Điểm tin báo chí sáng ngày 23 tháng 5 năm 2011

23/05/2011
Trong buổi sáng ngày 23/5/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Dân Việt có bài Tỷ lệ cử tri đi bầu cử đạt gần tuyệt đối. Bài báo đưa tin: Theo ông Nguyễn Sĩ Dũng - người phát ngôn của Tiểu ban Tuyên truyền của Hội đồng bầu cử T.Ư, đến 19 giờ 30 tối qua (22.5), tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu cả nước tạm tính là 97,10%.

Các tỉnh có tỷ lệ cử tri đi bầu trên 99% là 21 tỉnh. 29 tỉnh có tỷ lệ từ 95-99%. Tỉnh có tỷ lệ cao nhất là Thừa Thiên - Huế với 99,95%; Bến Tre 99,94%; Bình Định 99,94; Hà Giang 99,78%. Các tỉnh khác cũng có tỷ lệ cử tri đi bầu cao là Gia Lai 90%, Hải Dương 91%, Thái Bình 92%...

Ông Dũng cho biết, theo quy định, các điểm bỏ phiếu sẽ kết thúc việc bỏ phiếu lúc 19 giờ. Tuy nhiên, ở những khu vực chưa đủ 100% cử tri đi bầu thì tổ bầu cử có thể quyết định kéo dài thời gian nhưng không quá 22 giờ đêm. Tuy nhiên, với những số liệu tạm tính đó, ông Dũng cho rằng, “cuộc bầu cử đã diễn ra thuận lợi và thành công tốt đẹp”.

Cũng theo ông Dũng, công tác kiểm phiếu sẽ được tiến hành ngay sau khi việc bỏ phiếu kết thúc. Các bước tiến hành bao gồm niêm phong hòm phiếu và mời 2 cử tri làm chứng. Việc kiểm phiếu diễn ra ngay trong đêm 22.5 cho đến khi hoàn thành. Nếu không hoàn thành có thể lùi lại vào sáng nay 23.5.

Báo cũng có bài Báo chí thế giới viết về bầu cử ở Việt Nam. Bài báo đưa tin: Sự kiện chính trị trọng đại của Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm của nhiều hãng thông tấn, tờ báo lớn trên thế giới như AFP, AP, Bloomberg News, Financial Times…

Hãng thông tấn AFP đã đưa tin khá chi tiết về cuộc bầu cử ở Việt Nam. AFP dẫn lời một cử tri cho biết, “người dân Việt Nam rất phấn khởi, hào hứng và chờ đợi cuộc bầu cử”. Trong khi đó, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Nguyễn Phương Nga, nói rằng, cuộc bầu cử là một sự kiện chính trị lớn đối với người dân Việt Nam.

Bloomberg, tờ báo có thế mạnh về tin tức tài chính và kinh tế của Mỹ cũng đã đưa tin về cuộc bầu cử Việt Nam, đồng thời ca ngợi sự ổn định chính trị của Việt Nam. Trên trang web của Bloomberg có đoạn: “Trong số 827 ứng cử viên Quốc hội thì có 117 người ngoài Đảng, có 15 người tự ứng cử”. Tờ báo này trích nhận xét của Moody’s cho biết, sự ổn định về mặt chính trị của Việt Nam là kết quả của đất nước ngày càng giàu hơn, triển vọng việc làm tốt hơn và nền kinh tế ngày càng mở hơn.

Tờ Financial Times đã mở đầu bài viết của mình bằng việc nói đến một trong những ứng cử viên tự ứng cử là ông Nguyễn Quang Huân, một doanh nhân 47 tuổi người Hà Nội. Ông quyết tâm vì ông nhận thấy mức độ độc lập cao được thể hiện trong Quốc hội Việt Nam trong nhiệm kỳ 4 năm vừa qua.

Tờ Financial Times nhận xét, cuộc bầu cử Quốc hội ở Việt Nam ngày càng có tính chất cạnh tranh cao.

2. Báo VnEconomy có bài Tập đoàn kinh tế nhà nước: Nắm gì, buông gì? Bài báo phản ánh: Chúng ta đang tiếp cận vấn đề cực kỳ phức tạp. Bức tranh tập đoàn trên cơ sở thí điểm 12 doanh nghiệp đang tồn tại cả những điểm lấp lánh cũng như lấp khuất, được dư luận xã hội quan tâm, TS. Hoàng Chí Bảo, Chủ nhiệm đề tài “Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước” lưu ý như vậy trong phần khai mạc một hội thảo về vấn đề này vừa được tổ chức tại Hà Nội.  Không phải ngẫu nhiên, các vấn đề liên quan đến tập đoàn kinh tế nhà nước lại được nhắc đến khá thận trọng. Nhiều ý kiến tại hội thảo thẳng thừng nói rõ, sau khi xảy ra “vấn đề Vinashin”, dư luận đã có những đánh giá, nhìn nhận phần nào lệch lạc, cực đoan, và gần như phủ nhận vai trò của tập đoàn kinh tế nhà nước.

Vì sao có nhiều ưu đãi, nhiều cơ hội tiếp cận những nguồn lực khan hiếm, cơ chế cởi mở nhưng hiệu quả sinh lợi không tương xứng tiềm lực ấy từ các tập đoàn hiện nay? Có lãi giả lỗ thật hay không? Đổ vỡ thì trách nhiệm vừa qua như thế nào với các lãnh đạo tập đoàn? Vấn đề độc quyền nhà nước, độc quyền doanh nghiệp nên nhìn nhận thế nào? Hàng loạt câu hỏi được vị chủ tọa đặt ra để cùng thảo luận, nhưng gom lại chỉ nằm ở vấn đề nên buông gì, nắm gì đối với các tập đoàn. Ở điểm này, không phải lúc nào cũng có sự thống nhất về quan điểm, ngay cả trong nhóm các nhà nghiên cứu. Chỉ một chuyện đơn giản, thế nào là tập đoàn cũng đưa đến nhiều suy luận khác nhau. Tập đoàn có là vốn lớn, là chiếm vị thế chi phối ngành và dẫn dắt “cuộc chơi”? Cách hiểu như thế này hiện nay vẫn đang tồn tại, hệ quả là ở một số nơi doanh nghiệp đã nhanh chóng phình to cả về quy mô vốn và lĩnh vực tham gia, để “lên trình” thành tập đoàn.

Sau phần thảo luận kể trên, nhiều diễn giả chuyển hướng đến một vấn đề khác: tập đoàn nên buông gì và nắm gì để đảm bảo vừa chi phối được ngành, lĩnh vực với ý nghĩa tập trung sức mạnh, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Bùi Trường Giang lưu ý trường hợp những tập đoàn sản xuất hàng tiêu dùng cần nhiều lao động, gia công là chính và doanh nghiệp tư nhân có thể hoạt động tốt thì không nhất thiết phải xây dựng tập đoàn kinh tế nhà nước chi phối thị phần ngành này. Phân tích các trường hợp cụ thể, ông Đình nêu những lập luận rất đáng chú ý. Chẳng hạn với vai trò bảo đảm nguồn cung điện cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế, Tập đoàn Điện lực (EVN) đang chi phối gần như toàn bộ thị trường truyền tải và phân phối điện.

Với các tập đoàn trong các lĩnh vực xây dựng, dệt may, trồng và khai thác chế biến cao su, đầu tư bất động sản, ông Đình dẫn quan điểm cho rằng điều này không thực sự cần thiết. Lý do là những ngành nghề kinh doanh vừa nêu đã có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đang kinh doanh khá hiệu quả. Đây lại cũng không phải là những ngành có vai trò then chốt.

Liên quan đến chuyện buông và nắm nhưng ở vai trò quản lý nhà nước với các tập đoàn, quan điểm khác lại tỏ ra e ngại sự kiểm soát dường như quá chặt của nhà nước đối với các tập đoàn, làm khó doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và cạnh tranh.

Phó viện trưởng Trường Giang lưu ý rằng trường hợp của Tập đoàn Điện lực vừa phải làm kinh doanh nhưng làm quá nhiều nhiệm vụ chính trị xã hội nên trong hoạt động đang chịu nhiều sức ép. Hay với Vinashin, dù doanh nghiệp này được đổ nhiều vốn, được cho hưởng những cơ chế thuận lợi nhưng can thiệp cũng mạnh mẽ, khiến lãnh đạo doanh nghiệp này khó độc lập theo nghĩa doanh nghiệp làm kinh tế. Ông Trường Giang đề xuất tiêu chí nắm và buông đối với các tập đoàn cần chú trọng đến ổn định hệ thống, gồm cả chính trị và kinh tế vĩ mô; và đảm bảo cam kết tham gia. “Quan điểm của tôi là tập đoàn không phải chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn là  thị phần, là chiếm được các nguồn lực gì trên thế giới trong môi trường cạnh tranh hiện nay”, ông Giang nói.

3. Trang VEF.VN có bài Nói và Làm: Bất ổn cách… bình ổn giá. Bài báo phản ánh: Bình ổn giá là chương trình rất nhân văn của Nhà nước nhằm hỗ trợ người dân trong lúc lạm phát khiến người tiêu dùng điêu đứng. Nhưng dường như, một số mặt hàng bình ổn giá lại đang rất... bất ổn.

Trong khi lạm phát đang là mối đe dọa lớn tới chất lượng đời sống của người dân thì Chính phủ đã và đang chủ động bám sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước để chỉ đạo chương trình bình ổn giá nhằm "kìm" mức giá của nhiều mặt hàng. Thực hiện điều đó, việc chống tăng giá đã được triển khai khá quyết liệt. Thậm chí nhà nước đã chấp nhận chịu thiệt để giữ và chưa tăng giá một số mặt hàng; bỏ tiền để bình ổn giá những mặt hàng thiết yếu, kêu gọi các DN và nhà phân phối cùng có trách nhiệm bình ổn giá cả.

Quyết tâm của Chính phủ là như vậy, nhưng thực thi thì vẫn còn nhiều khó khăn. Mới đây, cuộc họp về sản xuất và kinh doanh đường đã bộc lộ một bất cập lớn trên thị trường nay. Trong lúc các nhà máy đang tồn kho rất nhiều và đã đã giảm giá bán xuống mức 16.000 - 18.000 đồng/kg, chấp nhận giảm lãi xuống mức thấp nhất. Đây là cơ hội để giảm giá đường sau một cơn sốt giá từ năm ngoái kéo dài đến nay. Thế nhưng, giá bán lẻ mặt hàng này lại không giảm mà vẫn ngất ngưởng ở mức 26.000 - 28.000 đồng. Nhà sản xuất và người tiêu dùng bức xúc nhưng nhà phân phối và cơ quan quản lý vẫn chưa có hồi âm. Trong khi đó, đường nhập lậu từ các nước vẫn tràn về Việt Nam vì giá trong nước quá cao, họ có thể kiểm lời rất lớn.

Trong khi đó, nửa đầu tháng 5, giá gas trên thế giới đã có dấu hiệu giảm thì các hàng gas trong nước vẫn hai lần tăng giá. Thậm chí, nhìn lại quá trình liên tục tăng giá 7 lần trong 4 tháng đầu năm mới thấy khủng khiếp mà các loại năng lượng khác như xăng dầu và điện dù có tăng giá chẳng thể so bì. Các chuyên gia bức xúc trước việc tăng giá vô lý của các hãng gas một phần nhưng phần nữa cũng bức xúc vì họ không thể làm chủ hệ thống phân phối của mình khiến giá cả bị thả nổi cho đại lý. Còn quản lý nhà nước đối với mặt hàng này lại quá lỏng so với xăng dầu.

Mặt hàng sữa dù đã đưa vào diện quản lý đăng ký giá nhưng từ đầu năm đến nay, người ta vẫn ghi nhận hàng loạt lần điều chỉnh giá của các hãng mặc dù cơ quan quản lý cho biết không nhận được thông báo đăng ký và chấp thuận tăng giá.

Các DN nhỏ và tự do kinh doanh, quyết định giá đã thế nhưng các DN lớn, bị quản lý chặt như đầu mối xăng dầu mới đây cũng liên tục đề xuất xin tăng giá và bày ra đủ lý do để sớm được chấp thuận. Chỉ đến khi cơ quan quản lý dứt khoát "nói không với tăng giá" thì những đòi hỏi ấy mới tạm dứt.

Thời khó khăn do lạm phát, giá cả tăng và thị trường rối loạn là một thực tế lo ngại đe doạ đời sống người dân và ổn định xã hội. Nhưng việc ổn định giá sẽ khó thành nếu ai cũng chỉ vì kiếm lợi cao nhất cho mình như trên mà quên đi lợi ích chung. Chống tăng giá, bên cạnh những nỗ lực của nhà nước rất cần sự tham gia của các DN và sự đồng thuận của toàn xã hội. Bên cạnh đó, cần xây dựng một hệ thống pháp lý để kiểm soát tốt và cả một thị trường cạnh tranh để đảm bảo kiềm chế lẫn nhau thì chống tăng giá mới mong có hiệu quả.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Thanh niên Online có bài Đề xuất bỏ công chứng hợp đồng mua bán nhà. Bài báo phản ánh: Đề xuất bãi bỏ thủ tục công chứng đối với 7 loại hợp đồng về nhà ở của Bộ Xây dựng đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, với những luồng ý kiến trái chiều.

Bộ Xây dựng đã có văn bản gửi Bộ Tư pháp đề xuất những nội dung sửa đổi Luật Nhà ở nhằm đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan. Trong đó, Bộ Xây dựng đề nghị sửa đổi khoản 3 Điều 93 theo hướng không bắt buộc phải công chứng, chứng thực đối với 7 loại hợp đồng (HĐ) gồm: mua bán nhà ở, đổi nhà ở, tặng cho nhà ở, thế chấp nhà ở, thuê mua nhà ở, thuê nhà ở của tổ chức có chức năng kinh doanh bất động sản, thuê nhà ở của cá nhân và hộ gia đình có thời hạn cho thuê dưới 6 tháng.

Giáo sư Đặng Hùng Võ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường - đã bày tỏ sự ủng hộ đề xuất của Bộ Xây dựng. Theo GS Võ, các văn phòng công chứng là cơ quan giúp người dân thực hiện đúng tất cả những quy định pháp lý đối với những HĐ, giao dịch có giá trị lớn, trong đó có bất động sản, hẹp hơn nữa là nhà ở. Công chứng HĐ về nhà ở có cái lợi lớn nhất là hạn chế rủi ro cho các bên tham gia giao dịch. Tuy nhiên, cái bất lợi là thêm thủ tục. Hiện có 2 cơ quan tham gia quá trình thực hiện hợp đồng nhà đất là công chứng và văn phòng đăng ký nhà đất. Nếu chúng ta quan niệm tất cả HĐ còn có thủ tục đăng bộ tại cơ quan quản lý chuyên ngành thì có lẽ bãi bỏ công chứng là được, không nhất thiết phải có hai cơ quan đảm trách việc này như hiện nay. Công chứng không thể làm được việc đăng bộ vì đây là chuyên ngành, tốt nhất là giao cho cơ quan chuyên ngành nhưng phải bắt buộc cơ quan quản lý phải có trách nhiệm giúp người dân xác nhận tính pháp lý của HĐ, tránh rủi ro do tính không phù hợp với pháp luật của HĐ gây ra.

“Tôi ủng hộ đề xuất của Bộ Xây dựng nhưng cơ quan quản lý phải làm thêm phần việc của công chứng”, ông Võ bày tỏ. Về vấn đề phải điều chỉnh, sửa đổi các luật liên quan, ông Võ cho rằng điều này không quá khó, nếu quyết tâm thì sẽ làm được.

Luật sư Bùi Quang Nghiêm - Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM - cũng đồng tình với đề xuất của Bộ Xây dựng. Ông Nghiêm cho rằng về cơ bản cả hai công tác công chứng và đăng bộ đối với thủ tục nhà đất đang làm những công việc tương tự, chồng chéo nhau. Đó là đều kiểm tra tình trạng pháp lý của giấy tờ, tình trạng nhân thân, ý chí của các bên mua bán... “Do đó, tôi cho rằng nên xem xét bỏ một trong hai công đoạn trên sẽ giúp đơn giản hóa đáng kể thủ tục, rút ngắn thời gian cũng như chi phí cho người dân”, ông Nghiêm nói.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng đề xuất này không khả thi, thậm chí sẽ dẫn tới việc triệt tiêu tính “phòng hờ” của hoạt động công chứng và nảy sinh nhiều hệ lụy, tăng rủi ro cho các bên tham gia giao dịch.

Ông Chu Văn Khanh - Trưởng văn phòng công chứng A1 (Hà Nội) - nói: “Giao dịch nhà đất là loại giao dịch tài sản lớn, nếu không có sự phòng hờ, khi xảy ra sai sót sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của cá nhân hoặc tổ chức tham gia thực hiện giao dịch”. Ông Khanh cũng cho rằng hiện dịch vụ công chứng đã phát triển, việc thực hiện công chứng khá thuận lợi và nhanh chóng, nếu có đầy đủ hồ sơ hợp lệ có thể giải quyết xong ngay, thậm chí chỉ trong vòng 1 ngày. Khâu công chứng vì vậy cũng không phải là thủ phạm chính gây ra sự chậm trễ trong quá trình cấp sổ đỏ cho người dân và các tổ chức, doanh nghiệp. Ông Khanh lưu ý một khó khăn nữa để thay đổi quy định liên quan đến công chứng HĐ mua bán nhà là cùng lúc sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều luật như: Luật Công chứng, Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Bộ luật Dân sự.

Ông Nguyễn Quang Thắng - Trưởng phòng Công chứng số 1 TP.HCM nói: “Bộ Tư pháp còn đặt ra cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, thì hà cớ gì lại phải bỏ qua công chứng khi giao dịch? Nếu không có cơ quan này rủi ro sẽ rất cao, ngành tòa án sẽ chịu áp lực rất lớn vì  không có người để giải quyết tranh chấp”.

2. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Lúng túng xử lý chủ doanh nghiệp bỏ trốn. Bài báo phản ánh: Thời gian gần đây, không ít chủ doanh nghiệp là người nước ngoài bỏ trốn, nợ lương công nhân, nợ BHXH, nợ tiền mặt bằng, máy móc. Do là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nên việc xử lý rất khó khăn, phức tạp khiến quyền lợi người lao động, các đơn vị, cá nhân cho thuê mặt bằng, thiết bị máy móc vẫn chưa được giải quyết. Việc giải quyết quyền lợi cho các bên liên quan hiện nay đang khiến cho các cơ quan quản lý nhà nước lúng túng.

Một số vụ việc gần đây đã gióng lên hồi chuông báo động. Mới đây, Sở LĐTB-XH chủ trì cuộc họp với các sở ngành liên quan để tìm hướng giải quyết nhưng phương án vẫn mù mịt. Đại diện Sở Tài chính TPHCM cho rằng, nếu chậm xử lý tài sản do chủ doanh nghiệp bỏ trốn sẽ bị mất giá. Các sở, ngành cho rằng nên thành lập tổ hoặc hội đồng xử lý các vấn đề có liên quan đối với chủ doanh nghiệp bỏ trốn. Tuy nhiên, những trường hợp này không chỉ liên quan đến quyền lợi người lao động, mà còn liên quan đến các bạn hàng; cá nhân, đơn vị cho doanh nghiệp thuê mặt bằng khi doanh nghiệp bỏ trốn, tài sản bị niêm phong ngay trên diện tích đất của họ khiến họ cũng chịu thiệt thòi.

Theo đại diện Sở Tư pháp, phương án thành lập tổ, hội đồng xử lý tài sản chủ doanh nghiệp bỏ trốn chưa chắc chắn vì liên quan đến người nước ngoài. Mặt khác nếu đem số tài sản này đi bán là không nên nhất là về mặt ngoại giao. Đại diện Sở Tư pháp đưa ra hai phương án xử lý. Một là tuyên bố phá sản doanh nghiệp, tuy nhiên thủ tục của phương án này rất phức tạp. Hai là tiếp tục hướng dẫn người lao động, người cho thuê mặt bằng khởi kiện.

Một phương án được cho là khả thi nhất được đưa ra chính là các sở ngành tham mưu UBND TPHCM xin… ý kiến Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý khi chủ doanh nghiệp bỏ trốn!

Báo cũng có bài Nợ bảo hiểm xã hội - Phải xử lý hình sự. Bài báo phản ánh: Đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) vừa giải quyết vấn đề an sinh xã hội, vừa là quyền lợi trực tiếp của người lao động. Thế nhưng, không ít doanh nghiệp thường xuyên nợ BHXH hay nói cách khác là chiếm dụng tiền BHXH của người lao động đã đóng trong khi chế tài pháp luật chưa đủ mạnh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.

Phân tích thực trạng nợ BHXH hiện nay, nhiều chuyên gia về lao động cho rằng chính kẽ hở của pháp luật, trong đó biện pháp chế tài xử phạt hành vi trốn đóng, chậm đóng BHXH áp dụng ở mức thấp, cộng thêm thực tế lãi suất nợ BHXH thấp hơn lãi suất ngân hàng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm. Thay vì phải đóng khoản tiền tham gia BHXH lên đến hàng trăm triệu đồng, nhiều doanh nghiệp chấp nhận vi phạm, chịu xử phạt hành chính ở mức cao nhất (30 triệu đồng) và trả lãi suất nợ BHXH. Theo ông Nguyễn Đăng Tiến, cần phải xử lý hình sự đối với các chủ sử dụng lao động nợ BHXH.

Trước hết cần phải xác định hành vi của doanh nghiệp nợ BHXH hiện nay thực chất là chiếm dụng tiền của người lao động và nghiêm trọng hơn là chiếm dụng tiền ngân sách. Nếu nhìn nhận việc không đóng, đóng chậm hay đóng thiếu BHXH như là một hình thức chiếm dụng vốn, rõ ràng ở đây chỉ có trốn hoặc chiếm đoạt chứ không thể coi đó là nợ BHXH và cũng không thể xem là quan hệ kinh tế hay dân sự thuần túy. Vì quan hệ vay - nợ là quan hệ có thỏa thuận, có người cho vay thì mới có người nợ.

Còn đối với BHXH, pháp luật đã quy định người sử dụng lao động chủ động trích 6% và người sử dụng lao động có nghĩa vụ phải đóng 16% tiền lương hàng tháng của người lao động cho BHXH. Do vậy có thể khẳng định người sử dụng lao động đã cố tình chiếm dụng vốn, bỏ qua các quyền lợi của người lao động để trục lợi chứ không thể gọi là nợ (vì người lao động không cho vay). Về phía cơ quan BHXH, cũng không có quyền cho doanh nghiệp hoặc người sử dụng lao động nợ BHXH (vì đó là quyền lợi của người lao động). Chính vì vậy, cần có quan niệm khác về nợ BHXH, cũng như có cái nhìn, thái độ nghiêm khắc hơn với hành vi không đóng BHXH.

Nhưng cái khó nhất trong việc xử lý hành vi trên là hiện trong Bộ luật Hình sự chưa quy định tội danh liên quan đến BHXH. Có ý kiến cho rằng đây là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản công dân. Hành vi này hoàn toàn có thể được xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Báo Tin tức có bài Nâng cao tính sát thực và hiệu quả của các văn bản pháp luật. Bài báo phản ánh: Công tác lập pháp ở Việt Nam nhìn chung còn thiếu sự tham gia thỏa đáng của công chúng vào quá trình xây dựng chính sách, chưa thực hiện đầy đủ việc tham vấn công chúng và thiếu công cụ phân tích chính sách khoa học để đảm bảo luật, đáp ứng được nhu cầu của người dân, sự phát triển bền vững của xã hội. Đây là vấn đề được các chuyên gia phản ánh tại Hội thảo “Quy định tốt hơn để phát triển bền vững”, tổ chức sáng 19/5, tại Hà Nội.

Theo TS Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, thực tế hiện nay là các văn bản quản lý Nhà nước ngày càng nhiều. Điều này phản ánh sự can thiệp của Nhà nước vào mọi khía cạnh, lĩnh vực kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, đáng lưu tâm là tổ soạn thảo văn bản pháp luật thường xây dựng dự thảo văn bản mà chưa hiểu biết đầy đủ về phương pháp xác định vấn đề, phương án chính sách, cân đối lợi ích – chi phí của từng phương án và phương án tối ưu để giải quyết một vấn đề cụ thể. Từ đó, nhiều quy định thiếu thực tiễn, không hiệu quả khi triển khai, gây lãng phí cho nguồn lực của Nhà nước và chi phí của người dân, doanh nghiệp.

Theo chuyên gia Scott Jacobs, Cố vấn thể chế cấp cao của Dự án USAI/VNCI, để một văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng tốt, việc lập báo cáo tác động (RIA) đối với xã hội, dân cư, doanh nghiệp… là quan trọng nhất. Đây có thể coi là linh hồn của quy trình làm luật hay một quy định của cơ quan quản lý.

4. Báo Lao độngbài Xử lý trách nhiệm người soạn thảo văn bản trái luật. Bài báo đưa tin: UBND tỉnh Ninh Thuận vừa có CV số 1802/UBND-NC gửi các sở: Tài nguyên và Môi trường, Tư pháp, Tài chính, Nội vụ tỉnh Ninh Thuận, yêu cầu “khẩn trương rà soát, tham mưu sửa đổi bổ sung các quyết định của UBND tỉnh có dấu hiệu trái pháp luật theo kết luận của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), Bộ Tư pháp nhằm  đảm bảo tính hợp pháp, hợp hiến, phù hợp theo quy định hiện hành”. Tại CV này, UBND tỉnh cũng yêu cầu: “Xem xét, xử lý trách nhiệm các cán bộ, công chức có liên quan trong công tác tham mưu soạn thảo, ban hành các văn bản (có dấu hiệu trái pháp luật) theo quy định. Báo cáo kết quả cho UBND tỉnh trong tháng 6.2011”. Theo báo cáo kết quả kiểm tra văn bản trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận của Cục Kiểm tra VBQPPL, từ 2006 đến 31.12.2010, UBND tỉnh Ninh Thuận đã ban hành 96 văn bản, trong đó phát hiện 2 văn bản có nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật và một số văn bản sai sót về thể thức và kỹ thuật trình bày.

Động thái này của UBND tỉnh Ninh Thuận đã được cục Kiểm tra VBQPPL đánh giá cao. Như Báo LĐ đã đưa tin, từ cuối tháng 9.2010, cục này đã có CV “đôn đốc thực hiện thông báo văn bản có dấu hiệu trái pháp luật” gửi 7 bộ và UBND 13 tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư do các cơ quan này chậm xử lý văn bản có dấu hiệu trái luật.



File đính kèm