực hiện QĐ 28/2008/QĐ-BCT ngày 18/8/2008 của Bộ Công thương đã thể tính đúng đắn và hợp lý; đến nay, Quy hoạch vẫn còn giá trị thực tiễn và khả thi, vì vậy, việc điều chỉnh Quy hoạch apatit tại thời điểm này là chưa cần thiết. “ cái lý” mà Bộ Công thương đưa ra là apatit là khoáng sản đặc thù chỉ có ở khu vực Lào Cai, là nguyên liệu quan trọng để phục vụ sản xuất phân bón, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực; Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là DNNN được giao nhiệm vụ chủ trì thực hiện quặng apatit, vì vậy, đề nghị Bộ TN&MT xem xét báo cáo Thủ tướng Chính phủ không đưa vào danh mục các mỏ đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
Trước lập luận này của Bộ Công Thương, “ những người trong cuộc” bức xúc cho rằng, phải chăng Bộ Công thương đang cố tình rào sân” để giúp Tập đoàn Hóa chất “né” việc thực thi Luật Khoáng sản bổ sung mới có hiệu lực từ ngày 1/7/2011? Nếu quả thực như vậy thì việc khai thác quặng apatit ở Lào Cai sẽ được bỏ qua việc tổ chức đấu giá để cấp quyền khai thác mỏ và xác định lại giá trị của những mỏ hiện đang được doanh nghiệp khai thác như Luật khoáng sản yêu cầu? Quặng apatit có phải là trường hợp “ngoại lệ” của Luật khoáng sản hay còn có uẩn khúc gì cần được làm sáng tỏ?
Báo cũng có bài “Thông tư của Bộ GTVT “vênh“ Luật”. Bài báo phản ánh: Cụ thể, Điều 31 của Luật GTĐB quy định: “Người đi bộ chỉ được qua đường ở những nơi có đèn tín hiệu, có vạch kẻ đường hoặc có cầu vượt, hầm dành cho người đi bộ và phải tuân thủ tín hiệu chỉ dẫn. Trường hợp không có đèn tín hiệu, không có vạch kẻ đường, cầu vượt dành cho người đi bộ phải quan sát các xe đang đi tới, chỉ qua đường khi đảm bảo an toàn và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn khi qua đường”.
Tại Khoản 4, Điều 11, Luật GTĐB còn quy định: “Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ và nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường. Những nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, nếu thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường thì phải giảm tốc độ, nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường bảo đảm an toàn”. Từ các điều luật nói trên thấy: Điều 32 của Luật GTĐB bắt buộc người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật muốn qua đường được an toàn phải chọn nơi có vạch kẻ đường dành cho họ đi qua. Trường hợp họ qua đường ở những nơi không có vạch kẻ đường, thì họ phải dành ưu tiên cho các xe đang đi tới, chỉ qua đường khi bảo đảm an toàn và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn khi qua đường. Còn theo Khoản 4, Điều 11 Luật GTĐB quy định có hai trường hợp:
Một là: Pháp luật bắt buộc người điều khiển phương tiện phải giảm tốc độ tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường với bất kỳ trường hợp nào, kể cả lúc đó có người đi bộ hoặc xe lăn của người khuyết tật qua đường hay không. Bởi vì trường hợp này điều luật quy định nhường đường cho người đi bộ qua đường, tức là có thể lúc đó đang có người đi bộ qua đường hoặc không có họ đang qua đường.
Hai là: Pháp luật chỉ quy định ở những nơi không có vạy kẻ đường dành cho người đi bộ, thì người điều khiển phương tiện chỉ phải giảm tốc độ khi quan sát nhìn thấy người đi bộ đang qua đường. Bởi vì trường hợp này điều luật quy định nhường đường cho người đi bộ đang qua đường, tức là lúc đo nhất thiết họ phải đang qua đường. Như vậy, pháp luật quy định ở những vị trí có vạch kẻ đường và vị trí không có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, thì người điều khiển phương tiện chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý có giới hạn khác nhau và không đồng nhất với nhau.
Thế nhưng, Khoản 6, Điều 5, Thông tư số 13 lại quy định: “Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tói đa cho phép đến mức không nguy hiểm… khi có người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường”. Việc quy định như vậy là không rõ ràng và không thống nhất với Khoản 4, Điều 11 Luật GTĐB. Bởi Khoản 6, Điều 5 của thông tư quy định như vậy được hiểu là: Tất cả mọi trường hợp ở nơi có vạch kẻ đường hay không có vạch kẻ đường và bất luận người điều khiển phương tiện quan sát, nhìn thấy hay không nhìn thấy người đi bộ đang qua đường, thì người điều khiển phương tiện vẫn phải giảm tốc độ dưới mức tốc độ tối đa cho phép. Ngược lại, theo Khoản 4, Điều 11 Luật GTĐB quy định “khi có người đi bộ qua đường” sẽ xảy ra hai trường hợp: Nếu họ đi qua đường ở nơi có vạch kẻ đường thì dù không nhìn thấy có họ đang qua đường hoặc thực tế không có họ đang qua đường, người điều khiển phương tiện vẫn phải giảm tốc độ tại nơi có vạy kẻ đường đó. Còn nếu họ qua đường ở nơi không có vạch kẻ đường, thì người điều khiển phương tiện vẫn được quyền đi với tốc độ tối đa cho phép, chỉ khi nào quan sát nhìn thấy họ đang qua đương mới phải giảm tốc độ.
Với quy định tại Khoản 6, Điều 5 của Thông tư 13 dễ dẫn đến sự lúng túng trong xác định chứng cứ vụ án. Có người cho rằng mặc dù bị cáo có quan sát, nhưng không nhìn thấy người đi bộ đang qua đường ở nơi không có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ qua đường (do bị vật che khuất), nhưng bị cáo đã không giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép theo Khoản 6, Điều 5 và Điều 6 của Thông tư số 13, thì bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Chúng tôi cho rằng nhận định như vậy là trái với Khoản 4, Điều 11 của Luật GTĐB, nhưng lại thuận với Thông tư số 13 nói trên. Từ các lẽ trên, nên chăng tại Khoản 6, Điều 5, Thông tư 13 cần tách ra quy định thành hai trường hợp như sau: “Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải quan sát, giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép đến mức không nguy hiểm: Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ qua đường. Khi quan sát nhìn thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường ở nơi không có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ qua đường”.Quy định như vậy sẽ phù hợp với Luật GTĐB.