I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa yêu cầu 14 bộ và 3 cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cần nghiêm túc rút kinh nghiệm vì chưa thực hiện đúng ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng về việc tổng hợp danh mục thủ tục hành chính (TTHC) thuộc phạm vi chức năng quản lý. Các bộ, cơ quan phải rút kinh nghiệm gồm: Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước, Bộ NN-PTNT, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ LĐTB-XH, Bộ GD-ĐT, Bộ KH-ĐT, Bộ Y tế, Bộ VH-TT-DL, Bộ Tư pháp, Bộ Công thương, Bộ TT-TT, Bộ TN-MT, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban Dân tộc. Trước đó, tại công văn số 8818/VPCP-TCCV, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giao các bộ, cơ quan trên tổng hợp danh mục TTHC thuộc phạm vi chức năng quản lý của mình, trong đó phân định rõ các TTHC được giải quyết tại các cấp chính quyền. Công việc này phải hoàn thành trước 15-12-2010.
Riêng đối với Bộ Khoa học - Công nghệ, Thủ tướng yêu cầu rút kinh nghiệm về việc công bố mô hình khung hệ thống quản lý chất lượng cho các loại hình cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương trước khi có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình xây dựng mô hình. Đồng thời chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tập trung chỉnh sửa, hoàn thiện mô hình khung hệ thống quản lý chất lượng cho các cơ quan hành chính địa phương và công bố sửa đổi, bổ sung trước ngày 25-3-2011...
2. Báo Thanh niên phản ánh: Dù Bộ Công thương và Petrolimex (doanh nghiệp nắm giữ 60% thị phần xăng dầu) khẳng định nguồn cung xăng dầu không hề thiếu, song hàng loạt cây xăng trên cả nước vẫn đóng cửa, nghỉ bán hoặc bán nhỏ giọt, thậm chí tự động tăng giá bán trái phép. Nguyên nhân nguồn cấp xăng cho đại lý bị đứt đoạn do chính một số đầu mối dừng nhập, giảm nhập để tránh lỗ hoặc găm hàng chờ giá tăng.
Chiều 21.2, ông Nguyễn Lộc An - Phó vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước - Bộ Công thương đã khẳng định: “Qua kiểm tra các thương nhân đầu mối nhập khẩu xăng dầu thì có rất nhiều đầu mối nhập hàng vượt hạn ngạch đăng ký, thậm chí có đơn vị nhập khẩu xăng vượt đến 131%. Vì vậy không lo thiếu xăng". Câu hỏi đặt ra là xăng dầu đang "tắc" ở đâu? Một cán bộ QLTT TP sau khi đi thực tế kiểm tra các cây xăng ngưng bán đã kết luận: “Vấn đề nằm ở chỗ nguồn cung cấp xăng dầu bị đứt. Vì vậy, phải làm rõ vì sao đầu mối xăng dầu vẫn cung cấp hàng đầy đủ nhưng xăng lại không “chảy” đến trạm xăng bán lẻ?”.
Cụ thể hơn, theo ông Vương Thái Dũng, Phó tổng giám đốc Petrolimex: “Dù pháp luật quy định một đại lý chỉ ký hợp đồng đại diện cho một đầu mối xăng dầu, nhưng thực tế nhiều đại lý bán hàng của nhiều đầu mối khác nhau. Ví dụ mỗi tháng họ mua của Petrolimex 10 khối, còn lại mua của các đầu mối khác, có thể vì hiện giờ tình hình nguồn cung của các đầu mối khác khó khăn, nên họ đòi mua của Petrolimex nhiều hơn, nhưng chúng tôi chỉ bán theo hợp đồng đã ký, dẫn tới khan hàng, đóng cửa”. Ông Dũng cho rằng, với 40% thị phần xăng dầu chia đều cho 10 đầu mối nhập khẩu xăng dầu còn lại, việc kiểm soát các đầu mối có nhập hay không nhập đủ hạn ngạch cần đến trách nhiệm của cơ quan quản lý.
Báo cũng phản ánh: Ngày 21.2, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN VN) đã phát thông cáo bác bỏ thông tin cho rằng sắp phát hành tiền mệnh giá một triệu đồng. Thông cáo nói rõ, hiện nay, trong nền kinh tế và thông tin trên một số diễn đàn mạng đang xuất hiện tin đồn về việc sắp tới NHNN VN sẽ phát hành tiền mệnh giá một triệu đồng.
NHNN VN khẳng định không có chủ trương này. Đây là tin đồn không căn cứ, với mục đích xấu gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý thị trường và người dân, gây bất ổn thị trường tài chính, tiền tệ nói riêng và an toàn kinh tế xã hội nói chung. NHNN VN cũng đề nghị các đơn vị và cá nhân kịp thời phát hiện và báo cáo các cơ quan chức năng để kịp thời xử lý về những tạo dựng tin đồn sai sự thật làm ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế xã hội.
Báo cũng phản ánh: Kết thúc thanh tra tại Tổng cục Dự trữ nhà nước (DTNN), thuộc Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ đã phát hiện hàng loạt khuyết điểm, sai phạm với tổng số tiền trên 57,8 tỉ đồng và 9.429m2 đất. Một trong những sai phạm có tính chất phổ biến tại cơ quan này là vi phạm các quy định pháp luật về đấu thầu. Cụ thể, tại gói thầu bảo hiểm năm 2007 trị giá trên 1,2 tỉ đồng và gói thầu năm 2008 trị giá trên 3,1 tỉ đồng, theo quy định phải tổ chức đấu thầu rộng rãi nhưng Tổng cục DTNN đã làm trái với các quy định của Bộ Tài chính.
Thanh tra Chính phủ chỉ rõ sai phạm nói trên do Bộ Tài chính và Tổng cục DTNN đã buông lỏng công tác chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra. Ngoài kiến nghị xử lý đối với sai phạm về kinh tế, Thanh tra Chính phủ chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để làm rõ việc một số doanh nghiệp trúng thầu của Tổng cục DTNN có dấu hiệu thông thầu, trốn thuế.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Pháp luật và xã hội có bài Trung tâm dịch vụ bán đấu giá bị “hành chính hoá”?. Bài báo phản ánh: Liên Bộ Tư pháp và Tài chính vừa họp bàn giải quyết những vướng mắc trong triển khai thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP và Thông tư số 137/2010/TT-BTC liên quan đến việc bán đấu giá tài sản (BĐGTS). Bà Đỗ Hoàng Yến (Vụ trưởng Vụ Bổ trợ Tư pháp - Bộ Tư pháp) cho hay, việc triển khai Nghị định 17 sau sáu tháng thực hiện nhìn chung khá hiệu quả. Tuy nhiên, một số địa phương gửi văn bản “kêu” lên Bộ Tư pháp về Khoản 2, Điều 1, Thông tư 137. Đó là trường hợp Trung tâm dịch vụ BĐGTS thực hiện bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (VPHC) bị tịch thu sung quỹ Nhà nước thì coi như Trung tâm dịch vụ BĐGTS thực hiện nhiệm vụ của Hội đồng BĐGTS. Việc bố trí nguồn kinh phí, quản lý, sử dụng kinh phí trong trường hợp này áp dụng như đối với Hội đồng BĐGTS quy định tại Thông tư 137.
Điều này được hiểu là khi thực hiện bán đấu giá các loại tài sản vi phạm hành chính bị sung công quỹ, cơ quan bán đấu giá sẽ không được thu phí bán đấu giá. Sở Tài chính một số nơi đã yêu cầu các Trung tâm dịch vụ BĐGTS không được thu phí bán đấu giá, ngoài phí hồ sơ của những người tham gia đấu giá. Hiện, cả nước có 63 Trung tâm dịch vụ BĐGTS đang hoạt động, trong đó chỉ có tám Trung tâm được bao cấp hoàn toàn, còn lại các trung tâm tự hoạch toán kinh doanh một phần hoặc toàn bộ. Việc áp dụng quy định này đã gây khó khăn cho hoạt động của các Trung tâm. Thậm chí, tại một số địa phương đã xuất hiện dấu hiệu ùn tắc việc bán đấu giá với loại tài sản này. “Việc gần như “hành chính hoá” hoạt động của các Trung tâm BĐGTS là không phù hợp”, bà Đỗ Hoàng Yến khẳng định.
Đại diện Bộ Tài chính cũng đồng tình với việc đã thuê người khác bán tài sản là phải trả phí. Nhưng, theo Nghị định 128 và Pháp lệnh Xử lý VPHC, thì các tang vật, phương tiện VPHC bị tịch thu, sẽ chuyển cho Hội đồng BĐGTS (nếu ở cấp huyện trở xuống) và Trung tâm dịch vụ BĐGTS (nếu ở cấp tỉnh). Như vậy là, việc BĐGTS của Trung tâm đối với loại tài sản này là thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước giao, chứ không phải Nhà nước thuê. Theo Nghị định 17, tổ chức BĐGTS chuyên nghiệp được hưởng phí theo hợp đồng, còn thực hiện theo quy định của Nhà nước thì làm gì có hợp đồng? Đại diện Bộ Tài chính cũng cho hay, thực tế có nhiều loại tài sản là tang vật, phương tiện VPHC bị tịch thu song chưa có quy định cụ thể để xử lý, chuyển giao thế nào. Vì thế, trong thời gian tới, hai Bộ Tư pháp và Tài chính cần ban hành Thông tư liên tịch để tháo gỡ luôn các vấn đề vướng mắc này.
Một số ý kiến cho rằng, Điều 43 Nghị định 17 quy định Trung tâm BĐGTS hoàn toàn có quyền thu phí bình đẳng như các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp. Ngay cả khi bán đấu giá không thành, cũng được thanh toán chi phí. Tuy không có hợp đồng vì tài sản Nhà nước chuyển giao nhưng quyết định giao nhận cũng được coi là một loại hợp đồng, mà có hợp đồng là có căn cứ thu phí. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực BĐGTS, Hội đồng BĐGTS hay Trung tâm BĐGTS đều có quyền và nghĩa vụ như nhau chứ không thể do người có tài sản BĐGTS là Nhà nước thì Trung tâm không được thu phí, như vậy chỉ có Trung tâm BĐGTS bị thiệt.
Theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính, dù Pháp lệnh Xử lý VPHC có giao đích danh nhiệm vụ bán loại tài sản này cho các Trung tâm song chỉ quy định riêng “một mình một kiểu” như thế là vênh quan điểm xử lý, gây khó cho hoạt động của các Trung tâm BĐGTS.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài TGPL chủ động đến với huyện vùng cao Bắc Hà. Bài báo phản ánh: Trung tâm trợ giúp pháp lý (TGPL) nhà nước tỉnh Lào Cài đã chủ động phối hợp với các cơ quan tư pháp huyện tổ chức nhiều chương trình trợ giúp pháp lý miễn phí cho đồng bào các dân tộc thuộc các huyện miền núi, trong đó điển hình là huyện Bắc Hà.
Bắc Hà là một huyện nghèo thuộc vùng cao của tỉnh Lào Cai, có nhiều cao nguyên đá vôi và nhiều dãy núi với thung lũng hẹp, đất nông nghiệp rất ít chủ yếu là đất lâm nghiệp, sông suối và có khí hậu á nhiệt đới rất khắc nghiệt nên không thuận tiện cho việc phát triển kinh tế. Nơi đây cũng tụ hợp nhiều thành phần với 14 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó đông nhất là người Mông, Dao, Tày, Nùng... Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, trình độ hiểu biết về pháp luật của người dân phần nào hạn chế nên Trung tâm đã tổ chức nhiều chương trình trợ giúp miễn phí để vừa trang bị cho người dân những kiến thức cần thiết tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình vừa là cách hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật.
Được sự chỉ đạo của UBND huyện Bắc Hà, Phòng Tư pháp huyện đã cử cán bộ chuyên trách về hoạt động TGPL tại các địa bàn xã; xây dựng, phát triển mạng lưới cộng tác viên, các Tổ TGPL; phát triển mạng lưới các cộng tác viên cơ sở. Thông qua hoạt động TGPL lưu động, Trung tâm TGPL tỉnh đã kịp thời nắm bắt tình hình, nhu cầu TGPL của nhân dân tại cơ sở. Trong giai đoạn 2007 - 2010, với đầu mối là Chi nhánh TGPL huyện, Phòng Tư pháp huyện đã tổ chức được 48 lượt TGPL lưu động về địa bàn 20/21 xã, thị trấn. Số lượng và chất lượng các đợt trợ giúp lưu động gia tăng đáng kể. Tổng số đã có 327 vụ việc được thụ lý và giải quyết. Đồng thời, tiến hành tư vấn tại chỗ được 128 vụ, tiếp nhận trên 158 kiến nghị, phản ánh của nhân dân về thực hiện chế độ, chính sách và quản lý ở địa phương.
Trung tâm TGPL tỉnh cũng đã tổ chức các lớp tập huấn về nghiệp vụ TGPL cho cộng tác viên, thành viên ban chủ nhiệm, hội viên Câu lạc bộ được thành lập trên địa bàn huyện. Từ 2007 - 2010, các Câu lạc bộ TGPL tại Bắc Hà đã tổ chức được hơn 250 lượt sinh hoạt; hơn 165 lượt cán bộ, cộng tác viên, thành viên ban chủ nhiệm CLB được tập huấn nghiệp vụ TGPL, kỹ năng tổ chức sinh hoạt CLB. Các cán bộ của Trung tâm đã phối hợp với chính quyền cơ sở phát hàng vạn tờ gấp pháp luật đến tận tay người dân; tổ chức các buổi nói chuyện pháp luật miễn phí ngay tại các cụm dân cư, thu hút hàng nghìn lượt người tham gia. Bắt đầu từ năm 2008, Trung tâm còn cử luật sư, trợ giúp viên tham gia bào chữa, đại diện bảo vệ quyền lợi cho 21 đối tượng là các bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự, nguyên đơn, bị đơn trong các vụ án dân sự, đất đai, hôn nhân gia đình; tư vấn, hướng dẫn các đương sự về thủ tục pháp lý, thủ tục hành chính, soạn thảo đơn kiện, đơn đề nghị…, góp phần củng cố niềm tin của người dân Bắc Hà và các cơ quan tiến hành tố tụng vào hoạt động TGPL.
Báo cũng có bài Hiểu "nước đôi" quy định rút hồ sơ THADS, khó thi hành. Bài báo phản ánh: Sau gần 2 năm thi hành Luật Thi hành án dân sự (THADS) và các văn bản hướng dẫn thi hành, một số vướng mắc, bất cập đã nảy sinh nhưng chưa được các cơ quan chức năng kịp thời tháo gỡ. Theo Điểm g, Khoản 2, Điều 35 Luật THADS thì Cơ quan THADS cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan THADS cấp huyện (quy định tại Khoản 1 Điều 35) mà thấy cần thiết lấy lên để thi hành. Tuy nhiên, do cụm từ “thấy cần thiết lấy lên để thi hành” nên đã xuất hiện những cách hiểu và áp dụng khác nhau về việc thế nào là cần thiết để lấy lên thi hành!
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục THADS Nguyễn Thanh Thủy phân tích, có quan điểm cho rằng trong quá trình cơ quan THADS cấp huyện tổ chức THA gặp khó khăn, vướng mắc thì đề nghị cơ quan THADS cấp tỉnh hỗ trợ nghiệp vụ rút lên để thi hành. Quan điểm khác lại cho rằng cơ quan THADS cấp tỉnh thấy có vướng mắc sẽ rút lên để tổ chức thi hành. “Các quan điểm này còn nhiều ý kiến, chưa có sự thống nhất”, ông Thủy nói thêm. Bên cạnh đó, Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định về thủ tục rút hồ sơ THA nên có những cách làm khác nhau. Đơn giản là cơ quan THADS cấp tỉnh chỉ cần ra quyết định rút hồ sơ THA và tiếp tục tổ chức thi hành. Phức tạp hơn thì cơ quan THADS cấp huyện phải làm văn bản đề nghị cấp tỉnh rút lên THA, được cấp tỉnh đồng ý, cơ quan THADS cấp huyện phải ra quyết định thu hồi quyết định THA rồi trên cơ sở ấy, cơ quan THADS cấp tỉnh ra quyết định THA mới. Cùng với những vướng mắc về thủ tục rút hồ sơ THA, đối với những vụ việc cơ quan THADS cấp huyện đang tổ chức thi hành và đã tống đạt các quyết định về THA… khi cơ quan THADS cấp tỉnh rút lên sẽ phải ra quyết định thi hành mới và tổ chức THA từ đầu, dễ dẫn tới chồng chéo, rườm rà về thủ tục THA.
Luật THADS và Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ đã quy định về trình tự, thủ tục và các biện pháp cưỡng chế thi hành án, như việc Chấp hành viên phải lập được kế hoạch cưỡng chế theo Điều 72 của Luật. Tuy nhiên, Luật THADS chưa có quy định cụ thể về thành phần tham gia kê biên đối với việc kê biên tài sản là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nên gây ra khó khăn cho Chấp hành viên khi áp dụng biện pháp cưỡng chế. Không những thế, Luật THADS có nhiều quy định mới về việc cưỡng chế, bao gồm thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải THA; kê biên, sử dụng khai thác quyền sở hữu trí tuệ; kê biên vốn góp; cưỡng chế khai thác đối với tài sản để THA. Có điều, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nêu trên còn gặp nhiều khó khăn do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên Chấp hành viên, cơ quan THADS chưa mạnh dạn thực hiện.
Một thực tế nữa là Chấp hành viên đang phải “vi phạm” quy định về thời hạn tại Điều 69 Luật THADS. Điều này nêu rõ, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định “Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng về tài sản”, Chấp hành viên thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Một lãnh đạo cơ quan THADS địa phương lý giải: Tài sản có thể là tài sản thuộc sở hữu chung của người phải THA với người khác, cho nên trước khi kê biên Chấp hành viên phải áp dụng quy định tại Điều 74 Luật THADS, nghĩa là phải thông báo cho các chủ sở hữu chung khác trong thời gian 30 ngày để các đồng sở hữu tự phân chia hoặc khởi kiện ra Tòa án nhằm xác định phần sở hữu, do đó không thể áp dụng trình tự thời gian theo Điều 69.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 19-2, Bộ Tư pháp tổ chức cuộc hội thảo xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan Nhà nước.
Trong bài tham luận gửi hội thảo, GS-TS Trần Ngọc Đường (Viện Nghiên cứu lập pháp) cho rằng để thi hành pháp luật của cơ quan Nhà nước có hiệu quả thì trước hết pháp luật được thi hành phải rõ ràng, minh bạch, đủ cụ thể, thể hiện đúng đắn các giá trị mà xã hội có, xã hội cần và xã hội ủng hộ; các quy định pháp luật thống nhất, đồng bộ, ổn định, ít thay đổi.
Cùng chung quan điểm, GS-TS Hoàng Chí Bảo (Hội đồng Lý luận Trung ương) bổ sung thêm hai điều kiện khác là sức mạnh của bộ máy Nhà nước và chất lượng, trình độ, trách nhiệm của đội ngũ công chức. Trong đó, ông nhấn mạnh, đối với sức mạnh của bộ máy Nhà nước thì ngoài sức mạnh nhờ tính năng động, tính khoa học, tính rành mạch, hợp lý của sự phân định chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm và chế độ trách nhiệm còn phải đặc biệt lưu ý tới sức mạnh của đạo đức, tính trong sạch, liêm khiết, tinh thần dân chủ, năng lực phòng chống quan liêu tham nhũng… Ngoài ra, theo GS-TS Hoàng Chí Bảo, tính công khai, minh bạch của thông tin, sự hình thành luồng dư luận xã hội tích cực, tiếng nói có trách nhiệm của báo chí cũng là yếu tố giúp hoạt động thi hành pháp luật của các chủ thể đạt được hiệu quả.
4. Báo Hà Nội mới online có bài Thiếu công cụ hậu kiểm. Bài báo phản ánh: Từ năm 2010 đến nay, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) - Bộ Tư pháp đã phát hiện trên 410 văn bản (VB) có dấu hiệu trái pháp luật, chiếm 19,24% số VB đã được kiểm tra.
Căn cứ Nghị định số 40/2001/NĐ-CP ngày 12-4-2010 của Chính phủ, đối với những VB sai căn cứ ban hành hoặc thể thức, kỹ thuật trình bày mà không ảnh hưởng đến nội dung, Cục thường xuyên nhắc nhở, rút kinh nghiệm chung thông qua các buổi làm việc cũng như tại các hội nghị tập huấn nghiệp vụ cho tổ chức pháp chế các bộ, ngành, các sở tư pháp địa phương. Còn những VB sai thẩm quyền hoặc trái pháp luật, Cục đã tổ chức trao đổi, thảo luận với các đơn vị liên quan và có thông báo, yêu cầu cơ quan, người đã ban hành tự kiểm tra, xử lý theo quy định. Nhưng điều đáng buồn là trong 30 thông báo được Cục gửi đi, đến nay chỉ có 5 bộ (Công thương, Tài chính, Y tế, LĐ-TB&XH, NN&PTNT) và 7 địa phương, trong đó có Hà Nội trả lời về việc xử lý 12 VB có dấu hiệu trái pháp luật. Các đơn vị còn lại chưa có bất kỳ động thái phúc đáp nào. Ông Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra VBQPPL khẳng định, đây là biểu hiện của việc không tuân thủ quy định của Chính phủ trong hoạt động ban hành, kiểm tra và xử lý VBQPPL.
Công tác kiểm tra VBQPPL tuy là "hậu kiểm" nhưng luôn được đánh giá cao vì góp phần thanh lọc VB không chuẩn, tạo môi trường kinh doanh năng động và thông thoáng, giảm khiếu nại, tố cáo. Bước vào năm 2011, đại diện các bộ, ngành địa phương cần nâng cao nhận thức, đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong khâu kiểm tra, xử lý VBQPPL. Đồng thời, Bộ Tư pháp cần nghiên cứu, đề xuất một cơ chế phối hợp với các đơn vị bị "tuýt còi" trong việc chỉ đạo, giải quyết các kết quả kiểm tra VBQPPL, làm tiền đề để công tác này đạt kết quả tốt hơn.