I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Tiếp tục cho các đơn vị thuộc Vinashin kéo dài thời hạn trả nợ. Bài báo phản ánh: Văn phòng Chính phủ vừa có công văn thông báo ý kiến chỉ đạo của phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, liên quan đến việc trả nợ vay ngân hàng của các đơn vị thuộc tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin).
Theo Văn phòng Chính phủ, phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đã có ý kiến: “Đồng ý về nguyên tắc việc ngân hàng Phát triển Việt Nam tiếp tục kéo dài thời gian trả nợ khoản vay vốn tín dụng xuất khẩu để đóng tàu của các đơn vị thuộc tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, nhưng đến nay vẫn chưa có khả năng trả nợ”. Thời gian gia hạn cho các đơn vị thuộc Vinashin được kéo dài việc trả nợ vay đóng tàu đó là không quá hai năm. Ngoài ra, phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng còn chỉ đạo: “Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam rà soát phương án sản xuất, kinh doanh, tìm đối tác bán những con tàu mà chủ cũ đã huỷ hợp đồng để có nguồn trả nợ vốn vay ngân hàng Phát triển Việt Nam”.
Trước đó, vào tháng 11.2010, chủ tịch hội đồng thành viên Vinashin Nguyễn Ngọc Sự cho biết tại một cuộc họp báo: tổng số nợ chính thức của Vinashin là 86.565 tỉ đồng là con số nợ chính thức của Vinashin. Nhưng các khoản nợ của Vinashin hiện nay đã đầu tư vào các dự án, công trình và nằm trong những con tàu đang đóng dở. Sau khi bàn giao các con tàu cho tập đoàn Dầu khí Việt Nam và tổng công ty Hàng hải Việt Nam thì tổng số nợ giảm xuống còn trên 63.000 tỉ đồng. Hiện nay, các tàu còn hiệu lực hợp đồng Vinashin đang thực hiện là 130 tàu với tổng giá trị gần 2,1 tỉ USD. Trong đó xuất khẩu 57 tàu với tổng giá trị là trên 1,2 tỉ USD, trong nước 73 tàu với tổng giá trị là gần 830 triệu USD.
2. Báo VnEconomy có bài Tháng 8, VTC sẽ trình Chính phủ đề án lập tập đoàn. Bài báo đưa tin: Theo tin từ Tổng công ty Truyền thông Đa phương tiện (VTC), dự kiến tháng 8 tới đây, VTC sẽ hoàn thành và trình lên Chính phủ đề án thí điểm thành lập Tập đoàn Truyền thông Đa phương tiện VTC. Theo đó, VTC sẽ trở thành tập đoàn kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực truyền thông đa phương tiện, cung cấp các chuỗi giá trị gia tăng sản phẩm dịch vụ trên nền hội tụ công nghệ số của các ngành truyền hình, viễn thông, công nghệ thông tin, công nghiệp nội dung số, hoạt động trong phạm vi cả nước và đầu tư ra nước ngoài. Doanh nghiệp này sẽ trở thành một tập đoàn kinh tế Nhà nước có quy mô vốn lên tới 3.000 tỷ đồng, với một mô hình tổ chức mạnh, đa sở hữu có vốn Nhà nước chi phối.
3. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Giáo dục. Bài báo đưa tin: Bộ GD&ĐT vừa ban hành kế hoạch tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) trong toàn ngành.
Theo đó, toàn ngành thực hiện nghiêm chỉnh công tác PBGDPL có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, góp phần ổn định môi trường giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục. Trong đó, đặc biệt chú trọng nhiệm vụ tăng cường phối hợp các lực lượng triển khai công tác PBGDPL và các hình thức tổ chức PBGDPL như ứng dụng công nghệ thông tin, băng đĩa, phim ảnh, tiểu phẩm… trong việc PBGDPL. Đẩy mạnh việc phối hợp giữa ngành Giáo dục, ngành Tư pháp và các cơ quan, tổ chức liên quan trong công tác PBGDPL.
Bộ cũng yêu cầu các Sở GD&ĐT phải bố trí đủ đội ngũ giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân, môn pháp luật đúng chuyên môn đào tạo. Rà soát tổng thể đội ngũ giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân, môn pháp luật trên địa bàn để xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ này. Tổ chức tập huấn triển khai việc tích hợp PBGDPL trong môn học giáo dục công dân cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Kết hợp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh có nội dung PBGDPL.
4. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Lại “vừa đá bóng vừa thổi còi”? Bài báo phản ánh: Dự thảo luật giá mà bộ Tài chính xây dựng trong đó có đặt vấn đề khôi phục lại thẩm định giá công để thẩm định mua bán tài sản có nguồn vốn ngân sách. Dự thảo này mang đến lo ngại nhà nước “bao sân”, phân chia thị trường dịch vụ thẩm định giá và hạn chế cơ hội kinh doanh của các thành phần kinh tế khác, đẩy họ vào nguy cơ mất việc làm.
Trung tâm Tư vấn dịch vụ thẩm định giá và bán đấu giá tài sản thuộc sở Tài chính Hà Nội được thành lập giữa năm 2005 nhằm tách bạch chức năng dịch vụ tài chính ra khỏi cơ quan quản lý theo chỉ đạo của bộ Tài chính. Trung tâm vừa đi vào hoạt động được ba tháng, Chính phủ có yêu cầu phải chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp và đây là cơ sở pháp lý cho sự ra đời của công ty cổ phần thẩm định giá và dịch vụ tài chính Hà Nội (VFS) (tháng 7.2008).
Có thể nói, dịch vụ thẩm định giá đã được tách ra khỏi cơ quan quản lý nhà nước từ năm 2005. Nhưng nay, có khả năng lại cho ra đời cơ quan thẩm định giá của nhà nước để thẩm định tài sản có nguồn vốn ngân sách theo dự thảo Luật giá mới nhất do bộ Tài chính soạn thảo. Và như vậy, với các doanh nghiệp, thị trường này sẽ bị thu hẹp. “Với hơn 50 doanh nghiệp thẩm định giá, thị trường rất cạnh tranh. Chúng tôi phải vật lộn với thị trường đã khó, nay lại phải lo cơ chế chính sách”, ông Nguyễn Quang Hùng, chủ tịch HĐQT, tổng giám đốc VFS than thở.
Đây cũng là mối lo chung hơn 50 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thẩm định giá. Cơ sở của việc đưa nội dung hoạt động thẩm định giá của nhà nước vào luật giá (dự thảo) được một thành viên ban soạn thảo lý giải: “Do nhà nước không có thẩm định giá công nên khi các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc mua sắm tài sản đều phải thuê doanh nghiệp, làm tăng thêm chi phí, đồng thời dễ dẫn đến tiêu cực là có sự móc ngoặc để thẩm định giá cao khi mua sắm và thấp khi bán hoặc thanh lý tài sản gây thất thoát ngân sách”.
Việc tổ chức triển khai bộ máy thực hiện thẩm định giá của nhà nước đồng bộ từ trung ương đến địa phương ngoài việc làm tăng gánh nặng ngân sách, phó tổng giám đốc công ty cổ phần Định giá và dịch vụ tài chính Việt Nam (VVFC) Trần Thị Thanh Vinh e ngại còn làm rối loạn tổ chức, khó kiểm soát về chất lượng và dễ phát sinh tiêu cực. Các cơ quan quản lý nhà nước về giá lúc này mang cả hai vai, vừa quản lý nhà nước về thẩm định giá, vừa thực hành. Và việc nhà nước cùng tham gia trực tiếp cung cấp dịch vụ thẩm định giá là can thiệp thô bạo vào thị trường dịch vụ này.
Một chuyên gia về lĩnh vực này, từng là lãnh cấp cao của bộ Tài chính cho biết, so với nhà nước thẩm định, kết quả thẩm định giá của các doanh nghiệp đã giúp tiết kiệm từ 15 – 20% so với tổng giá trị tài sản công mua – bán hàng năm và đây là một con số rất lớn. Ông Nguyễn Quang Hùng nói thẳng: “Khôi phục lại thẩm định giá công là đi ngược với xu thế hội nhập, xu thế này chỉ mang lại lợi ích cho một nhóm quyền lợi nhất định và có thể làm tăng nguy cơ thất thoát tài sản của nhà nước”.
5. Báo Vietnam.net có bài '10 năm phấn đấu không bằng một lần cơ cấu' Bài báo phản ánh: "Người dân không tỏ rõ tình cảm vui mừng, xúc động, sung sướng khi thấy một ai đó trúng cử. Cơ chế bầu cử hiện nay nặng về khâu cử, nhẹ về khâu bầu nên người dân thường nói: 10 năm phấn đấu không bằng một lần cơ cấu", PGS-TS Thái Vĩnh Thắng, chủ nhiệm khoa Hành chính - Nhà nước, ĐH Luật Hà Nội nói tại cuộc hội thảo về bầu cử, do trường ông tổ chức tuần qua.
Nhận xét không ít đại biểu trúng cử không quan tâm đến cử tri nhiều bằng quan tâm đến các cấp lãnh đạo vì việc quyết định họ có được tái cử hay không phụ thuộc chủ yếu vào tổ chức, đại biểu làm việc ở một nơi nhưng lại ứng cử ở nơi khác nên cử tri không nhớ nổi họ tên người mình đã bầu, ông Thắng cũng cho rằng cách thức bầu cử hiện nay tạo ra các nghị sĩ "hiền lành và rụt rè".
Trong khi, nghị sĩ các nước trên thế giới thường chỉ trích thẳng thắn khi Chính phủ không đáp ứng được yêu cầu của xã hội, thì đại biểu QH ở Việt Nam còn đắn đo, cân nhắc vì sợ phật lòng cấp trên sẽ ảnh hưởng đến con đường công danh và đôi khi sợ ảnh hưởng đến lợi ích của địa phương mình.
Một phép so sánh nữa của TS Thắng, đó là các ứng cử viên nghị sĩ phải ra tranh cử, phải có đam mê công việc của nghị sĩ, mong muốn trở thành nghị sĩ và phải bằng chương trình hành động cụ thể để chứng tỏ cho cử tri khả năng làm nghị sĩ của mình. Thông qua quá trình vận động bầu cử, họ thuyết phục người khác bỏ phiếu cho mình, bỏ nhiều thời gian công sức và đôi khi cả tiền bạc mới được trở thành nghị sĩ. Còn ở Việt Nam, nhiều ứng viên không thực sự muốn hoặc không có đam mê làm nghị sĩ nhưng do vị trí công tác hoặc do cơ cấu mà tổ chức sắp xếp làm đại biểu QH. Sau khi được bầu, họ thường không có một chương trình hoạt động của cá nhân mà tất cả đều gắn với sự phân công của QH, nếu không hoàn thành nhiệm vụ (ngoại trừ phạm tội) thì cũng không phải chịu một sức ép nào từ phía các cử tri bầu ra mình.
Chia sẻ với ông Thắng khi cho rằng vận động tranh cử có thể được coi là linh hồn của bầu cử, PGS.TS Nguyễn Minh Đoan, cũng ở ĐH Luật Hà Nội, nhận định nếu chỉ nhìn từ các quy định pháp luật về quyền bầu cử, ứng cử của công dân, các nguyên tắc bầu cử, số lượng cử tri tham gia bầu và tỷ lệ số phiếu trúng cử của các đại biểu thì có thể khẳng định chế độ bầu cử ở Việt Nam là rất dân chủ.
Song thực tế, sự quan tâm của một bộ phận dân chúng đối với các hoạt động bầu cử đại biểu QH chưa cao. Một số người xác định việc đi bầu chỉ như là một "nghĩa vụ" chính trị, làm cho xong chứ chưa quan tâm tới việc tìm hiểu đầy đủ về các ứng cử viên mà họ sẽ bầu và kết quả của cuộc bầu cử. Điều này có thể do sai lầm trong suy nghĩ của những người đó cho rằng "ai trúng cử cũng được" hoặc mọi việc đã an bài. Song cũng phải thừa nhận là điều kiện để cử tri hiểu biết về ứng viên mà họ sẽ lựa chọn chưa nhiều.
Theo ông Đoan, thông tin trong danh sách trích ngang về ứng viên thường rất sơ sài chỉ gồm tên tuổi, quê quán, nơi đang làm việc, học vấn hoặc trình độ chuyên môn và chức vụ đang đảm nhiệm, còn phần mà cử tri quan tâm nhất là năng lực làm việc, đạo đức, lối sống... thì hầu như không có.
"Để dân không chọn nhầm thì quan trọng nhất là thông tin hai chiều giữa cử tri và ứng viên. Ứng viên phải có điều kiện thông tin cho cử tri về những gì họ có, đặc biệt là những gì họ có thể mang lại cho cử tri, cho đất nước khi họ trúng cử. Ngược lại, cũng tạo điều kiện cho cử tri trao đổi, kiểm tra,
Với quan điểm "bầu cử được xem là một hoạt động điển hình của việc thực hiện cơ chế dân chủ", TS.Trương Thị Hồng Hà, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh lại nhận thấy căn cứ vào các quy định pháp luật thì hoạt động vận động bầu cử chưa được xem là nhu cầu tự thân của người ứng cử. Chính vì vậy, càng thấy xa lạ với cụm từ "vận động tranh cử" theo quy luật đáng phải có trước mỗi kỳ bầu cử. Bởi lẽ, vận động bầu cử chưa được xác định đúng vai trò, ý nghĩa của nó trong việc giúp cử tri xem xét, nghiên cứu, lựa chọn để bầu ra người đại diện cho mình. Hoạt động vận động bầu cử không chứa đựng yếu tố cạnh tranh mà diễn ra một cách thụ động, theo chương trình kế hoạch của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Pháp luật về bầu cử cũng chưa xác định được thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc của hoạt động vận động bầu cử cũng như chưa xác định được cụ thể các hành vi không được vận động mà mới chỉ quy định về nguyên tắc. Do đó, trong thực tế vận động, khi có những vấn đề đặt ra như người ứng cử có được ủng hộ về tài chính cho địa phương nơi mình ra ứng cử không? Có được trao đổi trên mạng xã hội như Facebook không? Ứng viên có được phản biện lại bản dự kiến chương trình hoạt động của những ứng viên khác không?
Do đó, theo bà Hà, cần sửa đổi, bổ sung Luật Bầu cử để hoạt động vận động bầu cử phải được diễn ra theo đúng quy luật, để cử tri nắm được thông tin trung thực về ứng viên, từ đó đưa ra sự lựa chọn chính xác những người đại diện cho mình thực hiện quyền lực nhà nước.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Dân Việt có bài Cơ quan chức năng làm ẩu, dân mất nhà. Bài báo phản ánh: Ông Đoàn Thiết Sơn có bố là Đoàn Thế Ân và mẹ kế là Nguyễn Thị Bộn, trú nhà số 1, kiệt 168 đường Phan Chu Trinh, TP. Huế (số cũ 80B Phan Chu Trinh) với diện tích nhà 82,3m2, đất liền theo nhà 207m2...
Sau khi cụ Ân và cụ Bộn qua đời, đây là nơi thờ hai cụ. Ông Sơn sinh sống ở Quảng Bình nên thỉnh thoảng mới ghé nhà.
Ngày 3.4 vừa qua, ông Sơn vào Huế thắp hương cho cha mẹ thì thấy ngôi nhà số 1, kiệt 168 Phan Chu Trinh đang bị đập phá, tháo dỡ. Tìm hiểu sự việc, ông Sơn mới biết ngôi nhà và đất của cha mẹ mình đã thuộc quyền sở hữu của bà Bùi Lê Thanh Nhàn từ ngày 20.2.2003. Bà Nhàn từng là bác sĩ chữa bệnh cho cụ Bộn và không có quan hệ họ hàng ruột thịt với cha mẹ ông Sơn.
Theo hồ sơ giấy tờ đất của bà Nhàn, ngày 7.3.2000, trước khi qua đời, cụ Ân để lại mấy dòng chữ nguệch ngoạc có tiêu đề là "Lời tâm huyết", với nội dung là cụ Ân giao lại toàn bộ nhà cửa, đất đai ở số 1, kiệt 168 Phan Chu Trinh cho cụ Bộn... Phòng Tư pháp TP. Huế đã dựa vào đây để chứng thực cụ Bộn là người thừa kế duy nhất tài sản. Tiếp đó, cụ Bộn làm di chúc cho bà Nhàn thừa kế nhà và đất.
3 người ký tên làm chứng trong văn bản "Lời tâm huyết" đều khẳng định sau khi cụ Ân qua đời một thời gian, cụ Bộn mới đưa tờ giấy viết sẵn nhờ họ ký tên. Như vậy, cái được coi là di chúc của cụ Ân nhiều khả năng không phải do cụ Ân viết. Hơn nữa, theo ông Sơn, chữ viết trong văn bản này hoàn toàn không giống chữ viết của cụ Ân. Phòng Tư pháp TP. Huế xác nhận quyền sở hữu nhà, đất cho cụ Bộn vào ngày 11.2.2003.
Trước đó, ngày 7.2.2003, khi chứng thực bản khai nhận di sản thừa kế, Phòng Tư pháp đã "quên" đưa ông Sơn vào danh sách người thừa kế theo quy định của pháp luật. Hơn nữa, cụ Bộn qua đời ngày 10.2.2003, nhưng thông báo của UBND TP. Huế về việc khai nhận di sản thừa kế của cụ Bộn lại đề ngày 2.12.2003 - thời điểm cụ Bộn đã chết gần 10 tháng (!?).
Một điều lạ nữa là ngày 11.2.2003, cụ Bộn mới được UBND TP. Huế công nhận toàn quyền sở hữu nhà đất ở số 1, kiệt 168 Phan Chu Trinh. Nhưng trước đó, ngày 17.1.2003, cụ Bộn đã được Phòng Công chứng số 1 của tỉnh chứng thực di chúc để lại tài sản cho bà Nhàn. Việc chứng thực này là trái pháp luật, bởi ở thời điểm công chứng, cụ Bộn chưa có quyền sở hữu nhà đất nên không thể để lại tài sản này cho bà Nhàn.
Ông Nguyễn Thế Toại- Trưởng phòng Tư pháp TP. Huế giải thích với NTNN: Việc cụ Bộn khai nhận di sản thừa kế sau khi đã qua đời gần 10 tháng là do Phòng Tư pháp điền nhầm ngày, chính xác phải là ngày 2.1.2003. Ông Toại cho rằng đánh nhầm ngày là "chuyện bình thường, do phòng lúc đó chỉ có một người làm chứng thực trong khi mỗi năm phải giải quyết vài trăm hồ sơ thừa kế" (?!). Về di chúc của cụ Ân có dấu hiệu bị giả mạo, ông Toại cho rằng, đơn vị ông không có trách nhiệm xác minh khi chứng thực!
2. Báo Sài Gòn giải phóng Online đưa tin: Một số bạn đọc là Việt kiều phản ánh việc giải quyết thủ tục đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp TPHCM chậm, tốn thời gian và đề nghị Báo SGGP giải đáp trường hợp nào phải làm thủ tục ghi vào sổ hộ tịch việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài? Báo SGGP đã trao đổi với bà Ung Thị Xuân Hương, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TPHCM, nhằm giải đáp những thắc mắc này của bạn đọc.
PV: Đề nghị bà lý giải về việc giải quyết hồ sơ chậm, gây bức xúc cho công dân, trong đó có trường hợp của ông N.V.T?
Từ khi thực hiện Thông tư 16/2010/TT-BTP, Sở Tư pháp đã gặp khó khăn trong việc giải quyết hồ sơ kết hôn cho những trường hợp trước đó đã ly hôn ở nước ngoài (chậm thời gian giải quyết hồ sơ nên đã gây bức xúc cho công dân), Sở Tư pháp đã phản ánh với Bộ Tư pháp về vấn đề này.
Đối với trường hợp cụ thể của ông N.V.T mà quý báo phản ánh, Sở Tư pháp đã kiểm tra hồ sơ và nhận thấy cán bộ công chức đã thực hiện đúng quy định. Việc giải quyết hồ sơ kết hôn chậm là do phải chờ thủ tục ghi chú ly hôn (ngày 25-1-2011, Sở Tư pháp gửi hồ sơ ghi chú ly hôn cho Bộ Tư pháp và đến ngày 2-3-2011, Bộ Tư pháp mới có văn bản trả lời chấp thuận cho ghi chú ly hôn). Sau khi có văn bản của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp đã giải quyết xong hồ sơ này.
3. Báo Phụ nữ Việt Nam có bài Thiếu sự trợ giúp, nhiều trung tâm hỗ trợ kết hôn kém hiệu quả. Bài báo phản ánh: Theo báo cáo của Trung ương Hội LHPN Việt Nam, cả nước hiện có 18 trung tâm hỗ trợ kết hôn (HTKH) trực thuộc Hội LHPN các tỉnh, thành. Bước đầu, các trung tâm này đã tư vấn cho ít nhất 6.500 phụ nữ có nhu cầu kết hôn với người nước ngoài.
Nội dung tư vấn chủ yếu về các quy định của pháp luật liên quan đến hôn nhân có yếu tố nước ngoài; những thách thức, rủi ro có thể gặp phải sau khi kết hôn do khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán để chị em phụ nữ có cơ sở cân nhắc trước khi kết hôn. Một số trung tâm còn đảm nhiệm hoạt động giới thiệu, giúp các bên có nhu cầu kết hôn tìm hiểu nhau, giúp hoàn tất hồ sơ đăng ký kết hôn…
Tuy nhiên, hoạt động của phần lớn các trung tâm HTKH vẫn còn nhiều lúng túng, kết quả hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương nhận thức khác nhau về vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài nên chưa tạo điều kiện giúp các trung tâm trong hoạt động tư vấn, hỗ trợ phụ nữ. Trong khi đó, hiện chưa có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho các trung tâm này duy trì và đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Theo nhận định của Trung ương Hội LHPN Việt Nam, hoạt động kém hiệu quả của nhiều trung tâm HTKH cũng là nguyên nhân khiến tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp với người nước ngoài gia tăng trong thời gian gần đây.