Điểm tin báo chí sáng ngày 05 tháng 02 năm 2010

05/02/2010
Trong buổi sáng ngày 05/02/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Chiều qua 4-2, thông tin từ Bộ TT-TT cho biết, bộ đã gửi văn bản trả lời Viettel về đề xuất giảm cước dịch vụ di động từ ngày 1-2 của doanh nghiệp này. Theo đó, Bộ TT-TT chưa đồng ý với phương án này trước Tết Canh Dần. Trước đó, Vụ Viễn thông (Bộ TT-TT) đã báo cáo lãnh đạo bộ về vấn đề xin giảm cước của các mạng di động và cho rằng, nếu để “cuộc chiến” về giá cước nổ ra trong thời điểm này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới thị trường, nhất là sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ, mới tham gia thị trường này.
Bộ TT-TT cũng không đồng ý phương án giảm cước của 2 mạng VinaPhone và MobiFone do VNPT trình lên. Bộ cũng yêu cầu, các mạng cần phải tập trung vào chất lượng dịch vụ, chăm sóc khách hàng và nhất là phòng chống nghẽn mạng trong dịp tết này. Cùng với việc trình phương án giảm cước lên Bộ TT-TT để xin ý kiến, ngày 27-1, Viettel đã công bố sẽ giảm cước dịch vụ di động từ 1-2, với mức giảm trung bình 15%, trong đó mức giảm cao nhất lên tới 20%. Sau đó, ngày 29-1, VNPT cũng đã trình lên Bộ TT-TT phương án giảm cước cho 2 mạng VinaPhone và MobiFone với mức giảm tương đương Viettel.
Một số nguồn tin từ Bộ TT-TT cho hay, bộ đang xem xét để xử lý trường hợp Viettel, khi chưa có ý kiến của bộ đã sớm công bố phương án giảm cước của mình.
2. Theo chinhphu.vn, trong hai ngày 3 và 4-2, tại trụ sở Trung ương Đảng, Tiểu ban Tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 đã tổ chức hội nghị tiếp thu ý kiến đóng góp của các đồng chí nguyên là lãnh đạo cấp cao của Đảng, nhà nước về dự thảo Báo cáo Chính trị sẽ trình Đại hội lần thứ XI của Đảng.
Nhiều ý kiến sâu sắc, tâm huyết đóng góp cho dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI của Đảng, trong đó tập trung vào các nội dung: Đánh giá tổng quát tình hình năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế...
Phát biểu kết luận hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cám ơn các đồng chí lão thành cách mạng đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đóng góp nhiều ý kiến vào nhiều vấn đề trong dự thảo Báo cáo Chính trị. Tiểu ban sẽ tiếp thu tối đa những ý kiến đóng góp để hoàn thiện dự thảo Báo cáo Chính trị này.
3. Báo Thanh niên phản ánh: 71% doanh nghiệp vừa và nhỏ VN tin rằng tốc độ tăng trưởng GDP trong 6 tháng tới sẽ cao hơn năm 2009, theo một khảo sát mới đây của Ngân hàng HSBC. Khối doanh nghiệp này cũng lạc quan hơn khi đề cập đến kế hoạch đầu tư và tuyển dụng nhân sự, với 66% đang lên kế hoạch tăng vốn đầu tư, 54% sẽ bắt đầu tuyển dụng trở lại...
Chỉ số tin tưởng của doanh nghiệp vừa và nhỏ VN tăng 10 điểm, lên 160 điểm so với khảo sát giữa năm 2009, trở thành nước có chỉ số lạc quan cao nhất châu Á, trên Ấn Độ (132), Singapore (117). Cuộc khảo sát lần này được HSBC thực hiện tại 20 thị trường ở châu Á, Trung Đông, châu Âu, Bắc Mỹ và Mỹ Latin.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuyên Quang phản ánh: Ngày 2/2, Bộ Tư pháp phối hợp với UBND tỉnh Tuyên Quang tổ chức khởi công xây dựng công trình khu di tích lịch sử Bộ Tư pháp tại thôn Mới, xã Minh Thanh (Sơn Dương). Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (từ 1949-1950) Bộ Tư pháp đã đóng trụ sở làm việc tại đây.
Khu di tích Bộ Tư pháp nằm trong quần thể khu di tích lịch sử Tân Trào được xây dựng trên diện tích hơn 5.000 m², gồm các hạng mục nhà bia trung tâm, khu nhà khách 2 tầng, sân hành lễ, khuôn viên cây xanh và đập tràn qua suối Lê... Công trình do Văn phòng Bộ Tư pháp làm chủ đầu tư. Đây là công trình chào mừng kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống ngành tư pháp Việt Nam (28/8/1945 – 28/8/2010). Các đơn vị thi công phấn đấu hoàn thành công trình trong tháng 8/2010.
Đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Chẩu Văn Lâm đã bày tỏ sự biết ơn đối với cán bộ, công chức ngành tư pháp dành cho quê hương cách mạng. Công trình không chỉ có ý nghĩa giáo truyền thống, lý tưởng cách mạng cho nhân dân mà còn thu hút khách thập phương tham quan khu di tích, góp phần đẩy mạnh phát triển du lịch dịch vụ ở địa phương. UBND tỉnh cam kết phối hợp với đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ xây dựng để công trình hoàn thành đúng thời gian đã đề ra.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài GIÁM ĐỊNH CHỨNG CỨ: Bên đòi bản chính, bên chìa bản sao. Bài báo phản ánh: Sau hơn hai năm tắc tị, cơ quan giám định đã có hướng xử lý. Phòng Kỹ thuật hình sự sẽ cử giám định viên đến các phòng công chứng để đối chiếu, sao chụp tài liệu. Chỉ vì gặp vướng mắc ở khâu giám định mà hơn năm nay bà Nguyễn Thị Phăng vẫn chưa được cơ quan chức năng làm rõ đúng sai trong vụ tranh chấp căn nhà số 6/29 Thống Nhất, quận Gò Vấp, TP.HCM.
Căn nhà trên nguyên thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà Phăng. Năm 2001, vợ chồng bà cho con trai dọn về ở chung. Cuối năm 2008, bà Phăng nghe người quen nói căn nhà của bà đã được bán cho người khác. Liên hệ với Phòng Tài nguyên và Môi trường quận, bà mới biết căn nhà đã được sang tên cho người con theo hợp đồng tặng cho nhà ký năm 2004 tại Phòng Công chứng số 5. Đầu năm 2008, căn nhà đó lại được sang tên cho người khác. Bà Phăng rất bất ngờ với thông tin trên. Bởi lẽ vào năm 2004, bà đang ở quê xây mộ cho người thân nên không thể đến phòng công chứng lập hợp đồng tặng cho nhà. Ngoài việc khiếu nại đến phòng công chứng, bà Phăng còn tố cáo người con đến Công an quận Gò Vấp về hành vi giả mạo chữ ký để chiếm nhà.
Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp quyết định không khởi tố vụ án. Bởi theo kết luận giám định năm 2008 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.HCM, dấu vân tay trong hợp đồng tặng cho nhà trùng với dấu vân tay của vợ chồng bà Phăng.
Không đồng ý với kết luận này, bà Phăng đã khởi kiện đến TAND quận Gò Vấp. Đồng thời, bà cũng nộp chi phí giám định dấu vân tay cùng chữ ký trong hợp đồng. Nhưng sau đó cơ quan giám định đã từ chối thực hiện yêu cầu giám định của tòa án, viện lẽ không thể tiến hành giám định trên bản sao. TAND quận Gò Vấp đã yêu cầu Phòng Công chứng số 5 cung cấp bản chính hợp đồng để tiện việc giám định nhưng cơ quan này lại từ chối. Lý do: Theo khoản 3 Điều 54 Luật Công chứng năm 2006, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho việc xét xử liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản công chứng. Việc đối chiếu bản sao văn bản công chứng với bản chính chỉ được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ công chứng.
Việc từ chối nêu trên không sai nhưng phải làm sao để quyền lợi của bà Phăng được đảm bảo? Ông Đỗ Hà Hồng, Trưởng Phòng Công chứng số 5, cho biết: “Theo luật định, bản chính hợp đồng công chứng phải được lưu trữ tại kho và phòng không được quyền cung cấp bản chính cho tòa án. Chúng tôi đang chờ ý kiến chỉ đạo của Sở Tư pháp TP.HCM”.
Ông Trần Văn Bảy, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp TP.HCM, cho biết: “Ngoài trường hợp của bà Phăng thì vào tháng 7-2007, Công an quận 10 cũng có công văn mượn tài liệu bản chính tại Phòng Công chứng số 2 để giám định nhưng phòng này cũng không thể đáp ứng”.
Để hỗ trợ các cơ quan tố tụng, ngày 31-12-2009, Sở Tư pháp đã có công văn yêu cầu Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.HCM cho biết có thể thực hiện việc giám định dấu vân tay, chữ viết, chữ ký trên bản sao công chứng hay không. Cơ quan này cho biết: Nếu bản sao văn bản công chứng không thể hiện rõ đường vân của dấu vân tay, nét chữ viết mờ nhòe… thì không đủ cơ sở để giám định. Vì vậy, để bảo đảm chất lượng tài liệu giám định, Phòng Kỹ thuật hình sự sẽ cử giám định viên đến các phòng công chứng để đối chiếu, sao chụp lại”.
3. Báo điện tử Vneconomy.vn có bài Cần có Luật Kiểm toán độc lập. Bài báo phản ánh: Kiểm toán độc lập là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường với vai trò mang lại độ tin cậy cho các thông tin tài chính thông qua các báo cáo tài chính đã được kiểm toán, qua đó tạo cơ sở cho các bên tiến hành các giao dịch kinh tế.
Kiểm toán độc lập ở Việt Nam hình thành và phát triển bằng việc thành lập công ty kiểm toán đầu tiên vào tháng 5/1991. Sau 18 năm hoạt động với những thay đổi và yêu cầu mới về kiểm toán độc lập ở Việt Nam, trong yêu cầu hội nhập và thực hiện các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì khung pháp lý về kiểm toán độc lập tại Việt Nam cần được hoàn thiện và nâng cấp.
Đánh giá về khung pháp lý của hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam, bà Hà Thị Thu Thanh - Tổng giám đốc Công ty TNHH Deloitte Việt Nam, nói:
- Sau 18 năm hoạt động, kiểm toán độc lập đã phát triển nhanh về số lượng và quy mô cũng như nâng cao năng lực chuyên môn, chất lượng dịch vụ cung cấp. Đến nay cả nước đã có 165 doanh nghiệp dịch vụ kế toán, kiểm toán với trên 6.400 người làm việc, có gần 1.500 người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Được hình thành và phát triển từ năm 1991 nhưng đến năm 1994 thì Chính phủ mới chính thức ban hành Nghị định 07/CP ngày 29/01/1994 về “kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”. Sau 10 năm thực hiện Nghị định 07, đến tháng 3/2004 Chính phủ ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP thay thế Nghị định 07. Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung tại các Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 và Nghị định 30/2009/NĐ-CP ngày 30/03/2009.
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thị trường dịch vụ tài chính và kiểm toán độc lập trong mấy năm gần đây, hiện Nghị định 105 cho thấy còn có những hạn chế. Bởi vì Nghị định về kiểm toán độc lập chưa tương xứng với vai trò, vị trí hoạt động kiểm toán độc lập trong nền kinh tế. Hiện nay mới chỉ có nghị định là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh các vấn đề về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán, khách hàng, đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả kiểm toán,…nên không đảm bảo được hiệu lực pháp lý đầy đủ để những tổ chức, cá nhân có liên quan thực thi quyền và trách nhiệm của mình.
Theo kinh nghiệm của bà, thực tế ban hành luật kiểm toán độc lập ở các nước hiện nay như thế nào?
Tất cả các nước phát triển như Anh, Mỹ, Canada, cộng đồng châu Âu đều có luật hoặc các điều khoản luật về kiểm toán độc lập hoặc luật kế toán viên công chứng. Ví dụ tại Anh, Mỹ, việc quy định về báo cáo tài chính và kiểm toán được quy định cụ thể trong 1 chương của Luật Công ty. Tại Liên bang Nga có Luật Kiểm toán được Hội đồng Liên bang phê duyệt từ năm 2001. Ở Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore đều có Luật Kế toán viên công chứng được ban hành từ nhiều năm qua trong đó đều có các qui định chung về các qui tắc hoạt động của các kế toán viên công chứng.
Luật Kiểm toán viên công chứng của Trung Quốc được ban hành nhằm qui định vai trò của kế toán viên công chứng (CPA)- các kiểm toán viên độc lập - trong nền kinh tế và xã hội, tăng cường quản lý hoạt động của kiểm toán độc lập, qua đó bảo vệ lợi ích của cộng đồng cũng như quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Còn Luật Kiểm toán viên Công chứng của Hàn Quốc được ban hành nhằm xây dựng vững chắc một hệ thống cho các kế toán viên công chứng nhằm góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích của người dân, quản lý tốt các doanh nghiệp, và phát triển nền kinh tế quốc gia.
Từ thực tiễn ở Việt Nam và kinh nghiệm của thế giới, bà có thể cho biết tại sao Việt Nam cần ban hành Luật kiểm toán độc lập?
Việc ban hành Luật kiểm toán độc lập trong bối cảnh hiện nay là cần thiết, khách quan trên các phương diện sau: Thứ nhất, việc ban hành luật sẽ tạo ra một khung pháp lý cao nhất về kiểm toán độc lập, luật này nếu được ban hành sẽ khắc phục được những hạn chế của Nghị định 105/2004/NĐ-CP về kiểm toán độc lập, tạo điều kiện cho dịch vụ kiểm toán phát triển cả về quy mô cũng như chất lượng.
Thứ hai, luật này sẽ quy định các nội dung chặt chẽ hơn về điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán, điều kiện để cấp chứng chỉ kiểm toán viên, điều kiện hành nghề kiểm toán,… quy định về các nguyên tắc kiểm toán, nội dung kiểm toán, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán, của kiểm toán viên hành nghề và các điều bị cấm, hạn chế để đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ và tính độc lập của ngành nghề này. Những nội dung đó là hết sức cần thiết, nhằm điều chỉnh các hành vi của doanh nghiệp kiểm toán, kiểm toán viên trong suốt quá trình hoạt động. Đó cũng là tiêu chí, điều kiện để cơ quan quản lý nhà nước giám sát chất lượng đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý. Tôi cho rằng việc ban hành khuôn khổ pháp lý cao, chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho công tác giám sát chất lượng, phòng ngừa những thiệt hại có thể xảy ra với nền kinh tế cũng như các doanh nghiêp và các nhà đầu tư.
Thứ ba, việc ban hành Luật kiểm toán độc lập sẽ nâng cao vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động doanh nghiệp kiểm toán, cấp chứng chỉ kiểm toán viên và các biện pháp nhằm nâng cao năng lực giám sát, cưỡng chế thực thi, xử lý vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán.
Thứ tư, Luật kiểm toán độc lập ra đời sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với dịch vụ kiểm toán, trong đó có doanh nghiệp có lợi ích công chúng bắt buộc phải kiểm toán. Đồng thời cũng đáp ứng được yêu cầu hội nhập trong lĩnh vực này. Hiện nay trong các cam kết quốc tế như WTO, ASEAN… lĩnh vực dịch vụ kiểm toán đã mở cửa không hạn chế. Việc ban hành Luật kiểm toán độc lập sẽ xác lập vị trí pháp lý tương đồng với quốc tế nhằm thúc đẩy hội nhập trong lĩnh vực này, đồng thời có đầy đủ quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hành vi.
Kế hoạch xây dựng dự thảo Luật kiểm toán độc lập hiện nay theo bà biết sẽ theo lộ trình như thế nào?
Theo thông tin từ Bộ Tài chính, trong tháng 4 năm nay Bộ này sẽ trình Chính phủ phê duyệt Dự án xây dựng Luật Kiểm toán độc lập. Nếu Chính phủ phê duyệt thì đến tháng 11 năm nay, dự luật này sẽ được trình ra Ủy ban thường vụ Quốc hội phê duyệt để có thể đưa vào kế hoạch ban hành trong năm 2011.
4. Báo Đầu tư có bài Cần chuyển đổi DNNN đúng hạn. Bài báo phản ánh: Ông Trần Tiến Cường, Trưởng ban Nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) khẳng định, phải rất quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện, thì mới có thể hoàn tất quá trình chuyển đổi các công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên trước thời điểm 1/7/2010.
Thưa ông, sức ép dường như đang đè nặng lên vai cơ quan soạn thảo Dự thảo Nghị định về việc chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, bởi chỉ còn gần 5 tháng nữa, các công ty nhà nước sẽ phải hoàn tất việc chuyển đổi theo luật định?
Cơ quan soạn thảo đang khẩn trương hoàn tất các bước cuối cùng để có thể trình Chính phủ ban hành Nghị định ngay trong tháng 2 này. Cũng phải nói thêm rằng, đây là Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 95/2006/NĐ-CP ngày 8/9/2006 về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên, chứ không phải là Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung. Nguyên nhân là, Nghị định 95/2006/NĐ-CP không quy định việc quản lý các công ty sau chuyển đổi và hơn nữa, trong quá trình thực hiện nghị định này, đã bắt đầu nảy sinh nhiều điểm không còn phù hợp.
Do sức ép về thời gian phải chuyển đổi tất cả các công ty nhà nước còn lại, nên trong Dự thảo Nghị định lần này, cơ quan soạn thảo đã bổ sung một loạt đối tượng doanh nghiệp sẽ chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên, như tổng công ty nhà nước; công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước; công ty mẹ trong trong mô hình công ty mẹ - công ty con; tổng công ty thuộc tập đoàn kinh tế nhà nước; công ty nông nghiệp; công ty lâm nghiệp; các nông, lâm trường quốc doanh...
Có vẻ như, tất cả các quy định đó đều nhằm mục tiêu cuối cùng là có thể hoàn tất việc chuyển đổi các công ty nhà nước sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, nên các điều kiện, thủ tục chuyển đổi có phần đơn giản hơn?
Dự thảo Nghị định mới không quy định về mức vốn điều lệ khi chuyển đổi như ở Nghị định 95/2006/NĐ-CP. Vấn đề xử lý lao động dôi dư, tài chính... cũng có những quy định phù hợp hơn, nhất là với các công ty trong diện sẽ được cổ phần hóa. Quy định như vậy để vừa rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí khi chuyển đổi, vừa đảm bảo nguyên tắc mỗi công ty khi chuyển đổi chỉ xử lý một lần với số lao động dôi dư, tài chính, đất đai... Tạm thời, các công ty thuộc diện cổ phần hóa mà chưa thực hiện xong khâu xác định giá trị doanh nghiệp, thì cứ chuyển thành công ty TNHH một thành viên, sau thời điểm 1/7/2010 mới cổ phần hóa. Với những đơn vị đã xác định xong giá trị doanh nghiệp, sẽ đẩy nhanh và tiếp tục thực hiện cổ phần hóa.
Nhưng còn tới 1.500 công ty đang chờ được chuyển đổi. Liệu thời gian gần 5 tháng còn lại có đủ kịp để thực hiện công việc quan trọng này?
Dự thảo Nghị định lần này có thể ví như một con thuyền đưa các công ty nhà nước chuyển từ hoạt động theo quy định tại Luật Doanh nghiệp nhà nước sang Luật Doanh nghiệp. Không thể quay lại “nhà” cũ, nên buộc họ phải nỗ lực cố gắng để có thể chuyển sang “nhà” mới. Quả thực, thời gian còn lại là rất ngắn và từ nhiều năm trước, tôi đã cảnh báo điều này. Về phía cơ quan soạn thảo Nghị định đã rất cố gắng trong một thời gian rất ngắn thực hiện hàng loạt công việc để có thể hoàn tất Dự thảo Nghị định. Phần còn lại thuộc về sự chỉ đạo thực hiện từ các cơ quan nhà nước và sự nỗ lực của các doanh nghiệp.
Nhưng giả sử không kịp chuyển đổi, giải pháp cần thiết sẽ là gì, thưa ông?
Có lẽ, sẽ phải kiến nghị Quốc hội có Nghị quyết về việc kéo dài thời hiệu của Luật Doanh nghiệp nhà nước. Nhưng tôi hy vọng, nhận thức rõ yêu cầu cấp bách này, cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp sẽ quyết liệt trong chỉ đạo cũng như thực hiện để có thể chuyển đổi đúng thời hạn.
Một điều luôn được nhắc tới là nhanh, nhưng không được thiếu cẩn trọng trong việc chuyển đổi...?
Quan điểm thống nhất của chúng tôi là dù có sức ép về thời gian, nhưng không thể bỏ qua yêu cầu về chất lượng. Chính vì thế, Dự thảo Nghị định lần này có nhiều quy định mà Nghị định 95/2006/NĐ-CP chưa có, như các quy định về quản lý, giám sát của chủ sở hữu nhà nước, trách nhiệm của từng thành viên Hội đồng Thành viên, kiểm soát viên, tổng giám đốc, giám đốc... Những điểm khác biệt này sẽ tạo sức ép, khiến chủ sở hữu và lãnh đạo doanh nghiệp có trách nhiệm hơn với đồng vốn của Nhà nước... Và như vậy, việc chuyển đổi sẽ đảm bảo được cả yếu tố hình thức lẫn nội dung, cả sức ép thời gian và chất lượng chuyển đổi.


File đính kèm