Điểm tin báo chí sáng ngày 09 tháng 5 năm 2011

09/05/2011
Trong buổi sáng ngày 09/5/2011, một số báo chí đã có bài phản ánh những sự kiện nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:

1. Báo Người lao động phản ánh: Ngày 8-5, VKSND Tối cao cho biết vừa nhận được kết luận điều tra vụ án hình sự của Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Công an tỉnh Quang Ninh cùng đề nghị VKSND cùng cấp truy tố 38 đối tượng về hành vi thông đồng, cấu kết khai thác trái phép trên 28.000 tấn than tại Công ty TNHH một thành viên Than Mạo Khê (Tập đoàn Than, Khoáng sản Việt Nam - Vinacomin), đóng ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Theo kết luận điều tra, trong dịp Tết Nguyên đán Canh Dần 2010, nhiều đối tượng bên ngoài đã dùng máy móc, thiết bị như máy xúc, ô tô tải vào khai thác, vận chuyển than trái phép tại 13 điểm thuộc quyền quản lý của Công ty Than Mạo Khê. Trong khi đó, lực lượng bảo vệ của Công ty Than Mạo Khê có hơn 100 người nhưng đã không thực hiện các biện pháp ngăn chặn. Kết quả giám định của Sở Tài nguyên - Môi trường và Sở Tài chính tỉnh Quảng Ninh cho thấy số lượng than bị khai thác trái phép trị giá trên 16,6 tỉ đồng.

2. Báo Thanh niên phản ánh: Tình hình đăng ký dự thi vào các trường ĐH-CĐ năm 2011 có nhiều điểm tích cực nhưng cũng không ít quan ngại. Thí sinh dường như biết tự lượng được sức học nên đã đăng ký vào những trường đúng tầm vì vậy năm nay hồ sơ dự thi của các trường ĐH có mức điểm trúng tuyển trung bình và trường CĐ tăng cao. Ngoài ra, thí sinh tỉnh không dồn về các thành phố trung tâm nữa mà chịu chọn trường địa phương, gần nhà. Đây là những dấu hiệu đáng mừng. Tuy vậy, xu hướng chọn ngành nghề vào đời của thí sinh những năm gần đây lại đặt ra nhiều vấn đề. Tâm lý thích chạy theo đám đông, chọn ngành nhẹ nhàng - thu nhập cao (chứ chưa hẳn ngành xã hội cần) càng trở nên phổ biến.

Theo các chuyên gia tư vấn nghề nghiệp, những yếu tố quan trọng để quyết định chọn một ngành nghề cho tương lai là phải thích và phù hợp. Trong các thắc mắc về ngành nghề của thí sinh mà chúng tôi nhận được, phần nhiều là các câu hỏi kiểu ngành nào ra trường dễ kiếm việc làm, thu nhập cao. Xu hướng “dễ hóa” trong việc lựa chọn ngành nghề của thí sinh cũng dẫn đến tình trạng một số ngành nghề, đặc biệt khối kỹ thuật, nhu cầu tuyển dụng rất cao nhưng thí sinh không muốn vào do ngại khó, ngại khổ. PGS-TS Huỳnh Thanh Hùng, Phó hiệu trưởng trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, cho biết: “Những ngành cơ khí, điều khiển tự động, công nghệ nhiệt lạnh ít thí sinh đăng ký một phần do các em ngại khổ”. Cũng trong tình cảnh tương tự là những ngành nghề thuộc khoa học cơ bản, xã hội và sư phạm. Xu hướng những năm gần đây là thí sinh thường chọn vào các ngành thuộc khối kinh tế.

Bức tranh lựa chọn ngành nghề của thí sinh hiện nay khiến nhiều người lo ngại cho lực lượng lao động tương lai. Thường người ta không thể làm tốt những gì mà mình không thích, điều này càng đúng trong lĩnh vực nghề nghiệp.

3. Báo Dân Việt phản ánh: Chiều 8.5, Hội nghị Cấp cao ASEAN-18 đã bế mạc sau hai ngày làm việc khẩn trương và tích cực. Hội nghị đã nhất trí với ba tuyên bố chung về Cộng đồng ASEAN trong cộng đồng các quốc gia toàn cầu. Hội nghị nhất trí thiết lập Viện ASEAN vì hòa bình và hòa giải, và tăng cường hợp tác chống nạn buôn người ở Đông Nam Á.

Trước đó, khi thảo luận về vấn đề mở rộng Cấp cao Đông Á (EAS), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các nhà lãnh đạo cho rằng, bên cạnh 5 lĩnh vực ưu tiên hiện nay là xây dựng đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA), tài chính, giáo dục, năng lượng, quản lý thiên tai và phòng chống cúm gia cầm, EAS cũng cần bàn về các vấn đề chiến lược quan trọng liên quan đến hòa bình, an ninh khu vực để góp phần tạo dựng và bảo đảm môi trường hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực, gắn kết các đối tác lớn, như Nga và Mỹ, cùng tham gia thực hiện các trọng tâm, ưu tiên của ASEAN. Cơ chế hợp tác Cấp cao Đông Á (EAS) là một diễn đàn gồm các quốc gia ở châu Á được các lãnh đạo của 16 quốc gia Đông Á và khu vực lân cận tổ chức, trong đó Khối ASEAN là trung tâm. Nga đã đệ đơn làm thành viên của khối vào năm 2005 và đang tham dự với tư cách là quan sát viên. Cũng tại hội nghị, các nhà lãnh đạo đã đồng ý trên nguyên tắc đề nghị của Myanmar đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN vào 2014.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Khoảng 15 giờ chiều 8-5, một tàu du lịch đã bị đâm chìm trên vịnh Hạ Long. Một nhân chứng cho biết chiếc tàu du lịch của Công ty Hải Long bị chìm ở khu vực neo tàu hang Sửng Sốt, cách đảo Ti Tốp chừng 300 m. Nguyên nhân tàu du lịch bị chìm là do bị một tàu tiếp nước đâm trúng khiến thân tàu vỡ toác. Ngay sau khi sự cố xảy ra, nhiều tàu khác đã đưa xuồng và người tới hỗ trợ. Đến 17 giờ cùng ngày, chưa có báo cáo thiệt hại nào về người do lúc xảy ra tai nạn, du khách trên tàu đang lên thăm hang Sửng Sốt. Chiếc tàu bị chìm theo đăng kiểm có 14 cabin với tám thủy thủ. Số lượng khách trên tàu chưa được thống kê chính xác.

Ông Đặng Huy Hậu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, cho biết hiện CSGT đường thủy cùng Ban Quản lý vịnh Hạ Long đã có mặt tại hiện trường để tìm hiểu nguyên nhân và giải quyết sự cố.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:

1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Qui chế bán đấu giá QSDĐ của tỉnh Quảng Nam “phạm quy“. Bài báo phản ánh: Ông Lê Hồng Sơn (Cục trưởng Cục Kiểm tra Văn bản qui phạm pháp luật – Bộ Tư pháp) cho biết, Cục đã có công văn thông báo với UBND tỉnh Quảng Nam về những qui định chưa phù hợp với qui định pháp luật của Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn tỉnh.

Đối chiếu với qui định tại điều 20 Nghị định 17/2010/NĐ-CP, điều 12 Thông tư số 23/2010/TT-BTP, qui định tại Điều 7 Quy chế này là không phù hợp. Bởi, theo các qui định hiện hành, nếu tài sản nhà nước có giá trị lớn, phức tạp và tài sản là QSDĐ có giá trị lớn, phức tạp thì Hội đồng Bán đấu giá tài sản (BĐGTS) trong trường hợp đặc biệt được thành lập để thực hiện việc BĐG. Hơn nữa, khoản 3 điều 12 Thông tư số 245/2009/TT-BTC qui định, tài sản nhà nước có giá trị lớn, phức tạp hoàn toàn khác với tài sản Nhà nước có giá trị lớn được đưa ra trong Qui chế.

Hiện cũng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc xác định giá trị lớn, phức tạp với tài sản là QSDĐ (trừ tài sản là QSDĐ đã nêu trong khoản 3 điều 12 Thông tư 245/2009) có giá trị lớn, phức tạp. Việc xác định tài sản là QSDĐ có giá trị lớn, phức tạp để thành lập Hội đồng BĐGTS trong trường hợp đặc biệt sẽ được qui định trong Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp với các cơ quan hữu quan (đang trong quá trình soạn thảo). Từ đó, có thể thấy, qui định tại khoản 2 điều 7 quy chế về việc xác định tài sản là QSDĐ có giá trị lớn, phức tạp là không có căn cứ pháp lý. Bên cạnh đó, qui định về việc xử lý tình huống trong đấu giá QSDĐ “cũng chưa phù hợp với qui định tại Nghị định 17/2010”. Cục Kiểm tra VBQPPL nhận thấy, tại điểm a khoản 3 điều 12 Qui chế cho phép “tổ chức đấu giá tiếp giữa những người trả giá liền kề, để chọn ra người trúng đấu giá QSDĐ” trong khi khoản 1 điều 39 Nghị định 17/2010 lại qui định với những trường hợp như vậy, “đấu giá viên sẽ tổ chức bốc thăm để chọn ra người mua được tài sản đấu giá”. Ông Sơn khẳng định, “những “sai sót” trong qui chế này cần được xem xét, xử lý trong thời gian luật định (30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Cục Kiểm tra VBQPPL) cho phù hợp với các qui định hiện hành, đảm bảo tính hợp pháp của văn bản”.

Báo cũng có bài “Vẫn chậm trễ thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp”. Bài báo phản ánh: 5 năm qua, việc thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp (CCTP) đến năm 2020 tại  các địa phương và các cơ quan hữu quan ở trung ương đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,  phát huy được nhiều tác dụng tích cực. Tuy nhiên, một số yêu cầu về CCTP vẫn chưa thực sự được giải quyết thấu đáo…

Từ tháng 5/2005 đến nay, Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã thông qua hàng chục văn bản quy phạm pháp luật, tạo lập cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện CCTP. Về cơ bản, các Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội và UBTVQH ban hành đã thể chế hóa đầy đủ, kịp thời những chủ trương, chính sách của Đảng về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, về tổ chức và bộ máy của các cơ quan tư pháp, về hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, về đấu tranh phòng chống tội phạm theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, góp phần từng bước củng cố, đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp.

Tuy nhiên, tại hội thảo do Văn phòng Trung ương Đảng và Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương phối hợp tổ chức mới đây, Báo cáo sơ kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương đã đánh giá: “Một số chủ trương, quan điểm của khai Nghị quyết 49-NQ/TW còn chậm hoặc chưa được thể chế hóa như tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối; tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra; từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm… khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ; giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án; từng bước xã hội hóa một số hoạt động thi hành án…”. Có ý kiến phân tích, nguyên nhân là do các cơ quan tư pháp trung ương chưa thực hiện tốt nhiệm vụ hướng dẫn thi hành và áp dụng thống nhất pháp luật tại các địa phương. Một số cơ quan chưa thể hiện sự quyết tâm cao trong việc triển khai các nhiệm vụ của CCTP nêu trong Nghị quyết 49-NQ/TW, còn có tư tưởng cục bộ, nói và làm không đúng với chủ trương của Nghị quyết 49-NQ/TW, làm chậm tiến trình CCTP.

Đã có người lo ngại cho rằng, hiện nay lòng tin của người dân đối với hoạt động tư pháp bị giảm sút rất nghiêm trọng. Điều này không phải là không có cơ sở khi mà một số cơ quan và cán bộ tư pháp chưa thực hiện đầy đủ, đúng đắn các quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Trình độ pháp luật, ý thức trách nhiệm của không ít cán bộ còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của CCTP. Hiện tượng “chạy án”, tình trạng “án bỏ túi”, “duyệt án” vẫn tồn tại. Hầu hết các vụ án sơ thẩm đều có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu xử phúc thẩm, thậm chí quá nhiều vụ án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn bị đề nghị xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.

Ở một số địa phương, các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là cơ quan điều tra còn gây khó khăn cho luật sư trong việc thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ theo quy định của pháp luật. Đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp, nhất là các cơ quan tư pháp ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số thì thiếu và yếu. Hoạt động giám sát của một số cơ quan dân cử địa phương đối với công tác tư pháp vẫn mang tính hình thức. Chất lượng chất vấn, trả lời chất vấn đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội và HĐND chưa được nâng cao và chưa thực sự đổi mới. Nhìn chung, HĐND các tỉnh, thành phố đều chưa ban hành nghị quyết riêng về hoạt động tư pháp sau khi nghe báo cáo và trả lời chất vấn.

2. Báo Nhân dân có bài Nên kiểm tra, xử lý “cuốn chiếu” văn bản quy phạm pháp luật. Bài báo phản ánh: Đó chính là phát biểu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường trong cuộc họp lấy ý kiến cho dự thảo báo cáo công tác kiểm tra xử lý VBQPPL chuẩn bị trình Thủ tướng Chính phủ. Trong năm 2010, công tác kiểm tra xử lý VBQPPL đã ngày càng phát huy được vai trò “kiểm soát” của mình song phản hồi từ các cơ quan bị “nhắc nhở” vẫn còn quá chậm.

Theo số liệu của chín Bộ, ngành và 62 địa phương trong năm 2010 cơ quan kiểm tra văn bản (VB) ở các Bộ, ngành và địa phương đã tự kiểm tra 10.078 VB và rà soát được 89.392 VB do mình ban hành. Qua tự kiểm tra, các Bộ, ngành và địa phương đã phát hiện 237/10.078 VB có dấu hiệu trái pháp luật (chiếm 2,3% số VB đã tự kiểm tra). Các Bộ, ngành và địa phương bước đầu đã phát hiện 1.494/12.049 VB có dấu hiệu trái pháp luật (chiếm 12,3% số VB các Bộ, ngành và địa phương tiếp nhận để kiểm tra).

Cục Kiểm tra VBQPPL (Bộ Tư pháp) thừa nhận, hạn chế lớn nhất trong công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL trong năm 2010 chính là việc xử lý VB theo thông báo của cơ quan kiểm tra. Thực tế hiện nay, hầu hết các cơ quan, địa phương có VB bị “tuýt còi” thường rất chậm trả lời hoặc có xử lý lại không đúng pháp luật. Hậu quả lớn nhất của cách xử lý theo kiểu “làm cho xong” là không giải quyết một cách dứt điểm những vấn đề phát sinh, thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức do suốt thời gian dài bị áp dụng VB trái pháp luật.

Bên cạnh đó, số lượng VB được kiểm tra so với số lượng VB tiếp nhận (hoặc được giao) để kiểm tra còn thấp; Nhiều VB chưa được cơ quan ban hành tự kiểm tra, xử lý kịp thời sau khi nhận được thông báo của cơ quan kiểm tra VB có thẩm quyền; Nhiều VB có dấu hiệu trái pháp luật chưa được phát hiện kịp thời hoặc chưa đầy đủ; Việc theo dõi quá trình xử lý VB trái pháp luật của các cơ quan ban hành chưa chặt chẽ; Tỷ lệ văn bản được kiến nghị, xử lý so với số lượng VB được phát hiện có dấu hiệu trái pháp luật thấp… Từ những hạn chế trong công tác kiểm tra VBQPPL, các chuyên gia pháp lý còn nhận thấy, hệ thống pháp luật về công tác này còn nhiều “lỗ hổng”. Đặc biệt là chưa có qui định về thời hạn phải kiểm tra VBQPPL sau khi được ban hành. Nên trong thực tế công tác kiểm tra chậm, nhiều VB phải bốn, năm năm sau mới được kiểm tra dù đáng lẽ phải kiểm tra ngay để hạn chế hậu quả nếu có.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho rằng, cần đổi mới cách tiếp cận việc thực hiện công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL, không thực hiện theo kiểu được chăng hay chớ, mà phải gắn với các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm của từng thời kỳ và thực hiện kiểm tra, xử lý “cuốn chiếu” theo các nội dung trọng tâm trong năm. Như vậy, sẽ tránh được tình trạng bỏ ngỏ VB khi chưa xác định được trọng tâm về công tác kiểm tra VBQPPL trên cả nước.

3. Báo Pháp luật và xã hội có bài Cần sửa đổi toàn diện Bộ luật Dân sự. Bài báo phản ánh: Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp vừa phối hợp với Vụ Hợp tác quốc tế và Dự án JICA tổ chức toạ đàm về một số định hướng trong sửa đổi cơ bản Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005. Theo đó, Bộ luật Dân sự 2005 sẽ được sửa đổi các quy định về vật quyền, trái quyền, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu thừa kế, di chúc chung của vợ chồng... Các chuyên gia Nhật Bản và Việt Nam đã trao đổi, thảo luận về những nội dung cơ bản cần phải được sửa đổi trong BLDS 2005, kinh nghiệm và pháp luật của Nhật Bản về các vấn đề này.

Một số chuyên gia Nhật Bản cho rằng, BLDS cần phải sửa đổi mang tính toàn diện, những quy định chung hay những nguyên tắc cơ bản của BLDS cần thiết kế lại theo hướng BLDS là luật tư, chỉ điều chỉnh các mối quan hệ giữa tư nhân với nhau chứ không điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và tư nhân. Một số quyền công dân hiện  đang được quy định trong Bộ luật nên được khẳng định trong Hiến pháp vì đó là các quyền cơ bản của con người. Ngoài ra, các vấn đề về pháp nhân hay hộ gia đình cũng cần phải quy định cụ thể như thời điểm thành lập pháp nhân, các thành viên hộ gia đình để tạo điều kiện thuận tiện cho các giao dịch dân sự; sửa đổi quy định về giao dịch bảo đảm, thừa kế, hôn nhân thực tế, thừa kế… cho phù hợp.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Trưởng văn phòng công chứng kiện người bỏ vốn. Bài báo phản ánh: TAND TP.HCM đang thụ lý một vụ tranh chấp giữa ông Đ. (Trưởng văn phòng công chứng (VPCC) T., nguyên đơn) và bà L. (đại diện chủ đầu tư, bị đơn). Đây là vụ tranh chấp kinh doanh thương mại đầu tiên liên quan đến VPCC ở TP.HCM kể từ khi các văn phòng này được phép hoạt động.

Theo đơn khởi kiện của ông Đ., VPCC T. được thành lập ngày 28-5-2009, đi vào hoạt động ngày 14-7-2009. Do thuê căn nhà của bà L. tại phường Tam Bình (quận Thủ Đức) để làm trụ sở văn phòng nên ông quen biết với bà L.

VPCC T. hoạt động được hơn một tuần thì ông và phía bà L. ký hợp đồng hợp tác. Nội dung bản hợp đồng này ghi rõ: Bên đầu tư lo thủ tục pháp lý cho việc bổ nhiệm công chứng viên, trình duyệt đề án thành lập VPCC. Bên đầu tư sẽ bỏ toàn bộ vốn để thành lập, tổ chức hoạt động cho VPCC với số vốn 700 triệu đồng. Lợi nhuận sau khi trừ chi phí sẽ được chia đôi cho chủ đầu tư và trưởng VPCC. Chủ đầu tư cùng tham gia quản lý, điều hành hoạt động VPCC. Trưởng VPCC chịu trách nhiệm về nghiệp vụ công chứng… Quá trình hoạt động, các bên đã phát sinh mâu thuẫn trong việc quản lý tài chính, quản lý VPCC. Ông Đ. ngồi rà soát lại thì phát hiện các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác vi phạm pháp luật. Cụ thể, ông cho rằng VPCC được thành lập theo loại hình DNTN theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, chủ đầu tư không thể nào lo thủ tục pháp lý để bổ nhiệm công chứng viên và thành lập VPCC được. DNTN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, việc thỏa thuận cho phía bà L. đầu tư vào VPCC là trái pháp luật doanh nghiệp. Ngoài ra, pháp luật về công chứng và doanh nghiệp cũng không cho phép VPCC được tổ chức với sự tham gia của thành viên góp vốn... Từ đó, ông Đ. đã khởi kiện yêu cầu tòa tuyên hủy hợp đồng hợp tác đầu tư giữa hai bên. Ông Đ. khẳng định hợp đồng này có những mục đích, nội dung cơ bản vi phạm quy định của pháp luật và có sự nhầm lẫn khi ký kết.

Trước đây, tại một VPCC tại Hà Nội cũng từng xảy ra mâu thuẫn giữa trưởng văn phòng và chủ đầu tư. Từ vụ tranh chấp này, nhiều chuyên gia pháp lý đã nhận định Luật Công chứng không quy định loại hình công ty cổ phần hay công ty TNHH đối với hoạt động công chứng. Do đó, việc các bên thỏa thuận với nhau về hình thức ăn chia, góp vốn... là việc của các bên, pháp luật không thừa nhận. Pháp luật chỉ thừa nhận, cấp phép hoạt động cho công chứng viên là người đứng đầu VPCC. Và công chứng viên đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của VPCC.