Điểm tin báo chí sáng ngày 31 tháng 5 năm 2011

31/05/2011
Trong buổi sáng ngày 31/5/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo VietNamPlus đưa tin: Chiều 30/5, tại Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Bầu cử Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì phiên họp thứ năm Hội đồng Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016. Tại phiên họp, các thành viên Hội đồng bầu cử cho ý kiến vào báo cáo sơ bộ kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.

2. Báo Dân trí đưa tin: Ủy ban bầu cử tỉnh Long An vừa công bố danh sách các đại biểu trúng cử HĐND cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016. Trong danh sách này không có tên ông Dương Thế Hùng, Chủ tịch UBND tỉnh Long An.

3. Báo Người lao động có bài Đề nghị khởi tố chủ doanh nghiệp Dìn Ký. Bài báo phản ánh: Thân nhân 4 người Trung Quốc tử nạn trong vụ chìm tàu Dìn Ký vừa gửi đơn đến Tổng lãnh sự quán Trung Quốc tại TPHCM.

Thân nhân các nạn nhân cũng có đơn khiếu nại gửi đến VKSND tỉnh Bình Dương, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Bình Dương để yêu cầu nhanh chóng giải quyết vụ tai nạn, xử lý hình sự chủ DNTN Dìn Ký.

4. Báo VnEconomy có bài Bắt buộc dự trữ thép: Doanh nghiệp phản ứng quyết liệt. Bài báo phản ánh: Dự thảo dự trữ lưu thông bắt buộc đối với một số mặt hàng thiết yếu, trong đó có thép và phôi thép của Bộ Công Thương đang gặp phải sự phản ứng khá quyết liệt từ các doanh nghiệp thép trong nước.

Theo quy định của bản Dự thảo đang được Bộ Công Thương lấy ý kiến của các doanh nghiệp, mức dự trữ lưu thông bắt buộc tối đa dự kiến là 10% lượng thép và 3-5% lượng phôi thép mà thương nhân nhập khẩu năm trước. Giá mua hàng hóa đưa vào dự trữ lưu thông thực hiện theo cơ chế giá thị trường. Giá bán lẻ hàng hóa dự trữ lưu thông bắt buộc thấp hơn giá thị trường tại thời điểm bán ra ít nhất 10%, giá thị trường do Bộ Tài chính công bố tại thời điểm bán ra. Bộ Công Thương cho rằng, phôi thép là nguyên liệu đầu vào chiếm khoảng 80% trong việc hình thành giá thép thành phẩm. Trong khi phôi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu, 40% còn lại vẫn phải nhập khẩu và giá thép trong nước chịu ảnh hưởng nhiều từ biến động giá phôi thép trên thế giới, vì vậy để góp phần bình ổn thị trường thép, việc quy định dự trữ lưu thông bắt buộc đối với phôi thép (chủ yếu là phôi vuông dùng trong sản xuất thép xây dựng) là cần thiết.

Đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thép, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho rằng, dự thảo này không phù hợp với quy luật thị trường, đi ngược lại lợi ích của cả Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Theo VSA có bốn lý do sau. Một là, đến thời điểm này, tổng công suất sản xuất thép xây dựng của cả nước đạt gần 9 triệu tấn/năm, trong khi tổng tiêu thụ thép năm 2010 mới đạt 6,3 triệu tấn. Tiêu thụ thép 5 năm gần đây chỉ chiếm 50 - 60% tổng công suất của các doanh nghiệp. Trên thị trường chưa bao giờ thiếu thép xây dựng kể cả khi giá cả thép biến động mạnh. Vì vậy, không có lý gì lại dự trữ thứ đang dư thừa.

Hai là, các đơn vị nhập khẩu thép còn kinh doanh nhiều mặt hàng khác mà Nhà nước không cấm, căn cứ theo nhu cầu thị trường. Hàng tháng các doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng đều dự trữ 500 nghìn tấn phôi thép, 300 nghìn tấn thép xây dựng thành phẩm, chưa kể phôi và sản phẩm thép tồn ở các công ty thương mại. Như vậy, lượng phôi và sản phẩm tồn cao hơn nhiều so với mức quy định dự trữ trong dự thảo.

Ba là, Dự thảo quy định giá bán hàng dự trữ của doanh nghiệp thấp hơn giá thị trường 10% cũng không thực tế. Những năm trước, khi giá thép biến động mạnh, Nhà nước chỉ đạo doanh nghiệp nhà nước giữ giá bán thấp hơn thị trường 1 - 2 triệu đồng/tấn nhưng trên thực tế người tiêu dùng không được hưởng giá rẻ bởi sản phẩm đến tay họ phải qua rất nhiều khâu trung gian, và chỉ có doanh nghiệp phân phối trung gian được hưởng lợi.

Bốn là, tuy dự thảo yêu cầu ngân hàng giảm lãi suất vay cho doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp đầu tư kho bãi thì được ưu đãi thuế đất... song thực chất điều này sẽ hình thành cơ chế xin - cho phức tạp, dễ phát sinh tiêu cực.

Trong công văn mới đây gửi Bộ Công Thương, VSA đã đề nghị bộ này kiến nghị Thủ tướng những biện pháp hữu hiệu bình ổn thị trường, tránh những quy định hành chính với doanh nghiệp thép, bởi sản xuất thép xây dựng ở Việt Nam hoàn toàn đảm bảo nhu cầu và đang vận hành theo cơ chế thị trường, phải cạnh tranh gay gắt không chỉ trong nước mà cả với doanh nghiệp nước ngoài.

Nhiều năm nay, trong ngành thép đã có sự cạnh tranh gay gắt bởi công suất sản xuất thép hiện đã cao hơn nhu cầu. Vì vậy, không cần dự trữ để bình ổn thì các doanh nghiệp cũng tự phải dự trữ để cạnh tranh. Việc lựa chọn một số doanh nghiệp làm đầu mối dự trữ hàng hóa và phân phối theo “mệnh lệnh” của Nhà nước sẽ tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh, trái với quy luật của nền kinh tế thị trường.

5. Báo Lao động có bài Tín dụng cho bất động sản: Van nào đóng, van nào mở?. Bài báo phản ánh: Thị trường bất động sản (BĐS) hiện nay đang được cho là “tê liệt” không khác gì TTCK. Trong số này, không ít NĐT cũng đang đứng áp lực phải “giải chấp” BĐS trước nguy cơ siết tín dụng, trả lãi NH cũng như là trả các khoản tiền đã huy động. Tuy nhiên, liệu có nên “đóng cửa” hoàn toàn với BĐS? Một trong những phương án được đưa ra là cần cân nhắc “mở van” đối với nhu cầu thực, nhu cầu BĐS cấp bách, phù hợp.

Hiện nay, thị trường có 2 xu hướng rõ nét. NĐT hoặc đầu cơ BĐS mà không có tiền thì rao bán ồ ạt, thậm chí là chấp nhận lỗ. Thế nhưng ngược lại, người có tiền thì cho rằng đây đang là thời điểm thuận lợi để tiếp tục mua vào đầu tư, đầu cơ - nhưng với điều kiện là bằng nguồn tài chính lành mạnh. Các chuyên gia cho rằng đây không phải là đợt bán tháo, hay “nguy cơ vỡ bong bóng”; mà do tín dụng được thắt chặt, nhiều NĐT hoặc đầu cơ không có tiền tiếp tục theo đuổi các dự án nên bán để thu hồi vốn, thậm chí là cắt lỗ. Đây cũng là điều bình thường ở bất kỳ loại hình đầu tư hay lĩnh vực kinh tế nào khi mà thắt chặt tín dụng.

Tuy nhiên hiện nay, việc bán hàng không dễ bởi lượng tiền mặt khan hiếm. Thêm vào đó, các chuyên gia cho rằng đã qua rồi thời ôm BĐS để đầu cơ “lướt sóng”. Chính vì thế, NĐT hiện nay tha hồ chọn hàng. Với lợi thế này, hầu hết NĐT đều hướng đến nguồn hàng đã hình thành, ổn định với vị trí đẹp chứ hầu như không ngó ngàng đến dự án “hình thành trong tương lai”.

Các chuyên gia cho rằng đóng van tín dụng đối với cho vay đầu cơ là cần thiết, nhưng nên chăng cần mở van tín dụng đối với nhu cầu thực. Được biết hiện nay với căn hộ tại Ecopark, chủ đầu tư hợp tác với Vietcombank cung ứng khoản vay cho khách hàng tại dự án với mức vay lên đến 70% giá trị căn hộ, thời hạn vay 15 năm. Có cùng quan điểm này, các chuyên gia cũng như Bộ Xây dựng cho rằng nguy cơ rủi ro đến nay chỉ có thể hình thành ở dạng BĐS cao cấp, nghỉ dưỡng, còn với phân khúc nhà ở, nhà chung cư thì vẫn còn rất cần thiết. Điều này cũng có nét tương đồng với thị trường BĐS nước ngoài, khi mà người ta sẵn sàng cho vay mua nhà với đối tượng có việc làm, có nhu cầu thực và thời gian trả nợ dài hạn. Vì thế Bộ Xây dựng cho rằng cần phải có tiêu chí cho vay và ưu tiên cho vay các dự án có tính thanh khoản cao, đúng đối tượng.

Cùng với đề xuất này, Bộ Xây dựng cũng đề xuất loạt giải pháp cho thị trường BĐS, trng đó có việc hạn chế tiến tới chấm dứt việc sử dụng tiền mặt trong các giao dịch BĐS, nhất là đối với các hợp đồng huy động vốn, mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, giao dịch thuê nhà ở để giảm áp lực tiền mặt và hạn chế rủi ro cho các bên tham gia. Đây là việc làm cần thiết bởi thực tế, rủi ro tín dụng chủ yếu nằm ở phân khúc thị trường BĐS này.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Sài gòn giải phóng đưa tin: Ngày 30-5, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương tổ chức phiên họp 24. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương chủ trì phiên họp. Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh việc thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TƯ của Bộ Chính trị trong 5 năm qua đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo chuyển biến trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Chủ tịch nước cho rằng, vấn đề yếu kém nhất trong thời gian qua là chưa đào tạo được đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp và mong đợi của nhân dân.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Thành lập tổ chức giám định tư pháp tư đến lúc “chín muồi“. Bài báo phản ánh: Dự thảo Luật Giám định Tư pháp do Bộ Tư pháp xây dựng đang được đưa ra lấy ý kiến rộng rãi. Một trong nhiều nội dung được quan tâm đặc biệt lần này là việc cho phép thành lập tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập, và cho đương sự được trực tiếp yêu cầu giám định trong vụ án dân sự. Nhân sự kiện này, Báo Pháp luật Việt Nam phỏng vấn PGS.TS.Hoàng Mạnh Hùng - nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an. 

Thưa ông, ông có cho rằng việc cho phép đương sự (trong các vụ án dân sự) được trực tiếp yêu cầu giám định tư pháp trong giai đoạn hiện nay là “bước tiến mới”, trong khi trước kia đề nghị này không nhận được nhiều sự đồng thuận?

- Tôi cho rằng điều này là nên làm. Về lý thuyết, hệ thống tư pháp của mỗi nước phải phát triển để làm sao tiến tới tiêu chí “tránh sai sót cao nhất” cho người dân. Qua việc này sẽ làm cho hệ thống tư pháp của chúng ta sống động hơn, theo sát hơi thở của cuộc sống và tự nó vận động, phát triển liên tục. Đó cũng vì: Quyền của công dân được tự bảo vệ trước Tòa bằng mọi chứng cứ mà mình có; tạo điều kiện để nâng cao trách nhiệm của cán bộ thực thi luật pháp (trong đó có giám định viên), tránh lối tư duy một chiều, vì khi không có phản biện, dễ xảy ra suy diễn theo ý kiến chủ quan; dân trí được nâng cao qua trao đổi, qua đánh giá kết luận giám định và tranh luận tại Tòa về những vấn đề thời sự của cuộc sống.

Khi cho phép đương sự được trực tiếp yêu cầu giám định cũng sẽ là động lực để Nhà nước và giám định viên công và tư phải nâng cao trình độ, để không chỉ đáp ứng quyền và lợi ích chính đáng của đương sự, mà còn là động lực để họ có điều kiện để học hỏi, hội nhập, để tránh tụt hậu.

Còn về thực tế thì sao thưa ông?

- Tôi cho rằng, chủ trương này là phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, giúp phòng ngừa và hạn chế được oan sai, khắc phục tình trạng kéo dài vụ việc không cần thiết hoặc vụ việc bị “thối”. Còn về kinh tế: Tại sao một vụ việc dân sự lại bắt Nhà nước lại phải trả công và tiền chi phí giám định của Nhà nước. Đã đến lúc chúng ta cần khẳng định dứt khoát là bên gây ra lỗi phải bồi thường cho bên bị thiệt hại, chứ hà cớ gì tiền thuế của dân phải chi cho những xung đột cá nhân xảy ra giữa họ? Có lẽ sau này, người gây thiệt hại cho Nhà nước cũng nên được giải quyết theo hướng đền bù đủ cho Nhà nước để được tại ngoại, quản lý tại địa phương. Đây có lẽ sẽ là một khâu tiết kiệm được công quỹ rất nhiều cho Nhà nước.

Lần đầu tiên Dự thảo Luật cho phép thành lập tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập. Là người lâu năm làm việc trong lĩnh vực này, ông thấy đề xuất này ra sao?

- Tôi ủng hộ. Nếu có cơ sở giám định tư pháp tư thì Nhà nước sẽ tiết kiệm được chi tiêu công, đỡ lãng phí như thường gặp ở các cơ sở giám định công hiện nay (mua máy ít cần hoặc hiệu quả sử dụng thấp, mua 2 máy cùng chức năng, bảo quản kém, thiếu dự trù kinh phí cho mua phụ tùng thay thế, nuôi máy, nuôi người; kinh phí, cách thức đào tạo cán bộ còn chưa tương xứng máy móc hiện đại). Giám định tư sẽ sử dụng các máy ở các cơ sở khoa học khác, kể cả do Nhà nước trang bị, đặc biệt các phòng thí nghiệm trọng điểm Nhà nước, sẽ có điều kiện phát huy hiệu suất các máy cao hơn (vì một cơ sở khoa học hoặc giám định tư pháp không thể mua hết các loại máy).

  Bài học thực tế trong giám định những năm qua đã chỉ ra, giám định viên nào chịu khó học hỏi, trau dồi kiến thức sẽ biết chọn phương pháp và máy thích hợp để đạt được mục đích đặt ra, ngay cả khi cơ sở đó chưa có máy. Kết luận đúng hay sai của giám định viên không phụ thuộc vào máy móc (cùng máy phân tích nhưng hai người kết luận khác nhau) mà quyết định là trình độ, năng lực của giám định viên. Khi đối tượng có quyền trực tiếp yêu cầu giám định tư hoặc công sẽ là điều kiện để nâng cao được kiến thức, trách nhiệm, yêu cầu có sự hiểu biết sâu rộng của điều tra viên về khoa học hình sự. Những vụ án thực tế vừa qua bị kéo dài, ách tắc vì không thống nhất được quan điểm, do điều tra viên chưa chỉ đạo làm tốt công tác khám nghiệm hiện trường, chất lượng dấu vết thu thập yếu hoặc bị bỏ sót, không có các kết luận khoa học khác để so sánh, đối chứng. 

Nhưng cũng có ý kiến cho rằng cái tên “Văn phòng giám định tư pháp” có cái gì đó không ổn?

- Theo tôi, cho phép thành lập thì nên để tên gọi là Trung tâm (hoặc Viện) giám định tư pháp tư (mà không nên dùng từ văn phòng như công chứng), vì tính chất công việc khác với các văn phòng (chủ yếu là công việc hành chính). Lúc này thực sự đã đến thời điểm chín muồi, vì nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã cho thành lập như ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapo, Hồng Kông..., mặt khác đáp ứng nhu cầu thực tiễn bức xúc của nước ta, đó chính là vì dân và vì không muốn tụt hậu của KHHS Việt Nam.

Để các cơ sở giám định ngoài công lập hoạt động hiệu quả, tránh cạnh tranh không lành mạnh, theo ông phải quan tâm tới những yếu tố nào?

- Để tránh cạnh tranh thiếu lành mạnh, điều cơ bản trước hết là: Giám định viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc mình làm, bên cạnh đó cơ quan quản lý phải đưa ra những Barie cho hoạt động này. Chúng tôi không đủ các yếu tố đầu vào để dám bàn sâu, chỉ xin nêu một số ý kiến cần lưu ý: Trong các Trung tâm giám định tư người đứng đầu phải là giám định viên tư pháp, các nhân viên trong Trung tâm chỉ được phép làm giám định theo đúng chuyên ngành đã được đào tạo và đã có kinh nghiệm thực tế về lĩnh vực đó.

Thời gian để cho một giám định viên tư pháp đứng ra thành lập tổ chức tư không thể là sau 5 năm, vì hết thời gian này chỉ là hết tập sự nghề qua đào tạo tại chỗ. Nghề giám định viên liên quan đến sinh mạng của con người (như nghề bác sỹ), cho nên sự cẩn trọng là điều cần thiết. Để có đủ kinh nghiệm chuyên môn tự giải quyết được công việc, giám định viên phải mất thêm 5 năm làm việc có đào tạo kèm cặp. Như vậy, người được Nhà nước đào tạo chính quy 5 năm, được đào tạo kèm cặp 5 năm, thì phải làm trả lại cho Nhà nước 10 năm, sau đó mới có thể được thành lập giám định tư, tổng cộng sẽ là sau 15 năm làm việc.

“Độ chín” về chuyên môn, về kinh nghiệm thực tế và tuổi đời sẽ giảm đi độ sai sót của những giám định tư pháp tư. Trong một thời hạn 2 hoặc 3 năm đều phải có sát hạch theo barem được các bậc thầy ra bài cho cả giám định viên công hoặc tư. Trong thực tế, không phải ai cũng có đủ tố chất để trở thành giám định viên.

Nhưng, có nên cho phép tổ chức giám định ngoài công lập thực hiện tất cả các lĩnh vực giám định?

- Tôi cho rằng cần phải giới hạn phạm vi hoạt động cho giám định tư (ví dụ: Không giám định, giải quyết vụ có 01 người chết trở lên do tội phạm dân sự gây ra; không giải quyết các vụ liên quan đến Nhà nước gây thiệt hại có giá trị kinh tế từ 5 hoặc 10 tỷ trở lên;  hoặc không được giám định thương tích trên 30 % (thương tích dưới 11% xử theo dân sự cũng cần thay đổi cho phù hợp thực tế, vì nếu xâm hại tình dục sẽ là bao nhiêu phần trăm). Kinh tế phát triển, đời sống được cải thiện thì các nhà hoạch định chính sách vĩ mô cũng phải thay đổi các quy định trong khoảng 2-3 năm. Vấn đề này vẫn cần được trao đổi thêm giữa các cán bộ thực thi luật pháp (tòa án, tư pháp, giám định viên, kiểm sát viên…).

Về chế độ đãi ngộ giám định viên theo quy định hiện nay, theo ông cần phải chỉnh sửa những gì?

- Nhìn chung giai đoạn hiện nay vấn đề này đã có nhiều cải thiện đáng kể, nhưng chỗ này chỗ kia áp dụng chính sách còn khác nhau. Theo tôi cần có cơ chế để xóa đi sự bình quân chủ nghĩa. Cần đặt ra một số danh hiệu như “bàn tay vàng”, “chuyên gia đầu ngành về cháy nổ”, “chuyên gia đầu ngành về gen” ,“ Giám định viên quyết định trong phá án”... để có hình thức động viên tinh thần và vật chất.

Về cách thức đào tạo giám định viên cũng nên có một cuộc cách mạng thực sự.

3. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Đằng sau việc Tổng Công ty công nghiệp ô tô Việt Nam bị “ấn định” thuế: “Giải cứu” việc lách luật bằng... công văn? Bài báo phản ánh: Vụ việc Chi Cục hải quan quản lý KCN Bắc Giang ấn định thuế suất nguyên chiếc đối với 3 lô hàng nhập khẩu của Tổng Cty Công nghiệp ô tô Việt Nam (Tổng Cty Vinamotor) đã phản ánh hai vấn đề cốt tử của việc thực hiện chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam là “doanh nghiệp lợi dụng chính sách”, còn cơ quan xây dựng chính sách thì “bó tay” trước những trò lách luật khiến Nhà nước thiệt hại hàng trăm tỷ đồng.

Năm 2010, Tổng Cty Vinamotor đã mở tờ khai nhập khẩu một số lô hàng linh kiện ô tô nhập khẩu từ Hàn Quốc do Cty K.A.M International cung cấp. Trong quá trình kiểm tra, Chi Cục hải quan quản lý KCN Bắc Giang và Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng Cục hải quan đã phát hiện một số linh kiện không “rời rạc” (đệm ghế lái, ghế phụ đã được lắp vào xương ghế; kính đã được lắp vào khung, gioăng kính và khóa), không đáp ứng độ rời rạc theo quy định tại Quyết định 05/2005/QĐ-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ, quy định tiêu chuẩn độ rời rạc của linh kiện ô tô, dạng CKĐ.

Theo quy định của pháp luật, Chi Cục hải quan quản lý KCN Bắc Giang đã ra quyết định ấn định thuế suất nhập khẩu nguyên chiếc đối với các lô hàng “linh kiện” của Tổng Cty Vinamotor. Chỉ tính 3 lô hàng bị ấn định thuế, Tổng Cty Vinamotor phải nộp khoảng 85 tỷ đồng, thay vì số tiền 13 tỷ theo thuế suất linh kiện mà doanh nghiệp này kê khai.

Tổng Cty Vinamotor đã khiếu nại việc ấn định thuế suất nguyên chiếc và “cầu cứu” Bộ Khoa học và Công nghệ. Bộ Khoa học và Công nghệ sau đó đã có công văn cho rằng, số linh kiện không rời rạc mà Tổng Cty Vinamotor nhập khẩu là “đáp ứng” yêu cầu của Quyết định 05/2005/QĐ-BKHCN, mặc dù trong văn bản trả lời Cục Điều tra chống buôn lậu trước đó, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, các linh kiện trên chưa đảm bảo độ rời rạc.

Mới đây, Bộ Tài chính cũng có công văn “đồng tình” ý kiến của Bộ Khoa học và Công nghệ và chỉ đạo cơ quan hải quan phải xử lý theo quy định của pháp luật, không áp thuế suất nguyên chiếc đối với 3 lô hàng linh kiện mà Tổng Cty Vinamotor đã nhập khẩu. Như vậy, Chi Cục hải quan quản lý KCN Bắc Giang phải hủy bỏ việc áp dụng thuế suất nguyên chiếc mà thay bằng thuế suất linh kiện đối với các lô hàng trên. Điều này đồng nghĩa với việc Nhà nước mất trắng mấy trăm tỷ đồng tiền thuế.

Với việc ra công văn để “vô hiệu hóa” quy định của văn bản quy phạm pháp luật, các Bộ đã biến một vi phạm thành không vi phạm. Về vấn đề “công văn thay văn bản quy phạm”, theo Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp, thì không thể lấy công văn thay thế văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là công văn “hướng dẫn” áp dụng không đúng nội dung văn bản quy phạm đó.

Vụ để cho các doanh nghiệp nhập khẩu linh kiện không rời rạc trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi có các dấu hiệu của việc doanh nghiệp nước ngoài lách luật và cấu kết với doanh nghiệp trong nước cùng trục lợi từ chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.

Trong việc nhập khẩu linh kiện ô tô Hyundai Mighty và Hyundai County vào Việt Nam, có dấu hiệu cho thấy Cty K.A.M International, doanh nghiệp Hàn Quốc chuyên cung cấp linh kiện xe của hãng Hyundai, đã lợi dụng chính sách thuế của Việt Nam. Cty K.A.M International đã ký hợp đồng nguyên tắc thuê Tổng Cty Vinamotor lắp ráp ô tô tải Hyundai Mighty và ô tô khách Hyundai County, với số lượng dự kiến khoảng 2.000 xe/năm. Những sản phẩm này được lắp ráp bằng linh kiện do Cty CP Hyundai Dong Vang (doanh nghiệp do Cty K.A.M International chỉ định để Tổng Cty Vinamotor ủy thác nhập khẩu) nhập khẩu linh kiện từ  Cty K.A.M Internantional. Sau khi Tổng Cty Vinamotor lắp ráp xong, Cty CP Hyundai Dong Vang mua lại toàn bộ số “thành phẩm” là xe Hyundai Mighty và Hyundai County và thực hiện việc kinh doanh thương mại số hàng này.

Nếu theo bản hợp đồng nguyên tắc giữa Cty K.A.M International và Tổng Cty Vinamotor thì có thể thấy, Cty K.A.M thông qua Cty CP Hyundai Dong Vang để chuyển linh kiện ô tô Hyundai cho Tổng Cty Vinamotor lắp ráp rồi nhận lại xe đã lắp ráp và kinh doanh. Cty K.A.M là chủ thực sự của số linh kiện và những chiếc xe lắp ráp từ linh kiện đó. Với cách này, Cty K.A.M International đã “nhập khẩu” xe nguyên chiếc vào Việt Nam bằng con đường “nhập khẩu linh kiện” và chỉ phải chịu thuế suất linh kiện.

Các lô hàng mà Tổng Cty Vinamotor bị ấn định thuế nguyên chiếc khi làm thủ tục nhập khẩu, Cty K.A.M International cũng chuyển đến cảng Hải Phòng bằng hợp đồng ngoại thương với Cty Hyundai Dong Vang. Cuối năm 2010, Cty K.A.M International ký với Cty CP Hyundai Dong Vang một số hợp đồng ngoại thương, nhập khẩu vào Việt Nam 4 lô hàng linh kiện Hyundai County và Hyundai Mighty. Hàng đến cảng Hải Phòng. Nhưng, Cty CP Hyundai Dong Vang không đủ điều kiện nhập khẩu vì không có nhà máy sản xuất.

Vì thế, Cty CP Hyundai Dong Vang đã phải “tái xuất” một lô hàng với lý do mà Cty này trình bày với cơ quan hải quan có thẩm quyền là “hàng không đúng như yêu cầu đặt hàng nên không nhận”. Nhưng, chỉ có 1 lô hàng bị tái xuất. Vậy, có phải 3 lô hàng còn lại chính là số linh kiện mà Tổng Cty Vinamotor đã mở tờ khai nhập khẩu? Nếu vậy, các Bộ đã dùng công văn để “giải cứu” cho các lô hàng linh kiện của Cty K.A.M Internantional khỏi bị áp thuế suất nguyên chiếc và làm mất của Nhà nước gần 100 tỷ đồng?

4. Diễn đàn Doanh nghiệp có bài Báo cáo đánh giá tác động xây dựng VBQPPL: Có cũng như không. Bài báo phản ánh: Hiện nay, việc áp dụng Ria trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) đã trở thành chuẩn mực cho toàn thế giới. Tuy nhiên, việc sử dụng Ria bên cạnh một VBQPPL của VN mang nặng tính... đối phó.

Theo ông Scott Jacobs- Cố vấn thể chế cao cấp của Dự án USAID/VNCI, hiện tại chưa thấy có một cơ quan ngôn luận, truyền thông nào của VN phản ánh rõ về chi phí thực tế của những văn bản pháp luật mà Nhà nước ban hành cũng như việc kiểm soát và khống chế những quy định đó. Ông Scott Jacobs còn cho biết thêm, hiện nay, việc tuân thủ những quy định về Ria trong quá trình soạn thảo luật của VN rất nghiêm chỉnh. Thế nhưng, đến giai đoạn ban hành thông tư lại có nhiều vấn đề bất cập.

Bên cạnh đó, thực tế việc thực hiện quy định của Ria trong ban hành VBQPPL như thế nào, người dân và DN VN chưa được nhìn thấy những văn bản ban hành kèm theo Ria. Theo ông Phan Đức Hiếu - Phó trưởng ban môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh Viện nghiên cứu kinh tế trung ương, hầu hết các dự thảo đều có báo cáo Ria. Vì, trong văn bản trình Chính phủ hay Bộ Tư pháp nếu không có báo cáo Ria thì không được chấp nhận. Thế nhưng, đa phần các báo cáo Ria mà các bộ trình đều chưa đạt chất lượng vì họ làm báo cáo Ria chủ yếu là đối phó theo bắt buộc của luật.

Không ít DN “trăn trở” về trách nhiệm trong việc giám sát của mình. Ông Trần Tuấn Phương - Phó giám đốc Cty CP Thăng Bình cho biết: DN phát huy tính chủ động trong giám sát thực hiện báo cáo Ria kèm theo VBQPPL là một việc làm hữu ích. Thế nhưng, hiệu quả sẽ đi đến đâu khi Nhà nước luôn cho mình là đúng cho dù DN có ý kiến phản hồi thì cũng bị “gạt ngang”.

5. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Kiến nghị gộp hai luật về ban hành văn bản. Bài báo đưa tin: Sáng 27-5, UBND TP.HCM tổ chức Hội nghị tổng kết công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) giai đoạn 2005-2010 trên địa bàn TP. 10 tập thể và 24 cá nhân có thành tích trong công tác này đã được UBND TP tặng bằng khen. Trong đó, đơn vị được nhận bằng khen nhiều nhất là Sở Tư pháp TP với một giải tập thể và sáu giải cá nhân.

Báo cáo tổng kết công tác ban hành VBQPPL của UBND TP nêu rõ phần lớn các văn bản do HĐND và UBND các cấp tại TP ban hành đều phù hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn quản lý của TP. Tuy nhiên, để công tác xây dựng và ban hành VBQPPL được thực hiện chuyên nghiệp và hiệu quả hơn, UBND TP kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi một số nội dung trong pháp luật hiện hành liên quan đến công tác xây dựng VBQPPL. Cụ thể, theo quy định hiện nay, UBND ban hành hai loại VBQPPL là quyết định và chỉ thị. Trong khi đó, ở Trung ương thì chỉ thị không còn là VBQPPL. Vì thế, TP kiến nghị loại bỏ hình thức chỉ thị của UBND trong hệ thống VBQPPL của địa phương.

Về hình thức hủy bỏ, bãi bỏ VBQPPL hiện cũng chưa có sự thống nhất. Theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 thì VBQPPL chỉ được hủy bỏ, bãi bỏ bằng VBQPPL của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó. Trong khi đó, Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004 lại chỉ quy định chung chung là hủy bỏ, bãi bỏ bằng văn bản. TP kiến nghị Quốc hội xem xét nhập chung hai luật Ban hành VBQPPL (của trung ương và địa phương) để mang tính đồng bộ, tránh sự trùng lắp, chồng chéo lẫn nhau gây khó khăn khi triển khai thực hiện.

Một bất cập khác được TP nêu là kinh phí cho công tác xây dựng VBQPPL quá thấp. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 09/2007 giữa Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính, kinh phí cho công tác xây dựng văn bản tối đa chỉ 5 triệu đồng đối với nghị quyết, quyết định của HĐND, UBND và 2 triệu đồng đối với chỉ thị của UBND! TP kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền tăng mức hỗ trợ kinh phí hoặc chỉ quy định mức kinh phí hỗ trợ tối thiểu và giao thẩm quyền cho HĐND, UBND cấp tỉnh quyết định theo điều kiện của từng địa phương…

Báo cáo tham luận của UBND huyện Bình Chánh cũng đề xuất cần quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan soạn thảo văn bản cũng như của cơ quan, tổ chức được lấy ý kiến. Đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm tiếp thu ý kiến góp ý, thẩm định của cơ quan chủ trì soạn thảo để đảm bảo chất lượng của văn bản khi được ban hành. “Thẩm quyền ban hành VBQPPL chỉ nên quy định đến UBND cấp tỉnh, còn cấp huyện, cấp xã chỉ là cấp tổ chức thực hiện nên không cần thiết phải ban hành VBQPPL mà chỉ cần ban hành văn bản hành chính thông thường để thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương”, huyện Bình Chánh kiến nghị.



File đính kèm