Điểm tin báo chí sáng ngày 18 tháng 3 năm 2011

18/03/2011
Trong buổi sáng ngày 18/3/2011, một số báo chí đã có bài phản ánh những sự kiện nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:

1. Báo Tuổi trẻ online phản ánh: Trong cuộc họp của Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia hôm 17-3, Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng kết luận người dân được quyền sở hữu, mua bán vàng miếng với một số đầu mối do Ngân hàng Nhà nước cấp phép.

Theo PGS.TS Trần Hoàng Ngân - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, tại buổi họp ngày 17-3 với các thành viên của hội đồng, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đã kết luận như trên. Ông Ngân cho biết: - Tại cuộc họp về thực hiện nghị quyết 11 của Chính phủ về “kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội”, hầu hết ý kiến chuyên gia đều đồng tình quản lý thị trường vàng theo hướng xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do. Điều này là vì quyền lợi người dân, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên thời gian qua, do chưa có đủ thông tin nên một bộ phận người dân hoang mang.

* Ông có thể cho biết hướng quản lý thị trường vàng để bảo vệ quyền lợi của người dân sẽ được thực hiện ra sao?

- Như tôi đã từng nói trên Tuổi Trẻ, xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do đồng nghĩa với việc Nhà nước sẽ xây dựng một thị trường vàng có tổ chức, từ khâu xuất nhập khẩu đến phân phối. Theo kết luận của Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, Nhà nước chỉ định một đầu mối xuất nhập khẩu vàng, đơn vị này sẽ mua/bán vàng với những đơn vị có chức năng kinh doanh vàng miếng để đảm bảo giá trong nước sát giá thế giới. Cần lưu ý rằng hiện nay do cơ chế xuất nhập khẩu vàng chưa hoàn thiện, chủ yếu do vàng lậu chi phối nên giá vàng trong nước luôn cao hơn giá vàng thế giới, thiệt thòi cho người dân.

Về khâu phân phối, Ngân hàng Nhà nước sẽ cấp phép cho một số đầu mối chuyên mua/bán vàng miếng với người dân. Người dân vẫn được quyền sở hữu vàng, nhưng việc mua/bán vàng phải được thực hiện với các đơn vị được cấp phép chứ không mua/bán tại các cửa hàng vàng nhỏ lẻ như hiện nay. Nhà nước cũng sẽ quy định lại, xem kinh doanh vàng miếng là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chỉ đơn vị đáp ứng mới được cấp phép. Do vậy, tới đây các cửa hàng vàng nhỏ lẻ sẽ phải điều chỉnh lại giấy phép kinh doanh, chỉ mua/bán vàng nữ trang, không được mua/bán vàng miếng. Như vậy, theo tôi, việc sở hữu, mua/bán vàng miếng của người dân không có gì thay đổi, chỉ khác là phải mua bán tại các điểm do Nhà nước cấp phép. Đó có thể là công ty vàng bạc, ngân hàng...

2. Báo Thanh niên phản ánh: Ngày 17.3, Bộ Công thương thông báo Ủy ban châu Âu (EC) đã có Thông báo số 2011/C82/04 về việc thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da VN và Trung Quốc sẽ chấm dứt vào ngày 31.3.2011. Tuy nhiên EC cũng quyết định sẽ áp dụng cơ chế giám sát việc nhập khẩu giày mũ da từ VN và Trung Quốc thêm 1 năm nữa để có sẵn số liệu áp dụng cho các biện pháp khẩn cấp nếu cần. Thuế chống bán phá giá áp dụng cho giày mũ da nhập khẩu từ Trung Quốc và VN vào thị trường EU được áp dụng từ tháng 10.2006 với mức thuế tương ứng lần lượt là 16,5% và 10%.

* Hôm qua, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản VN (Vasep) cho biết, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) vừa công bố giảm thuế chống bán phá giá áp dụng cho cá tra nước ta. Theo đó, thuế chống bán phá giá cá tra của một số DN nước ta xuất sang Mỹ từ 1.8.2008 đến 31.7.2009 giảm xuống 0% thay cho đề xuất 130% trước đó. Đây là kết quả cuối cùng của đợt xem xét hành chính lần thứ 6 về thuế chống bán phá giá cá tra. Trong lần quyết định này, DOC đã dựa trên hồ sơ, bằng chứng do phía VN cung cấp.

Báo cũng phản ánh: Nghị quyết 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội được ban hành ngày 24.2 đã có những tín hiệu tích cực bước đầu.

Các doanh nghiệp, trong đó có các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã rà soát lại việc đầu tư ra ngoài lĩnh vực chuyên môn chính, bán lại lượng ngoại tệ thu được cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tiết giảm chi phí, rà soát lại kế hoạch đầu tư, tăng trưởng,… Người dân tiết giảm tiêu dùng, hưởng ứng cuộc vận động “Người VN ưu tiên dùng hàng VN”...

Việc mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do đã giảm hẳn sau việc phối hợp kiểm tra, thanh tra của ngân hàng, các bộ, ngành chức năng và chính quyền các địa phương. Chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức tuy lúc đầu lớn, nhưng nay đã giảm thiểu. Tỷ giá liên NH tăng cao sau ngày 11.2.2011, nhưng đã có một số lần giảm xuống (giảm 5-10 VND/USD). Một lượng ngoại tệ không nhỏ nằm trong dân cũng đã được bán hoặc gửi vào NH. Xuất khẩu 2 tháng đã tăng tới 38,6% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu 2 tháng tăng 25,9% - thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của xuất khẩu. Nhập siêu 2 tháng ở mức 1.878 triệu USD, giảm 501 triệu USD (hay giảm 21,1%) so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ nhập siêu bằng 15,4%, thấp xa với tỷ lệ tương ứng 27,0% của cùng kỳ năm trước và thấp hơn chỉ tiêu cả năm ban đầu 18% cũng như chỉ tiêu điều chỉnh 16% của Nghị quyết 11. Tỷ giá ổn định. Nhập siêu giảm cũng sẽ giảm sức ép đối với nhập khẩu lạm phát, giảm việc khuếch đại lạm phát ở trong nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

Một tín hiệu khả quan khác trên thị trường vàng. Giá vàng trong nước sau khi đạt đỉnh điểm mới (38,5 triệu đồng/lượng) đã giảm trở lại, có lúc chỉ còn 36,8 triệu đồng/lượng; chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng trên thế giới cũng được kéo lại. Một mặt, do tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do đã giảm xuống. Mặt khác, do chủ trương tiến tới xóa bỏ việc mua bán vàng miếng trên thị trường tự do, chỉ tập trung vào một đầu mối, đã làm cho nhu cầu mua vàng miếng (chủ yếu dùng để đầu cơ, tích trữ) giảm xuống, thậm chí nhiều người còn chuyển đổi vàng miếng sang vàng trang sức hoặc bán vàng miếng cho các NH thương mại. 

Tuy nhiên, sự tích cực mới chỉ là tín hiệu và mới là bước đầu. Việc bán vàng miếng ra của người dân còn đang dè dặt; thị trường USD tự do yên ắng, có một phần do còn đang nghe ngóng các động thái kiểm tra, thanh tra, quản lý của các ngành các cấp. Vì vậy, cần phải tiếp tục thực hiện “ba dứt khoát” (không để tỷ giá thả nổi; không thể để tình trạng đô la hóa cứ tiếp tục bất chấp pháp luật; tập đoàn nhà nước phải bán ngoại tệ cho NHNN)... để các biện pháp này phát huy tối đa tác dụng.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:

1. Báo Đại đoàn kết có bài Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia: Thống nhất đầu mối về quản lý lý lịch tư pháp. Bài báo phản ánh: Việc thành lập Trung tâm Lý lịch tư pháp (LLTP) quốc gia và 5 phòng Quản lý LLTP ở 5 thành phố trực thuộc T.Ư được đánh giá là một bước ngoặt mang tính lịch sử trong sự phát triển của thiết chế LLTP. Theo đó, cả nước đã có một đầu mối về quản lý LLTP. Tuy nhiên, để đầu mối này được vận hành trôi chảy không thể thiếu được sự phối hợp giữa các ngành, đặc biệt trong khối tư pháp.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho rằng, việc ra đời Trung tâm LLTP mang lại rất nhiều tiện ích. Trước hết, cả nước đã có một đầu mối theo dõi và cập nhật thông tin LLTP của người dân. Điều đặc biệt hơn Trung tâm sẽ giúp người dân tự động xóa án tích theo quy định của pháp luật, người dân không cần phải yêu cầu cơ quan nào ra quyết định xóa án tích cho mình, trừ các trường hợp không được tự động xóa án tích, mà phải có quyết định của tòa án theo quy định pháp luật. Đồng thời khi Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực và việc ra đời Trung tâm LLTP từ 1-7-2010, thông tin LLTP của những người từ đủ 14 tuổi trở lên sẽ được chuyển cho Trung tâm theo dõi từ đầu, hoàn toàn do Bộ Tư pháp quản lý nên việc cấp phiếu LLTP sẽ nhanh hơn.

Thực tế, sau khi được Chính phủ giao nhiệm vụ quản lý LLTP theo Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22-8-2008, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Công an trong việc cung cấp thông tin từ Hệ thống tàng thư căn cước can phạm của Công an để các Sở Tư pháp cấp phiếu LLTP bước đầu phục vụ kịp thời nhu cầu làm các thủ tục như: xin việc làm, xuất khẩu lao động, du học, thành lập doanh nghiệp, xuất cảnh... Cục trưởng Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an Nguyễn Huy Mạ khẳng định, ngành Công an đã xây dựng hệ thống thông tin LLTP và sẽ tiếp tục làm để giúp đỡ Bộ Tư pháp trong việc quản lý, cấp phiếu LLTP. Để công tác này đạt hiệu quả, hai Bộ cần có sự kết hợp chặt chẽ, phối hợp tốt với Tòa án, Viện Kiểm sát, xây dựng được cơ chế cập nhật thông tin, phân cấp, tránh trùng lắp, tận dụng được kết quả và không hạn chế hiệu quả công việc của nhau, đáp ứng nhanh nhất yêu cầu cấp LLTP của người dân, xây dựng hệ thống tư liệu quốc gia, phục vụ tốt nhất cho công tác quản lý Nhà nước, góp phần phát triển KT-XH, bảo đảm an ninh quốc phòng.

2. Trang web ictnews có bài 100% xã, phường ở Quảng Trị có tủ sách pháp luật. Bài báo phản ánh: Theo thông tin của Sở Tư pháp Quảng Trị, tất cả 141 xã, phường và thị trấn ở Quảng Trị đã xây dựng được tủ sách pháp luật. Bằng việc thường xuyên bổ sung đầu sách của Sở Tư pháp, tương ứng với số tiền 2 triệu đồng/tủ sách/năm, đến nay tất cả 141 xã, phường và thị trấn tại tỉnh Quảng Trị đã xây dựng được tủ sách pháp luật. Các danh mục sách hay, quy định mới, luật sửa đổi, bổ sung có liên quan mật thiết đến đời sống người dân thường xuyên được bổ sung cho tủ sách. Nhờ đó, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật với người dân được tăng cường.

3. Báo Nhà báo và công luận có bài Thái Nguyên: Án dân sự sơ thẩm bị ‘vật ra’ xử phúc thẩm. Bài báo phản ánh: Đang thi hành bản án dân sự sơ thẩm số 45/DSST ngày 26/11/2009, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) TP Thái Nguyên bỗng nhận được văn bản của TAND tỉnh Thái Nguyên do đích thân ông Chánh án Nhữ Văn Tâm ký… Theo đó, ông Chánh án yêu cầu Chi cục THADS TP Thái Nguyên hoãn thi hành bản án nói trên trong thời hạn 3 tháng, để xem xét việc... kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (!?).

Bản án dân sự số 45 nói trên chỉ vỏn vẹn 3 trang giấy, có nội dung: Chị Đinh Thu Thủy vay 500 triệu đồng của anh Trần Văn Toản, thời hạn trả 3 tháng. Đến ngày 17/10/2008, chị Thủy vay tiếp của anh Toản 300 triệu đồng, hẹn đến ngày 17/11/2008 trả. Vì chị Thủy không trả nợ đúng hẹn, anh Toản đã làm đơn khởi kiện ra TAND TP Thái Nguyên. Ngày 26/11/2009, TAND TP Thái Nguyên đưa vụ án này ra xét xử, tuyên: buộc chị Thủy phải thanh toán cho anh Toản 887 triệu đồng (cả gốc và lãi); Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (phong tỏa tài sản nhà đất của chị Thủy) đến khi chị Thủy thi hành xong khoản tiền trên đối với anh Toản.

Trao đổi với PV, một lãnh đạo Chi cục THADS TP Thái Nguyên bức xúc: “15 năm làm THA, đây là lần đầy tiên tôi gặp trường hợp như thế này. Chúng tôi tôn trọng nhau thôi, chứ THA đã ra lệnh cưỡng chế rồi. THA chờ Toà xét xử phúc thẩm, còn chúng tôi vẫn thi hành bản án…”. Theo quan điểm của vị cán bộ Chi cục THADS TP Thái Nguyên này, chị Thuỷ không có kháng cáo (vì không nộp dự phí kháng cáo trong vòng 15 ngày cho cơ quan THA). “Đối chiếu theo pháp luật, tôi không biết họ (TAND tỉnh Thái Nguyên - PV) xử theo kiểu gì. Nếu xử phúc thẩm phải có kháng cáo. Bây giờ đang thi hành bản án, mà lại bảo xét xử phúc thẩm. THA cũng có công văn tới TAND tỉnh Thái Nguyên đề nghị xem xét việc xét xử phúc thẩm bản án này. Văn bản của ông Tâm là căn cứ để xét xử giám đốc thẩm, chứ không phải là phúc thẩm” - Vị lãnh đạo THADS TP Thái Nguyên nêu chính kiến.

Trước phiên xét xử sắp diễn ra trong nay mai, Chánh tòa Dân sự TAND tỉnh Thái Nguyên giải thích với PV rằng: Vụ này trước đây TAND TP Thái Nguyên giải quyết. Sau đó chị Thuỷ kháng cáo, nhưng không rõ nội dung kháng cáo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với nhà đất của chị nên chúng tôi trả hồ sơ về TAND TP Thái Nguyên để làm rõ nội dung kháng cáo này. Chị Thuỷ kháng cáo nội dung quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì cấp phúc thẩm không có thẩm quyền để xem xét. Nhưng nếu chị Thuỷ kháng cáo bản án thì Toà cấp phúc thẩm xem xét. Sau đó Toà TP làm rõ chị Thuỷ kháng cáo toàn bộ bản án. Do vậy hồ sơ chuyển lên cấp phúc thẩm xem xét giải quyết. Khi PV hỏi về công văn hoãn THA của ông Chánh án Nhữ Văn Tâm, bà Chánh toà Dân sự đáp: “Tôi không thể giải thích được, cái này để lãnh đạo cơ quan trả lời” (!?). Các bên liên quan, đặc biệt là Chi cục THADS TP Thái Nguyên đang chờ xem trong phiên xét xử phúc thẩm tới, HĐXX sẽ căn cứ vào văn bản nào, điều luật nào để mở phiên toà này. NB&CL sẽ theo dõi và tiếp tục thông tin đến bạn đọc.

4. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Hết "cửa" kêu oan vì VKSND tối cao làm sai (kỳ 3). Bài báo phản ánh: Theo Luật tổ chức VKSND thì VKS các cấp có thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra các cấp. Theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự thì các hoạt động của cơ quan điều tra đều chịu sự kiểm sát của VKS. Thậm chí, những quyết định của CQĐT mà VKS phê chuẩn thì VKS phải chịu trách nhiệm cùng cơ quan điều tra.

Theo Bộ luật tố tụng hình sự,VKS còn là cơ quan công tố, thực hiện việc truy tố bị can trước tòa án. Kiểm sát viên là người thực hiện quyền công tố, vừa là người “kiểm sát” hoạt động của điều tra viên. Nhưng, việc thực thi quyền lực của kiểm sát viên thì lại không có ai kiểm sát. Trong một vụ án, kiểm sát viên vừa là “cầu thủ” vừa là… “trọng tài”. Vì lý do này mà hầu hết các sai phạm của điều tra viên không được cơ quan kiểm sát điều tra xử lý. Trong vụ án Vũ Đắc Lý, Nguyễn Văn Lượng, khi đã phê chuẩn quyết định khởi tố và tạm giam thì VKSND tối cao là một phần của sai phạm. Vậy, ai kiểm sát và kiến nghị xử lý những sai phạm của cơ quan có chức năng “kiểm sát điều tra”.

Gần đây, vụ án Nguyễn Văn Thắng bị VKS huyện Mỹ Đức truy tố về tội “trộm cắp tài sản” cũng có sự “đồng lõa” của VKS đối với các sai phạm của CQĐT. Tại tòa, các nhân chứng đã “tố” điều tra viên dựng lời khai của họ, ghi lời khai không đúng sự thật. Lẽ ra, với vai trò là cơ quan kiểm sát điều tra, VKS phải “nhận trách nhiệm” về việc làm sai đó của điều tra viên. Nhưng, VKS đã không có ý kiến gì mà tiếp tục sử dụng chứng cứ được thu thập bất hợp pháp để buộc tội người bị truy tố. Việc VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà không có cơ quan nào kiểm tra, giám sát và tình trạng các quyết định của VKSND tối cao lại “miễn dịch” với khiếu nại đã khiến cho quyền lực của VKS trong tố tụng hình sự trở thành tuyệt đối. Đây là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng lạm dụng quyền lực tố tụng và oan sai trong tố tụng hình sự. Điều này phải sớm được chấm dứt.

Báo cũng có bài “Không nên “hạ thấp” giá trị của Giấy khai sinh”. Bài báo phản ánh: Báo Pháp luật Việt Nam thời gian qua có đăng một số bài về sửa đổi Nghị định 158 về đăng ký và quản lý hộ tịch, trong đó có đề cập vấn đề có nên giữ ổn định hồ sơ giấy tờ cá nhân trong khi các dữ liệu khác với giấy khai sinh bản chính. Sau khi báo đăng, chúng tôi nhận được nhiều ý kiến phản hồi khác nhau. Số ra kỳ này xin giới thiệu bài viết của ông Trần Việt Hưng, Phó Giám đốc Sở Tư pháp Hòa Bình.

Việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 158/CP là cần thiết nhưng phải bảo đảm các giấy tờ hộ tịch nói chung và Giấy khai sinh nói riêng được tôn trọng đúng với giá trị pháp lý vốn có của nó, không vì bất cứ một lý do để hạ thấp giá trị. Do đó, cần có sự nhất quán trong quan điểm khi sửa đổi nội dung này, không thể bị động vì tình hình thực tiễn khi mà lỗi không thuộc về quy định của pháp luật. Vậy nên, nếu quy định như dự thảo (không cải chính ngày tháng, năm sinh đã ghi trong giấy khai sinh… đối với trường hợp là cán bộ, công chức; cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang mà hồ sơ đã ổn định về ngày tháng năm sinh; trường hợp đã đăng ký quá hạn hoặc đăng ký lại việc sinh theo nguyên tắc xác định nội dung khai sinh theo giấy tờ được lập đầu tiên -  TS), sẽ nẩy sinh các vấn đề: (1) hạ thấp giá trị pháp lý của Giấy khai sinh đồng nghĩa với việc hạ thấp phần nào đó giá trị lao động của công chức công tác trong ngành Tư pháp, nhất là ở cơ sở; (2) tạo thêm áp lực rất lớn cho cơ quan, công chức Tư pháp ở cơ sở khi giải quyết các trường hợp này, trong khi đang bị áp lực do phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ theo quy định hiện hành; (3) tiếp tục tạo kẽ hở pháp luật cho những cá nhân lợi dụng để sửa đổi hồ sơ cá nhân (thậm chí là vi phạm có chủ ý và có hệ thống); (4) mặc dù rất cá biệt, nhưng sẽ giúp cho một số đối tượng thoát khỏi những hình phạt của pháp luật nhất là về trách nhiệm hình sự; và (5) - chưa đáp ứng được yêu cầu về hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này.

Để góp phần hoàn thiện Nghị định 158 sửa đổi, bổ sung, tôi kiến nghị: Một là, để nâng cao ý thức của nhân dân trong việc đăng ký, quản lý và sử dụng giấy tờ hộ tịch nói chung và Giấy khai sinh nói riêng, đề nghị giữ nguyên quy định cũ, các trường hợp nêu trên phải thực hiện đăng ký cải chính hộ tịch cho phù hợp với Giấy khai sinh, không tạo thêm sơ hở trong các quy định của Nghị định 158 sau khi được sửa đổi, bổ sung.

Hai là, để tạo điều kiện cho những người có hồ sơ đầy đủ, thống nhất về dữ liệu, cần quy định tại Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc bằng một văn bản quy phạm khác của Chính phủ cho phép những trường hợp này được quyền thực hiện thay đổi, cải chính hộ tịch trong thời hạn nhất định. Ví dụ: “Trong thời hạn 01 năm, kể từ khi Nghị định này có hiệu lực pháp luật, các trường hợp có giấy tờ, hồ sơ  thống nhất về dữ liệu nhưng không khớp với khai sinh gốc, có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tại nơi cư trú để cải chính hộ tịch theo quy định, sau  thời hạn trên, cơ quan có thẩm quyền sẽ không giải quyết”.

Ba là, việc sửa đổi, bổ sung lần này chỉ tập trung vào những vấn đề thật bức xúc, nổ cộm, thì theo tôi đây là thời điểm thích hợp để động viên, giải tỏa tâm lý và tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của công chức hộ tịch trong những năm qua đã công hiến cho ngành Tư pháp, đồng thời “giữ chân” được những công chức giỏi, có tâm huyết với ngành. Do đó, nên xây dựng quy định về chức danh “Hộ tịch viên” trong Nghị định 158 sửa đổi, bổ sung, tạo tiền đề cho việc xây dựng Luật Hộ tịch sau này.

Bốn là, sửa đổi, bổ sung mức phạt tiền tại Nghị định 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, phần xử phạt đối với công tác quản lý hộ tịch theo hướng tăng lên gấp 3 hoặc 4 lần, nhằm tạo tính răn đe và nâng cao ý thức của người có yêu cầu thực hiện trong lĩnh vực này.