I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân phản ánh: Ban Thường trực Ủy ban MTTQ tỉnh Hà Tĩnh vừa tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba, thống nhất danh sách 10 người ứng cử đại biểu QH và 81 người ứng cử đại biểu HÐND tỉnh khóa 16.
Trong hai ngày 16 và 17-4, Ủy ban MTTQ tỉnh Hải Dương tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba thống nhất lập danh sách chính thức 12 người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIII do tỉnh giới thiệu và 90 người ứng cử HÐND tỉnh.
Ủy ban MTTQ tỉnh Ðiện Biên vừa tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba, lập danh sách chính thức 77 người ứng cử đại biểu HÐND tỉnh; trong đó có 18 nữ, 59 nam, đại biểu người dân tộc thiểu số có 55 người (chiếm 71,42%).
Ban Thường vụ Tỉnh Ðoàn Bình Phước đã có công văn đề nghị Ban Thường vụ các huyện, thị Ðoàn và Ðoàn trực thuộc triển khai thực hiện tốt việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân.
Tỉnh đoàn Ninh Bình đã triển khai tới các cơ sở đoàn trong tỉnh Kế hoạch thông tin, tuyên truyền phục vụ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu HÐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.
2. Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 3-4 đăng kết luận của Thanh tra Chính phủ và ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng về việc thành lập các công ty cổ phần nhằm khai thác các mỏ đá thông thường tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Vừa qua, Công ty Khoáng sản Vinaconex (đơn vị bị thanh tra và phải làm theo lệnh của Thủ tướng) đã thống nhất với Công ty TNHH Xây dựng-Giao thông Đức Hạnh thành lập Công ty CP Khoáng sản Núi Đất. Tuy nhiên, ông Đoàn Hồng Vinh, Giám đốc Công ty Khoáng sản Vinaconex, không chịu điều chỉnh giấy phép khai thác khoáng sản đã cấp trước đây sang Công ty Cổ phần Khoáng sản Núi Đất như phó thủ tướng đã chỉ đạo.
Theo bản kiến nghị gửi tổng Thanh tra Chính phủ, ông Vinh cho rằng nếu điều chỉnh giấy phép sẽ làm thất thoát vốn của Nhà nước. Tuy nhiên, Thanh tra Chính phủ khẳng định việc giám đốc Công ty Khoáng sản Vinaconex tiếp tục chống lại lệnh của Thủ tướng sẽ gây khó khăn cho hoạt động khai thác, sản xuất và kinh doanh khoáng sản… Từ năm 1998, Công ty Khoáng sản Bà Rịa-Vũng Tàu và sau này là Công ty Khoáng sản Vinaconex được cấp giấy phép khai thác một số mỏ đá ở Bà Rịa-Vũng Tàu nhưng sau đó đã bán lại giấy phép dưới hình thức hợp tác kinh doanh để hưởng 12%-17% trên doanh thu. Việc làm này đã gây bức xúc trong các doanh nghiệp thực sự bỏ vốn khai thác mỏ và dẫn đến khiếu kiện, đình đốn sản xuất kéo dài từ năm 2000-2002.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP, UBND TPHCM đẩy mạnh hỗ trợ lãi vay thông qua chương trình kích cầu cho các doanh nghiệp (DN) đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, sản xuất hàng nội, chất lượng cao thay thế hàng nhập khẩu. Mục tiêu của việc đẩy mạnh sản xuất hàng nội thay thế hàng ngoại là nhằm giảm nhập siêu, chống đôla hóa. Thế nhưng, nhiều DN vẫn than rằng, sự bất cập trong ưu đãi thuế như hiện nay chính là rào cản cho hàng Việt…
Khi kêu gọi sản xuất hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu thì phát hiện một nghịch lý diễn ra trong thời gian qua: rất nhiều sản phẩm được sản xuất trong nước hẳn hoi nhưng muốn tiêu dùng tại thị trường trong nước, DN phải nhập khẩu từ nước ngoài chính những mặt hàng được sản xuất tại Việt Nam!
Không riêng ngành sản xuất máy tính mà ngành điện tử của Việt Nam nói chung phải chịu áp lực lớn khi ưu đãi thuế suất hàng nhập khẩu nguyên chiếc. Chính mức chênh lệch giữa thuế suất nhập khẩu nguyên chiếc (0%) với thuế suất linh kiện (2%) còn dẫn đến một hệ quả khác là một số nhà đầu tư nước ngoài chuyển từ hình thức liên doanh sang 100% vốn sở hữu, chuyển từ sản xuất sang nhập khẩu và phân phối sản phẩm.
Để thiết thực hỗ trợ DN sản xuất hàng phục vụ trong nước, thay thế hàng nhập khẩu nhằm giảm nhập siêu, chống đôla hóa trong tình hình hiện nay, thiết nghĩ Chính phủ cần giải quyết những bất cập về chính sách thuế nói trên. Đồng thời, hỗ trợ DN Việt Nam được mua sản phẩm trực tiếp từ trong nước để giảm bớt chi phí, hạ giá thành, cạnh tranh được với sản phẩm nhập từ bên ngoài.
4. Báo Công an nhân dân có bài Bộ trưởng Giao thông ủng hộ cấm xe máy.... Bài báo phản ánh: Vừa qua, tại Hà Nội, Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức Hội nghị Quốc tế về báo cáo "Chiến lược bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ Quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030 của Việt Nam", với sự tham gia của đại diện Tổ chức Y tế thế giới và Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản. Báo cáo cũng đưa ra một số đề xuất táo bạo là trước mắt nghiên cứu xây dựng làn đường dành riêng cho xe máy, tiến tới lộ trình cấm xe máy lưu thông trong khu vực trung tâm các TP lớn, do phần lớn số vụ TNGT liên quan đến loại phương tiện này. PV Báo CAND phỏng vấn Bộ trưởng GTVT Hồ Nghĩa Dũng.
PV: Bộ trưởng đánh giá thế nào về độ khả thi của Báo cáo chiến lược trên?
Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng: Tôi nhìn thấy nhiều khó khăn trong việc thực hiện. Chiến lược đặt ra rất nhiều chương trình, song tôi rất lo về sự hưởng ứng của cộng đồng. Triển khai vào cuộc sống như thế nào, không phải đơn giản. Chúng ta cần tạo sự đồng thuận xã hội, chia sẻ của nhân dân với Chính phủ, hy sinh lợi ích, tiện ích của cá nhân để tham gia chương trình lớn của đất nước, dù việc thay đổi động chạm đến thói quen, lợi ích cá nhân. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người với đất nước trước an toàn bền vững của mỗi gia đình, cả xã hội và cả cộng đồng quốc tế.
PV: Báo cáo có đưa ra đề xuất nghiên cứu lộ trình tiến tới cấm xe máy lưu thông trong khu vực trung tâm thành phố lớn. Liệu đề xuất này có hợp lý không khi hiện xe máy đang là phương tiện đi lại chính của người dân?
Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng: Kiềm chế sự gia tăng của xe máy là cần thiết. Tuy nhiên tôi cũng đồng ý là chúng ta không thể nào giảm hoặc cấm được xe máy ngay một lúc, mà còn phải sống chung với xe máy trong thời gian khá dài nữa. Phương án trước mắt là cần phải có đường dành riêng cho xe máy. Cái này chúng ta cũng đã làm thử, nhưng chưa thành công. Ví dụ đường Trần Khát Chân - Đại Cồ Việt, đường rất rộng, chúng tôi cũng đã tách làn xe máy nhưng vì chia sẻ của cộng đồng chưa lớn, thói quen của người dân, trong khi không có lực lượng nào suốt ngày đứng giám sát. Người đi xe máy cũng phải ý thức về sự an toàn của chính mình. Đường rộng mà xe container đi chung với xe máy thì rất dễ tai nạn. Chúng ta sẽ có lộ trình giảm dần xe máy trên một số tuyến, thậm chí phải cấm ở một số giờ nhất định, bên cạnh đó tăng xe buýt lên. Tất nhiên sẽ trong khoảng 5 đến 10 năm nữa.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam phản ánh: Hôm qua, Sở Tư pháp Hà Nội tổ chức Hội nghị triển khai công tác bổ trợ tư pháp. 2 hoạt động bổ trợ tư pháp khá sôi động của Hà Nội là công chứng và luật sư. Đến nay theo báo cáo của Sở Tư pháp Hà Nội, toàn thành phố có 42 Văn phòng công chứng (VPCC), trong đó có 21 VPCC hoạt động theo mô hình công ty hợp danh và 20 VP hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân. Năm 2010 các VPCC đã công chứng hơn 153 ngàn hợp đồng, giao dịch (lớn gấp hơn 1,5 lần so với 2009). Tổng doanh thu của 41 VP là hơn 85 tỷ đồng, nộp ngân sách gần 8 tỷ đồng. Riêng khối các Phòng Công chứng cũng vẫn giữ lượng khách tương đối ổn định dù có thêm mạng lưới khá đông đảo các VPCC. Năm 2010, các Phòng Công chứng đã công chứng gần 94 ngàn việc, tổng doanh thu gần 50 tỷ đồng, nộp ngân sách gần 11 tỷ.
Trong lĩnh vực luật sư, toàn thành phố có 579 tổ chức hành nghề luật sư với trên 1.500 luật sư, 33 tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt nam. Các tổ chức luật sư trong nước chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý khác. Riêng với tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam cơ bản đã chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật liên quan. Tuy nhiên, Sở Tư pháp cũng thừa nhận những yếu kém trong hai lĩnh vực nói trên, ví dụ như tình trạng trốn thuế ở một số văn phòng, tình trạng mất đoàn kết nội bộ gây khiếu kiện kéo dài; còn nhiều sai sót trong chuyên môn. Hoạt động của luật sư cũng tương tự, còn chưa chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về luật sư. Ngoài ra Sở Tư pháp còn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý.
Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính đã ghi nhận những kết quả trong công tác bổ trợ Tư pháp của Hà Nội, đặc biệt hoan nghênh việc Hà Nội đi đầu trong việc thành lập Hiệp hội công chứng, việc mà các địa phương khác chưa làm được. Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng chỉ rõ Hà Nội còn nhiều yếu kém, nhất là trong lĩnh vực công chứng và luật sư, sai phạm diễn ra khá phổ biến, thậm chí nghiêm trọng gần như nhất cả nước (đối với công chứng), rồi việc cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng. “Ngày xưa có việc gì người dân cũng muốn đem đến công chứng cho yên tâm, nhưng bây giờ trong điều kiện phát triển như hiện nay, nếu để xảy ra vi phạm pháp luật tức là anh đã tự bôi xấu hình ảnh của mình”, Thứ trưởng nhắc nhở. Về trình độ luật sư trong giai đoạn hội nhập, Thứ trưởng Nguyễn Đức Chính cho rằng mức độ hành nghề của luật sư Hà Nội đang thiếu sự chuyên sâu và ‘chưa đủ để hội nhập”. Với vai trò là cơ quan quản lý, ngành Tư pháp Hà Nội cần hết sức lưu tâm đến vấn đề này.
Đối với lĩnh vực bán đấu giá tài sản, Thứ trưởng yêu cầu Sở Tư pháp cần quan tâm, siết chặt hơn nữa về kỷ cương, kỷ luật đồng thời triển khai quyết liệt, tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ giám định viên.
2. Báo Hà Nội mới có bài Mở cửa cho giám định tư?. Bài báo phản ánh: Theo Bộ Tư pháp, hiện tại, không chỉ giám định viên chuyên nghiệp mà các chuyên gia được mời làm giám định viên theo từng sự vụ cũng ít "mặn mà" với công việc GĐTP. Tất cả vì chính sách, chế độ cho đội ngũ giám định viên chưa thỏa đáng với công sức mà họ bỏ ra. Minh chứng cụ thể cho điều này là Viện Pháp y quốc gia, tổ chức tuyển dụng 25 người, người đến lại đi, một thời gian dài, vẫn thiếu. Tình trạng thiếu giám định viên phổ biến ở hầu hết các địa phương, nhất là giám định viên chuyên trách ở lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự. Vì vậy, khi tòa án cần đến lực lượng trên, trưng cầu đã không dễ, đến lúc tổ chức giám định nhận lời làm cũng chưa thể mừng bởi không ít đơn vị cứ "om" kết quả, khiến đương sự và các cơ quan tố tụng "dài cổ ngóng chờ". Nguyên nhân do Pháp lệnh GĐTP chưa có quy định bắt buộc các cơ quan này phải hợp tác nhanh với tòa và cũng chưa có chế tài xử lý nếu họ ra kết quả sai, chậm gửi thông tin xác minh hay thiếu trách nhiệm trong giám định. Theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính, để tạo môi trường cạnh tranh trong hoạt động này, cần xã hội hóa GĐTP. Điều này có nghĩa, trong tương lai, cá nhân, tổ chức nếu đủ điều kiện sẽ được thành lập văn phòng GĐTP ngoài công lập ở một số lĩnh vực chuyên môn. Nếu một giám định viên đứng ra làm thì được tổ chức theo loại hình doanh nghiệp tư nhân, từ hai thành viên trở lên thì theo loại hình công ty hợp danh.
Mặc dù vậy, trong Bộ Tư pháp cũng còn có ý kiến khác nhau khi bàn về việc cho phép các tổ chức GĐTP ngoài công lập hoạt động song song với các tổ chức GĐTP truyền thống. Hầu hết thành viên thuộc Ban soạn thảo Luật GĐTP cho rằng, nếu để các tổ chức GĐTP hoạt động như doanh nghiệp thì e rằng các cơ sở này đặt tiêu chí lợi nhuận lên hàng đầu, khó có thể đạt được mục đích chung. Hơn nữa, không phải cứ thành lập ra là có thể tồn tại. Hiện nay có đến 70-80% các yêu cầu GĐTP được trưng cầu "nội bộ" nghĩa là chủ yếu các cơ quan điều tra trưng cầu các cơ quan GĐTP thuộc ngành công an. Với đầu việc không nhiều, có tổ chức chỉ thực hiện được 5-10 vụ/năm. Vì vậy, dù có "mở cửa đón chào" nhưng chưa chắc chủ trương xã hội hóa sẽ hiệu quả.
Nhìn ngược lại, nhiều chuyên gia nhận xét, nếu luật cho phép bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và luật sư đều có quyền trực tiếp trưng cầu giám định thì nhu cầu của hoạt động này rất lớn. Trong khi đó, số lượng các tổ chức giám định của Nhà nước thì có hạn, nhiều cán bộ còn làm kiêm nhiệm nên không thể đáp ứng hết.
Theo thống kê, cả nước hiện có 3.115 giám định viên, đã lập Viện Pháp y quốc gia, Viện Giám định pháp y tâm thần, 38 trung tâm pháp y, 15 phòng giám định pháp y cấp tỉnh; đã thực hiện gần 440.000 vụ trưng cầu giám định, trong đó giám định kỹ thuật hình sự gần 370.000 vụ, giám định pháp y hơn 50.000 vụ… Mặc dù chia bình quân số vụ việc đều cho các tỉnh thì có thể thấy lượng khách hàng không lớn, nhưng trên thực tế, nhu cầu mỗi nơi rất khác nhau. TP Hồ Chí Minh đang rơi vào cảnh quá tải. Trung bình mỗi giám định viên tư pháp phải thụ lý, giải quyết khoảng 120 vụ/năm. Ở lĩnh vực xây dựng, TP chỉ có ba giám định viên; lĩnh vực văn hóa mới có 13 giám định viên trong khi nhu cầu giám định cao gấp nhiều lần… Ngược lại ở vùng sâu, vùng xa, lượng khách hàng rất ít.
Đại tá Phạm Ngọc Hiền (Phân Viện trưởng Phân viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại TP Hồ Chí Minh) cho rằng công, tư không quan trọng mà chủ yếu là chất lượng công việc. Theo Đại tá Hiền, chúng ta không nên phân biệt tổ chức giám định tư hay công mà hãy xem cùng một nội dung yêu cầu nơi nào làm nhanh hơn, chính xác hơn. Càng có nhiều cơ quan giám định càng tốt vì sẽ tạo ra đối trọng, mục đích cuối cùng là tìm ra chân lý sự việc.
Xác định được vấn đề này cũng sẽ góp phần giải quyết thấu đáo những việc liên quan trong hoạt động GĐTP như vị trí, chế độ, chính sách cho giám định viên… Bởi giám định tư đang như mảnh đất hoang, khi được cạnh tranh sẽ hút người tài đến, chất lượng phục vụ sẽ được nâng lên. Nơi nào làm tốt, nơi đó sẽ có đông đảo "thượng đế" tìm đến, đồng nghĩa với thu nhập ngày càng cao, việc xét xử các vụ án cần kết quả giám định cũng nhanh hơn. Vì mục tiêu trên, ngoài việc mạnh dạn xã hội hóa hoạt động GĐTP song song với đề ra phương án quản lý mô hình này, nên chăng Nhà nước hỗ trợ các cá nhân muốn tham gia bằng cách miễn, giảm thuế, hay tạo điều kiện cho họ thuê nhà, đất làm trụ sở.
3. Trang web Diễn đàn doanh nghiệp có bài Dự thảo nghị định an toàn thực phẩm : “Tréo ngoe” trong quản lý. Bài báo phản ánh: Luật An toàn thực phẩm (ATTP) sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011. Tuy nhiên, dự thảo hướng dẫn luật vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý. Hơn thế, tại Hội nghị lấy ý kiến DN do VCCI phối hợp với Bộ Y tế tổ chức, một số người còn cho rằng văn bản quy phạm pháp luật về ATTP hơn 10 năm qua đang hướng tới việc thống nhất cơ quan quản lý lĩnh vực này, thì dự thảo nghị định hướng dẫn Luật ATTP lại khiến công việc quản lý thêm rối ren.
Trên thực tế, việc phân định trách nhiệm quản lý đối với cơ sở sản xuất sản phẩm thực phẩm rất khó khăn và chồng chéo. Một sản phẩm có thể thuộc nhiều bộ quản lý. Ví dụ nhiều sản phẩm bánh có thành phần thuộc cả Bộ NN-PTNT, Bộ Công Thương và Bộ Y tế cùng quản lý. Do đó, khó có thể biết bộ nào chịu trách nhiệm quản lý ở đây. Ngoài ra, có rất nhiều cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra, xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm: UBND các cấp, thanh tra của các bộ chuyên ngành, quản lý thị trường các cấp. Để tránh tình trạng “cha chung không ai khóc”, các ý kiến đều cho rằng cần phân định rõ trách nhiệm quản lý của từng cơ quan.
Theo ông Nguyễn Tử Cương - GĐ Trung tâm chuyển giao công nghệ và dịch vụ thủy sản VN, nội dung quản lý chất lượng và công bố hợp quy phức tạp nhưng không hiệu quả. Về thời hạn của giấy xác nhận công bố hợp quy và giấy xác nhận đủ điều kiện vệ sinh ATTP, nhiều DN than phiền các mức quy định trong dự thảo (2 năm, 3 năm, 5 năm) là quá ngắn. Hơn nữa, trước khi hết hạn 3 tháng, các đối tượng lại phải nộp một bộ hồ sơ mới với khá nhiều thủ tục.
Theo dự thảo, việc “kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, hộ gia đình, bán hàng rong, kinh doanh thực phẩm bao gói sẵn không yêu cầu điều kiện bảo quản đặc biệt theo qui định” thì không thuộc diện phải cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP. LS Võ Thành Vị - Đoàn luật sư TP HCM cho rằng, việc cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đối với các DN thì phù hợp với quy định hiện hành. Nhưng đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, hộ gia đình, kinh doanh thức ăn đường phố, bán hàng rong thì nhà nước không có đủ lực lượng để kiểm tra và không thể cấp Giấy chứng nhận ATTP theo quy định được. Quản lý Nhà nước về ATTP đối với các đối tượng này chưa quy định, có thể được hiểu là bỏ ngỏ. LS Vị kiến nghị, đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ và hộ gia đình nên giao UBND phường, xã, thị trấn kiểm tra, quản lý. UBND phường, xã, thị trấn buộc các hộ gia đình, cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ làm giấy cam kết về ATTP, dán tại nơi buôn bán.
Luật ATTP có thể đi vào đời sống xã hội hay không lệ thuộc không nhỏ đối với việc ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Đạo luật này chỉ có thể phát huy hiệu quả khi các văn bản hướng dẫn áp dụng dự liệu được các tình huống phát sinh trong thực tiễn để quy định điều chỉnh cho phù hợp.