I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân có bài Ban Tuyên giáo T.Ư, Ðảng ủy Khối Doanh nghiệp T.Ư tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng. Bài báo đưa tin:
* Ngày 26-5, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo T.Ư đã tổ chức Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng dành cho lãnh đạo chủ chốt các cơ quan khoa học, kỹ thuật khu vực phía bắc. Dự hội nghị có đại diện lãnh đạo Ban Tuyên giáo T.Ư, Ủy ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường của Quốc hội.
* Ngày 26-5, tại TP Hồ Chí Minh, Ðảng ủy Khối Doanh nghiệp T.Ư tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng. Ðồng chí Trương Quang Nghĩa, Ủy viên T.Ư Ðảng, Bí thư Ðảng ủy Khối dự và chỉ đạo. Hơn 400 học viên là cán bộ chủ chốt của các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng, đơn vị trực thuộc... các tỉnh phía nam tham dự.
2. Báo Hà Nội mới có bài Hội thảo khoa học “Chủ tịch Hồ Chí Minh -Hành trình tìm đường cứu nước”. Bài báo đưa tin: Sáng 26-5, Thành ủy TP Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức họp báo thông tin về hội thảo khoa học "Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hành trình tìm đường cứu nước" sẽ diễn ra vào ngày 31-5-2011.
Đến nay, Ban nội dung hội thảo đã nhận được 133 bài viết tham luận; trong số đó, có bài viết của hai đồng chí nguyên là Tổng Bí thư (đồng chí Đỗ Mười và đồng chí Lê Khả Phiêu). Dự kiến có khoảng 500 đại biểu là các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các tướng lĩnh, sĩ quan quân đội, công an, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, trí thức, văn nghệ sĩ, đại biểu dân tộc, các vị chức sắc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài… tham gia.
* Chiều 26-5, tại TP Vinh, tỉnh Nghệ An, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Nghệ An tổ chức Hội nghị tổng kết 30 năm Lễ hội làng Sen (1981-2011).
3. Báo VnMedia có bài Bộ Công Thương: "Siết ôtô nhập để lành mạnh hóa thị trường"! Bài báo đưa tin: Bộ Công Thương không ban hành biện pháp hạn chế thương mại, cũng như không đưa ra những khống chế về số lượng, định lượng… mà chỉ đưa ra những quy định nhằm lành mạnh hóa thị trường, tăng chất lượng phục vụ cho người tiêu dùng và đời sống nhân dân.
Đó là thông tin vừa được Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Thành Biên đưa ra trong buổi trả lời báo chí xung quanh Thông tư 20 về việc siết nhập khẩu ô tô 9 chỗ trở xuống.
- Được biết, sau khi Bộ Công Thương ban hành Thông tư 20/2011 TT-BCT về việc siết chặt nhập khẩu ô tô không lâu, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu ô tô tổ chức ký vào biên bản kiến nghị lên Chính phủ và Bộ Công Thương đề nghị sửa đổi quy định được cho là khá “hiểm” này. Nguyên nhân là, nếu áp dụng hình thức này nhiều nhà nhập khẩu sẽ có nguy cơ bị xóa sổ. Vậy quan điểm của Bộ về vấn đề này như thế nào?
Hiện tại, tôi chưa nhận được văn bản của các nhà nhập khẩu ô tô, tuy nhiên Bộ luôn sẵn sàng trả lời bất cứ kiến nghị nào từ những nhà nhập khẩu, cũng như các đối tác thương mại trong lĩnh vực liên quan đến Thông tư 20.
Chúng ta phải hiểu rằng, Bộ Công Thương không ban hành biện pháp hạn chế thương mại, cũng như không đưa ra những khống chế về số lượng, định lượng hoặc những quy định trái với yêu cầu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bộ chỉ đưa ra những quy định nhằm lành mạnh hóa thị trường, tăng chất lượng phục vụ cho người tiêu dùng và đời sống nhân dân, đồng thời thực thi những biện pháp cần thiết để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng cho việc đảm bảo an toàn giao thông.
Lâu nay, việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa là yêu cầu không phải chỉ Việt Nam đặt ra, mà các nước lớn cũng đặt ra những yêu cầu rất khắt khe đối với hàng xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian qua chúng ta chưa thực hiện được một cách nghiêm túc vấn đề này.
Vì vậy, quy định này đưa ra là nhằm làm lành mạnh hoá thị trường, những đơn vị có nhu cầu kinh doanh phải đáp ứng được những yêu cầu của Nhà nước.
- Hiện tại, có nhiều nhà nhập khẩu cho rằng, nếu chúng ta đưa ra quy định rõ rằng về nguồn gốc xuất xứ, sẽ tạo thuận lợi cho những nhà lắp ráp ô tô thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA) trong việc chuyển từ lắp ráp ô tô sang nhập khẩu nguyên chiếc. Ông nghĩ sao về vấn đền này?
Chúng ta không điều chỉnh tăng hay giảm thuế ô tô nhập khẩu để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài chuyển từ lắp ráp, sản xuất sang nhập khẩu phân phối.
Việc các nhà đầu tư nước ngoài chuyển từ lắp ráp, sản xuất sang phân phối phụ thuộc vào 2 yếu tố: Thứ nhất là lộ trình mở cửa thị trường của Việt Nam theo cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Thứ 2, là phụ thuộc vào cam kết giảm thuế theo WTO.
Tất cả những điều này là quy định đã được đưa ra khi Việt Nam tham gia WTO, nên chúng ta phải thực hiện và không thể hủy bỏ.
- Vậy trước khi ban hành Thông tư 20 về việc siết chặt nhập khẩu, Bộ Công Thương có tiến hành rà soát hiện trạng những doanh nghiệp nhập khẩu ô tô trong việc đảm bảo được những yêu cầu mà Thông tư đưa ra không?
Hiện có khoảng 1.700 doanh nghiệp nhập khẩu ô tô, mỗi năm nhập khẩu 30.000 xe, như vậy mỗi năm một doanh nghiệp này nhập khẩu chưa đến 20 chiếc, tức mỗi tháng nhập khoảng 2 chiếc. Con số này chứng tỏ thị trường đang phát triển quá manh mún.
Có thể thấy, trong những năm gần đây hoạt động nhập khẩu cũng trở nên quá manh mún, đến mức, không làm gì thì đi làm nhập khẩu (kể cả những doanh nghiệp ô tô). Việc mỗi doanh nghiệp chỉ nhập khẩu 2 chiếc ô tô/tháng thì không nói lên điều gì trong vấn đề giải quyết tăng thu ngân sách, công ăn việc làm, mà chỉ là mục đích thương mại thuần túy.
Việc doanh nghiệp ra đời và tham gia thị trường quá lớn với dung lượng tiêu thụ vừa phải, thì sự điều tiết lại là cần thiết. Đồng thời, chúng ta phải tiến tới giai đoạn có những nhà nhập khẩu phân phối bảo trì bảo dưỡng đảm bảo chất lượng, không chỉ sản phẩm mà còn dịch vụ hậu mãi, nhất là những mặt hàng không chỉ liên quan đến chính người sử dụng mà còn liên quan đến những người tham gia giao thông như ôtô.
- Còn các thủ tục hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện Thông tư 20, sẽ thực hiện thế nào, thưa ông?
Từ nay đến lúc thực hiện Thông tư (26/6), còn 1 tháng và hiện Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Ngoại giao để có hướng dẫn dối với các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài. Còn đối với các thủ tục hợp thức hóa lãnh sự, thủ tục xin giấy chỉ định hoặc ủy quyền của nhà phân phối, nhà sản xuất Bộ sẽ có hướng dẫn doanh nghiệp cụ thể.
Đây chỉ là những thủ tục đơn giản trong các qui định thương mại đối với sản phẩm được ủy quyền của chính hãng hoặc nhà phân phối của chính hãng.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người cao tuổi có bài Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai: Thấy oan, sao chưa sửa? Bài báo phản ánh: Nhiều cơ quan thẩm quyền có văn bản đề nghị cấp trên xem xét việc thi hành phần dân sự Bản án số 167/HSST ngày 25-11-1991 của TAND tỉnh Đồng Nai; Điều 50, Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 cũng điều chỉnh việc thi hành án này. Bởi lẽ...
Bản án số 520/HSPT ngày 18-6-1992 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP Hồ Chí Minh y án phần dân sự của Bản án số 167/HSST ngày 25-11-1991 của TAND tỉnh Đồng Nai đối với ông TQĐ ở TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai bồi thường cho Công ty Dịch vụ thương mại tổng hợp Đồng Nai giá trị của 29.138 kg gạo (được tính bằng tiền tại thời điểm thi hành án).
Tổ chức thi hành án (Quyết định số 77/THA -TA ngày 28-8-1992 của Chánh án TAND tỉnh Đồng Nai), Phòng Thi hành án tỉnh Đồng Nai (nay là Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai) có Văn bản số 146/THA ngày 25-12-2000 gửi Vụ 10 VKSND Tối cao và Cục quản lí Thi hành án Dân sự (Bộ Tư pháp): Xem xét các tình tiết vụ án mới phát sinh, với nội dung (trích):
"Các đương sự đưa ra 4 giấy nộp tiền do nhà hàng Hương Bình thuộc Công ty khách sạn ăn uống Đồng Nai trả cho HTX tín dụng thương nghiệp TP Hồ Chí Minh. Nhưng không được cơ quan điều tra, truy tố, xét xử công nhận, mặc dù cơ quan tín dụng thương nghiệp HTX công nhận là đã nhận được khoản tiền 84.500.000 đồng. Việc khẳng định cán bộ điều tra không đưa 4 phiếu thu của số tiền này vào để đối chiếu tiền tồn quỹ là có thật. Quá trình thi hành án các đương sự kêu oan và VKSND tỉnh Đồng Nai (Văn bản số 1004/KS-THA ngày 13-6-2006), Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai, Ban Nội chính Tỉnh ủy Đồng Nai, Thường trực HĐND tỉnh Đồng Nai đều có các công văn đề nghị Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao xem xét lại bản án theo trình tự tái thẩm."
Mới đây, ngày 1-4-2011, Công ty Cổ phần Du lịch Đồng Nai có Văn bản số 97/DLĐN, V/v xác nhận công nợ, gửi Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai, với nội dung: "Công ty không có ghi công nợ của ông TQĐ trong sổ sách kế toán của Công ty và từ trước đến nay cũng không yêu cầu thi hành theo Bản án hình sự số 520/HSPT ngày 18-6-1992 của Tòa án phúc thẩm TAND Tối cao tại TP Hồ Chí Minh. Kính đề nghị Cục thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai xem xét để ông TQĐ không thi hành án trên".
Như vậy, dấu hiệu của sự oan sai đã rõ ràng. Thế nhưng, các nội dung đề nghị trên vẫn chưa được xem xét, giải quyết!
Tại Điều 1, Quyết định số 206/TN ngày 31-5-1989 của Sở Thương nghiệp tỉnh Đồng Nai, có ghi: "Nay chuyển các nhà hàng, trạm đang thực hiện chế độ hạch toán báo sổ trực thuộc Công ty Khách sạn ăn uống dịch vụ thành các đơn vị hạnh toán kinh doanh XHCN (trong đó, có Nhà hàng Hương Bình (bao gồm Hương Bình 1 + Hương Bình 2) do ông TQĐ làm Giám đốc).
Ngày 30-12-1989, UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số 2729/QĐUBT, với nội dung: "Công ty Khách sạn ăn uống dịch vụ và 8 đơn vị trực thuộc công ty chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của sở Thương nghiệp"; trong đó, có Trung tâm dịch vụ ăn uống khách sạn Hương Bình, "chịu sự quản lí trực tiếp của Công ty Khách sạn ăn uống Dịch vụ...". Như vậy, Nhà hàng Hương Bình và Trung tâm dịch vụ ăn uống khách sạn Hương Bình, do ông TQĐ làm giám đốc đều chịu sự quản lí và chỉ đạo trực tiếp, toàn diện Công ty Khách sạn ăn uống Dịch vụ.
Đến năm 1992, Công ty khách sạn ăn uống Đồng Nai sáp nhập với Công ty Du lịch Đồng Nai thành Công ty Du lịch tỉnh Đồng Nai; đến năm 2006, Công ty Du lịch tỉnh Đồng Nai được đổi tên thành Công ty cổ phần du lịch Đồng Nai.
Như vậy, thực tế tại các đơn vị mà ông TQĐ đã công tác và làm giám đốc, như: Công ty Khách sạn ăn uống Dịch vụ, Nhà hàng Hương Bình và Trung tâm dịch vụ ăn uống khách sạn Hương Bình đều không chịu sự quản lí và chỉ đạo trực tiếp toàn diện của Công ty Dịch vụ thương mại tổng hợp Đồng Nai.
Tuy nhiên, tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 167/HSST ngày 25-11-1991 của TAND tỉnh Đồng Nai lại tuyên buộc "ông TQĐ phải liên đới bồi thường cho Công ty Dịch vụ thương mại tổng hợp Đồng Nai" là không có cơ sở, trái với thực tiễn khách quan của vụ án (về không gian vụ án không "mở rộng" đến địa điểm và không liên quan đến Công ty Dịch vụ thương mại tổng hợp Đồng Nai).
Có nhiều vấn đề vướng mắc pháp lí trong việc thi hành án Bản án Hình sự sơ thẩm số 167/HSST ngày 25-11-1991 của TAND tỉnh Đồng Nai.
Một là, Tại Điều 50, Luật Thi hành án Dân sự năm 2008, quy định: "Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong các trường hợp: Đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án". Theo quy định này, thì Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai đình chỉ thi hành án Bản án hình sự số 520/HSPT trên (đình chỉ thi hành phần dân sự Bản án số 167/HSST ngày 25-11-1991 của TAND tỉnh Đồng Nai).
Hai là, Khi bản án có vướng mắc pháp lí (Toà tuyên xử "nhầm" đối tượng được thi hành án), thì Phòng Thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai (nay là Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai) có văn bản yêu cầu Toà án giải thích bản án theo quy định của Luật Thi hành án. Nhưng, việc Toà tuyên xử "nhầm" đối tượng được thi hành án vẫn chưa được xem xét, giải quyết.
Rõ ràng, dấu hiệu án oan sai và Toà tuyên xử không khách quan. Việc cấp trên xem xét, giải quyết để đình chỉ thi hành án, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công dân TQĐ đang là vấn đề đặt ra.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Sở Tư pháp xác định ngày sinh của vị chủ tịch có hai ngày sinh. Bài báo phản ánh: Báo PLVN ngày 24/5/2011 đăng bài “Vị Chủ tịch có hai ngày sinh?” phản ánh nội dung đơn của một số người dân tỉnh Thái Nguyên về việc Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên – ông Đặng Viết Thuần có hai ngày, tháng sinh khác nhau.
Chúng tôi chưa khẳng định ông Đặng Viết Thuần man khai hồ sơ và đề nghị Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thái Nguyên và các ban ngành chức năng ở Trung ương sớm vào cuộc kiểm tra, làm rõ. Nếu đúng như đơn phản ánh, thì phải xử lý nghiêm người vi phạm; nếu không đúng thì nên sớm kết luận để trả lại sự trong sạch cho ông Đặng Viết Thuần.
Ngày 24/5/2011, chúng tôi đã có cuộc làm việc với Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thái Nguyên Nguyễn Văn Kim. Ông Kim cho biết chưa thể trả lời ngay vấn đề, bởi cần phải có thời gian kiểm tra xác minh sự việc. Tuy nhiên, ông Kim đã mời Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên – ông Đặng Viết Thuần sang trao đổi trực tiếp với phóng viên.
Ông Thuần cho biết, chuyện ông có hai ngày, tháng sinh khác nhau là do điều kiện khách quan, chứ ông không hề có ý định gian dối, man khai. Về vấn đề này, ông đã gửi hồ sơ đề nghị Sở Tư pháp Thái Nguyên xác định ngày sinh để thống nhất hồ sơ. Ngày 9/9/2011, Sở Tư pháp có Công văn số 1208 trả lời nội dung hồ sơ của ông Thuần thể hiện 2 ngày tháng năm sinh khác nhau.
Cụ thể: Tài liệu ghi ngày tháng năm sinh là 08/5/1955: Sổ bảo hiểm xã hội số 8100006400 do Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 6/5/2000; Chứng minh nhân dân số 090537507 do Công an tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 10/5/2007; Sơ yếu lý lịch do Ban Tổ chức Tỉnh ủy Thái Nguyên xác nhận ngày 26/8/2010.
Tài liệu ghi ngày tháng năm sinh 03/8/1955: Bằng tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân do Trường Đại học Kinh tế quốc dân cấp ngày 17/2/1990; Bằng tốt nghiệp Đại học Luật do Trường Đại học Luật Hà Nội cấp ngày 16/11/1998; Sau khi nghiên cứu hồ sơ do ông Đặng Viết Thuần xuất trình, Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên xét thấy:
Ông Đặng Viết Thuần nhập ngũ từ ngày 13/6/1974 tại C3D4E304 Bộ Quốc phòng, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 13/01/1981. Đến tháng 9/1982 chuyển ngành về công tác tại tỉnh Thái Nguyên. Tháng 12/1986 được cử đi học Đại học Kinh tế quốc dân đến năm 1990 tốt nghiệp và trở lại công tác tại tỉnh Thái Nguyên.
Năm 1994, ông Thuần tiếp tục được cơ quan cử đi học Đại học Luật (hệ tại chức) và Trường Đại học Luật Hà Nội cấp bằng tốt nghiệp vào tháng 11/1998. Như vậy, khi đi học Đại học Kinh tế quốc dân (hệ tập trung) và Đại học Luật (hệ tại chức), ông Đặng Viết Thuần thuộc đối tượng cán bộ được cử đi học.
Hồ sơ đi học của ông được lập trên cơ sở hồ sơ cán bộ do cơ quan quản lý công chức lập trên cơ sở hồ sơ cán bộ do cơ quan quản lý. Sau khi tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân, ông Đặng Viết Thuần được phân công công tác theo đúng chuyên ngành đào tạo trên cơ sở kết quả công nhận tốt nghiệp của Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Tiếp đó ông Thuần đi học Văn bằng 2 Đại học Luật trên cơ sở Văn bằng đại học thứ nhất là Bằng tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân. Do đó được Trường Đại học Luật công nhận tốt nghiệp cử nhân Luật đối với ông Đặng Viết Thuần – sinh ngày 03/8/1955.
Theo quy định của pháp luật về hộ tịch thì mỗi người chỉ duy nhất có một ngày tháng năm sinh làm căn cứ để thiết lập các hồ sơ, giấy tờ cá nhân cũng như cấp các văn bằng chứng chỉ được đào tạo. Các tài liệu thể hiện trong hồ sơ của ông Đặng Viết Thuần và quá trình công tác tại địa phương có đủ căn cứ xác định ngày tháng năm sinh của ông là ngày 03/8/1955. Để khắc phục tình trạng hồ sơ không thống nhất, ông Đặng Viết Thuần cần đến cơ quan quản lý hồ sơ để điều chỉnh thống nhất hồ sơ theo ngày tháng năm sinh là 03/8/1955.
3. Báo Dân trí có bài Công bố kết luận vụ giảng viên bị sinh viên tố “bán điểm ăn tiền”. Bài báo đưa tin: Ngày 26/5, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã công bố kết luận về nội dung sinh viên khoa Luật tố giảng viên Nguyễn Bá Diến “bán điểm ăn tiền”. Theo kết luận, có 2 nội dung được làm rõ với sai phạm thuộc về ông Diến và con trai ông.
Kết luận số 327/KL do GS.TS Phạm Hồng Thái - Chủ nhiệm Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội ký có nội dung: PGS.TS Nguyễn Bá Diến đã cho con trai là Nguyễn Hùng Cường không đủ tiêu chuẩn giảng viên dạy thay các lớp K53, PGS.TS Nguyễn Bá Diến đã vi phạm quy chế đào tạo về việc hỏi thi vấn đáp một số môn học thuộc bộ môn Luật quốc tế quản lý và việc PGS.TS Nguyễn Bá Diến nhận tiền “đi thầy” của sinh viên. Ngoài ra, kết luật số 327/KL cũng cho biết, việc cử nhân Nguyễn Hùng Cường đã một mình chấm thi viết môn Luật thương mại Quốc tế của lớp K52A là trái với khoản 1, điều 42 quy chế đào tạo ở ĐH Quốc gia Hà Nội. Việc PGS.TS Nguyễn Bá Diến và cử nhân Nguyễn Hùng Cường cùng tham gia giảng dạy môn Tư pháp Quốc tế tại lớp K53A và K53B nhưng người đứng tên ký sổ đầu bài và nhận tiền thanh toán là PGS.TS Nguyễn Bá Diến với mức thanh toán của chức danh PGS.TS là không phù hợp với thực tế.