I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới đưa tin: Ngày 25-1, đồng chí Phạm Quang Nghị, Ủy viên BCT, Bí thư Thành ủy Hà Nội đã tới thăm, chúc Tết Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Đông Anh nhân dịp đón Xuân Tân Mão 2011; Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã tới thăm, tặng quà, chúc Tết tập thể và gia đình chính sách, gia đình nông dân tiêu biểu có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn TP Hà Nội.
2. Báo Người Lao động đưa tin: TTXVN cho biết các cơ quan chức năng Nga và Việt Nam đều khẳng định không có người Việt nào bị thương vong trong vụ nổ bom tại sân bay Domodedovo (Moscow) chiều 24-1.
3. Báo điện tử Chính phủ đưa tin: Trên cơ sở đề nghị của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Bộ trưởng lao động và việc làm ASEM lần thứ 4 năm 2012. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ LĐTBXH chịu trách nhiệm chủ trì việc xây dựng đề án tổ chức Hội nghị nêu trên, báo cáo xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ trong quý II/2011.
Trước đó, Hội nghị Bộ trưởng Lao động và Việc làm ASEM lần thứ 3 (ASEM 3) đã được tổ chức tại Leiden, Hà Lan trong 2 ngày 13 -14/12/2010. Đoàn Việt Nam gồm đại diện Bộ LĐTBXH và Bộ Ngoại giao do Thứ trưởng LĐTBXH Phạm Minh Huân dẫn đầu đã tham dự Hội nghị.
4. Báo điện tử VnExpress đưa tin: Bộ Giao thông Vận tải vừa có văn bản gửi Văn phòng Chính phủ ủng hộ đề xuất của Công ty cổ phần Vincom về việc đầu tư xây dựng đường bộ trên cao đoạn từ cầu Vĩnh Tuy đến Ngã Tư Sở (thuộc vành đai 2, Hà Nội) theo hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao.
Theo Bộ Giao thông Vận tải, dự án xây dựng đường bộ trên cao đoạn từ cầu Vĩnh Tuy đến Ngã Tư Sở thuộc lĩnh vực Chính phủ khuyến khích đầu tư bằng các hình thức BOT, BT, BTO và để huy động nguồn lực xã hội cùng tham gia.
Bộ ủng hộ đề xuất của Vincom đầu tư dự án theo hình thức hợp đồng BT và hoàn vốn bằng khai thác quỹ đất thành phố Hà Nội. Trong trường hợp được chấp thuận, Bộ kiến nghị Thủ tướng giao UBND thành phố Hà Nội là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức triển khai, thực hiện dự án trên cơ sở đảm bảo hiệu quả và quyền lợi của nhà đầu tư.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người cao tuổi có bài Ba ngành tư pháp huyện Vân Đồn: Trả thù người tố cáo? Báo Người cao tuổi các số ra ngày 2 và 3-12-2010 việc bà Đỗ Thị Hương, trú tại xóm 5, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh bị truy tố về tội "Hủy hoại tài sản" theo Điều 143, Bộ luật Hình sự là không đúng
Tại phiên xét xử sơ thẩm ngày 17-11-2010, "Không có người bị hại?", "Bị hại thế nào?", "Tài sản của ai?"..., đó cũng là những câu hỏi mà luật sư Phạm Tiến Mạnh, người bào chữa cho bị cáo đặt ra. Tuy nhiên, đến phiên tòa được mở lại vào ngày 9-12-2010, TAND huyện Vân Đồn đã "dội gáo nước lạnh" vào hơn 200 người dân tham dự giữa trời đông lạnh giá bằng một bản án hết sức bất công, phi lí...
Đó là 9 tháng tù giam mà TAND huyện Vân Đồn dành cho bà Hương, mà đại diện VKS đề nghị, cho "đủ sức răn đe" đối với những người "cố tình vi phạm pháp luật" như lời chủ tọa Trương Thị Túc phán xét. Cả hội trường xét xử lặng đi, ngơ ngác. Nhiều người thốt lên: "Họ xét xử kiểu gì vậy?". Cái gọi là "tội" hủy hoại tài sản theo quy định tại khoản 1, Điều 143, Luật Hình sự mà HĐXX gán cho bà Hương là đã tham gia chặt và thuê người chặt 88 cây bạch đàn và 407 cây keo "của ông Đào Văn Nhì", gây "thiệt hại" 7,7 triệu đồng. Căn cứ để HĐXX khép tội bị cáo là lời khai của "người bị hại" - ông Đào Văn Nhì, sinh năm 1963, trú tại thôn 4, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh và một vài nhân chứng.
Tuy nhiên, Luật sư Phạm Tiến Mạnh bào chữa cho bị cáo, đã khẳng định: Không có bất kì một cơ sở pháp lí nào cho thấy ông Đào Văn Nhì có quyền sở hữu số tài sản trên. Số cây bị chặt hạ thuộc quyền sở hữu của bà Đỗ Thị Hương. Đây là những cây tái sinh mọc trên phần đất của cha mẹ bị cáo Hương là ông Đỗ Văn Thiềm và bà Lê Thị Uông (đều đã mất) để lại mà bị cáo có quyền thừa kế hợp pháp. Năm 1978, vợ chồng ông Thiềm về đây xây dựng vùng kinh tế mới theo tiếng gọi của Đảng và Nhà nước. Họ được chính quyền bán thanh lí tài sản nhà cửa, vườn cây ăn quả tọa lạc trên 3ha đất do người Hoa để lại theo Chỉ thị 49CP/UB, ngày 11-11-1979 của UBND tỉnh Quảng Ninh. Từ đó đến nay, vợ chồng ông Thiềm và các con không hề bán đất đai này cho ai. Ấy vậy mà năm 2004, ông Đào Văn Nhì lại tự ý đến khu đất này thu hoạch bạch đàn và trồng keo, khiến cho các con ông Thiềm phải kiện đòi lại đất kéo dài đến nay, vẫn không được giải quyết. Bản chất vụ án và cũng là nguyên nhân vụ việc của bà Hương là như vậy. Bị cáo Hương chặt cây ở đây là chặt cây nhà mình, chứ không phải chặt cây của người khác. Để bảo đảm xác định sự thật của vụ án, theo Điều 27, Bộ luật Tố tụng hình sự trách nhiệm của ba ngành tư pháp (công an, kiểm sát và tòa án huyện Vân Đồn) phải gửi công văn đến các cơ quan chức năng đề nghị phối hợp điều tra làm rõ việc tranh chấp đất đai giữa gia đình bị cáo Hương và ông Đào Văn Nhì, từ đó mới có cơ sở kết tội. Tuy nhiên, cả ba ngành tư pháp ở đây đều không thực hiện. Như vậy thì phiên tòa này xét xử cái gì đây? Ai sẽ chịu trách nhiệm về những hậu quả do việc xét xử tắc trách này đem lại ?
Trong vụ án này, công tố viên Vũ Minh Đức, Viện phó viện KSND huyện Vân Đồn, chỉ chú trọng thu thập chứng cứ, xét hỏi tăng nặng tội cho bị cáo, tranh tụng của công tố viên không đúng theo quy định của pháp luật mà mang tính áp đặt chủ quan. Khi luật sư bào chữa đưa ra lí lẽ xác đáng công tố viên Vũ Minh Đức tỏ thái độ thiếu văn hóa tại công đường, nói bừa, nói cùn, nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm luật sư trước phiên tòa rồi lớn tiếng: "Đề nghị tòa án sau phiên tòa này làm văn bản kiến nghị lên Sở Tư pháp để kiểm tra trình độ của luật sư vì luật sư trình độ quá thấp và kiểm tra Văn phòng luật sư Phạm Tiến Mạnh". Còn chủ tọa phiên tòa Trương Thị Túc không hề có động thái gì trước thái độ này của vị công tố viên, trong khi thấy dân vỗ tay hoan nghênh tán thưởng những lời bào chữa đanh thép, đầy sức thuyết phục của luật sư thì lại bị chủ tọa phiên tòa yêu cầu cảnh sát tư pháp mời họ ra ngoài. Nhân danh cá nhân và thay mặt Văn phòng Luật sư Phạm Tiến Mạnh, luật sư Mạnh đã đệ đơn tố cáo về thái độ coi thường luật pháp này của kiểm sát viên Vũ Đức Minh lên Viện trưởng Viện KSND huyện Vân Đồn và Viện trưởng Viện KSND tỉnh Quảng Ninh và đề nghị xử lí, kỉ luật thích đáng.
Chỉ chặt mấy cái cây, tài sản trên đất do bố mẹ để lại, mà bị bắt truy nã, bị bắt, bị khép án 9 tháng tù giam. Vụ việc cực kì phi lí xảy ra ở huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh mà nguyên nhân là do bà Đỗ Thị Hương, người từng tố cáo 11 vị quan tham ở xã Hạ Long khiến cho họ phải lĩnh án tổng cộng 47 năm 6 tháng tù giam và tố cáo Công an huyện Vân Đồn đang vi phạm pháp luật trong việc khởi tố và bắt truy nã oan bị cáo.
Đương nhiên, bị cáo Đỗ Thị Hương đã có đơn kháng cáo gửi TAND tỉnh Quảng Ninh.
2. Báo Lao động Online có bài Cơ quan thi hành luật bao che cho vi phạm? Bài báo phản ánh: Dù bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và cơ quan thi hành án dân sự TP Hà Nội đã tiến hành cưỡng chế thi hành án song đến nay công ty cổ phần Việt Thái (tại xã Cổ Đông, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) không thể hoạt động do người không có thẩm quyền quản lý, sử dụng con dấu cố tình chiếm giữ con dấu. Trong khi đó, các cơ quan tiến hành tố tụng lại xử lý kiểu nửa vời đối với đối tượng vi phạm…
Ông Đỗ Ngọc Khuê, Chủ tịch HĐQT, kiêm Giám đốc công ty cổ phần Việt Thái (CTy CP Việt Thái) cho biết: Năm 2005, xuất phát từ yêu cầu công việc, ông Khuê có cử bà Trần Thị Ngấn (thành viên sáng lập) làm giám đốc điều hành công ty và tiến hành bàn giao con dấu tròn và 3 con dấu vuông cùng toàn bộ tài liệu của công ty cho bà Ngấn quản lý (có biên bản bàn giao cụ thể).
Trong quá trình điều hành công ty, vì nhiều lý do liên quan tới hoạt động kinh doanh nên ông Khuê đã nhiều lần yêu cầu bà Ngấn giao lại con dấu cho ông, là người đại diện theo pháp luật nhưng bà Ngấn không chấp hành. Ngày 5.11.2007 ông Khuê có đơn khởi kiện bà Ngấn ra toà yêu cầu trả lại con dấu công ty.
Đã hơn 2 năm qua, kể từ khi bản án phúc thẩm (ngày 20.8.2008) của TAND tối cao có hiệu lực pháp luật, Cty CP VT phải đóng cửa không hoạt động được nguyên nhân do bà Ngấn chiếm giữ con dấu, cố tình không bàn giao theo quyết định của bản án. Ngày 18.8.2009, cơ quan thi hành án dân sự TP Hà Nội tiến hành cưỡng chế song bà Ngấn đã vắng mặt, không trả lại con dấu. Tiếp đó, cơ quan thi hành án dân sự TP đã có các công văn số 1066/CV-THA ngày 14.9.2009 và công văn số 511/CV-THA ngày 16.3.2010, đề nghị công an và Viện Kiểm sát thị xã Sơn Tây xử lý hình sự bà Trần Thị Ngấn theo Điều 304 của Bộ Luật hình sự về tội : “Không chấp hành án”.
Theo nội dung công văn liên ngành số 773/CV-LN, ngày 15.9.2010 của Công an – Viện Kiểm sát thị xã Sơn Tây gửi Công an – Viện Kiểm sát TP Hà Nội cho thấy: Cơ quan thi hành án dân sự TP Hà Nội ra quyết định thi hành bản án nhưng không xác minh làm rõ những mâu thuẫn giữa các quyết định của bản án và thực tế người phải thi hành bản án. Các đối tượng có liên quan trong việc thi hành bản án đều không thuộc địa bàn thị xã Sơn Tây, có đối tượng không rõ địa chỉ, không có thái độ chấp hành pháp luật, chống đối nên việc giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn do vậy đề nghị Công an – Viện Kiểm sát TP chuyển vụ án lên cấp trên giải quyết.
Còn tại công văn số 551/CV-LN, ngày 15.11.2010 giữa Công an – VKS – TAND thị xã Sơn Tây gửi Công an – VKS – TAND TP.Hà Nội có đề cập việc bản án sơ thẩm và phúc thẩm (mặc dù bản án phúc thẩm giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm) tuyên ông Khuê là người đại diện theo pháp luật có trách nhiệm quản lý, sử dụng con dấu của công ty nhưng còn tuyên thêm phần: bà Trần Thị Ngấn hiện đang giữ con dấu của Cty CP Việt Thái phải trả lại cho công ty do ông Đỗ Ngọc Khuê là người đại diện theo pháp luật nhận) mà bản án sơ thẩm không tuyên là không đúng với thực tế. Ngày 18.11.2010 vụ án hết thời hạn điều tra (đã gia hạn điều tra lần 1) nhưng chưa có căn cứ để khởi tố bị can đối với bà Ngấn vì: những vấn đề chưa rõ ràng trong bản án chưa được cơ quan có thẩm quyền trả lời; Qúa trình điều tra chưa chứng minh được bà Ngấn hiện đang giữ con dấu của công ty và là đối tượng phải thi hành án. Do đó, ngày 10.11.2010, ba ngành Công an – VKS – TAND thị xã Sơn Tây đã họp và thống nhất đình chỉ điều tra vụ án khi hết thời hạn điều tra và xin ý kiến chỉ đạo của liên ngành cấp trên.
Tại công văn số 2322/CV-PT, ngày 3.12.2010 của Toà phúc thẩm tại Hà Nội – TAND tối cao khẳng định: Ông Đỗ Ngọc Khuê là người đại diện theo pháp luật của công ty với chức danh Chủ tịch HĐQT, kiêm giám đốc Cty CP Việt Thái có trách nhiệm quản lý, sử dụng con dấu. Việc ông Khuê bàn giao con dấu của công ty Việt Thái ngày 3.9.2005, bà Ngấn đã ký nhận vì vậy trách nhiệm thuộc về bà Ngấn cho dù con dấu của công ty Việt Thái hiện tại đang ở đâu.
Theo Công an thị xã Sơn Tây, thì nhiều lần triệu tập bà Ngấn, bà Nhường, bà Cúc (những người có liên quan, đều là thành viên sáng lập công ty - PV) đến làm việc nhằm xác định ai là người đang giữ con dấu cũng như trách nhiệm cá nhân trong việc chấp hành pháp luật nhưng bà Ngấn, bà Nhường không đến làm việc, bà Cúc không rõ ở đâu, không có thái độ chấp hành pháp luật nên việc giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn(?)
Có thể nói, vụ án đã rõ ràng, tuy nhiên không hiểu vì lý do gì các cơ quan tiến hành tố tụng thị xã Sơn Tây không thể giải quyết... Điều đó, khiến dư luận đặt ra câu hỏi: Phải chăng do yếu kém năng lực, hay còn nhiều điều khuất tất và cố tình bao che cho vi phạm (?)
3. Báo Tuổi trẻ Online có bài Còn nhiều điểm nghẽn. Bài báo phản ánh: Theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước (TNBTNN), người bị thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường ngay mà phải có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc bản án, quyết định của tòa án) xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật... Như vậy, Luật TNBTNN có hiệu lực hay không còn phụ thuộc chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và của tòa án. Trong điều kiện còn nhiều bất cập, nhiêu khê trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, cũng như tính độc lập của ngành tòa án chưa được triệt để, trình độ, năng lực và bản lĩnh của đội ngũ thẩm phán còn hạn chế thì để thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại người dân sẽ còn gặp nhiều trở ngại, ách tắc.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, theo quy định tại điều 33 Luật TNBTNN, tòa án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi ra bản án, quyết định mà bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và người ra bản án, quyết định biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án - tức là do lỗi cố ý (khoản 4 điều 28). Trong khi đó, cấp giám đốc thẩm chỉ có thẩm quyền xem xét bản án, quyết định có phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hay không; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hay không, chứ không có thẩm quyền và trách nhiệm điều tra, kết luận các sai sót của bản án, quyết định là do lỗi cố ý hay do trình độ, năng lực của những người tiến hành tố tụng. Vậy, để có cơ sở cho người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thì ai, cơ quan nào có trách nhiệm điều tra, kết luận? điều này luật còn bỏ ngỏ.
Mặt khác, để xác định việc ra bản án, quyết định sai do cố ý hay do trình độ, năng lực hạn chế của người tiến hành tố tụng quả không hề dễ dàng. Do đó, thiết nghĩ nếu như Luật TNBTNN quy định trong mọi trường hợp xử sai (trừ trường hợp xử sai vì lý do khách quan) đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thì không chỉ bảo đảm sự bình đẳng và triệt để trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân bị thiệt hại, mà còn góp phần hạn chế tiêu cực trong hoạt động xét xử.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Vụ cao ốc BMC, quận 1: Không thể lập lại biên bản để phạt. Bài báo phản ánh: Như đã thông tin, tháng 7-2010, cao ốc BMC bị lập biên bản về hành vi xây sai phép và bị đình chỉ thi công. Một tháng sau, chủ đầu tư tiếp tục xây nên bị Thanh tra xây dựng (TTXD) quận 1 lập biên bản về hành vi vi phạm quyết định đình chỉ và đề nghị cơ quan có thẩm quyền phạt chủ đầu tư 1 tỉ đồng về hành vi này. Tuy nhiên, không hiểu sao Sở Xây dựng TP.HCM lại bỏ quên hồ sơ, để đến hết thời hạn xử phạt mới “cương quyết xử lý”, yêu cầu TTXD quận 1 lập lại biên bản để hợp pháp hóa hồ sơ xử phạt.
Mới đây, Phó Giám đốc Sở Xây dựng phụ trách mảng xử lý vi phạm trật tự xây dựng Phan Đức Nhạn cho biết: phạt được! Trong khi Sở Tư pháp TP.HCM cho rằng nếu phạt là sai luật.
Trên quan điểm “phạt được”, ông Phan Đức Nhạn giải thích: “Dù biên bản vi phạm đã hết thời hạn nhưng ảnh chụp và băng ghi hình do TTXD quận 1 thực hiện vẫn còn lưu giữ đầy đủ. Các bằng chứng này chứng minh chủ đầu tư đã thực hiện hành vi vi phạm quyết định đình chỉ thi công, họ không thể chối cãi hay khiếu nại. Đó là căn cứ để lập biên bản bổ sung hoặc lập lại biên bản vi phạm và ra quyết định xử phạt”.
Về việc này, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM Ung Thị Xuân Hương giải thích: “Băng ghi hình, ảnh chụp (những bằng chứng mà Sở Xây dựng nói đến) chỉ có ý nghĩa trong việc đấu tranh với chủ đầu tư để họ buộc phải ký và chấp nhận biên bản vi phạm. Tuy nhiên, không thể lập lại biên bản vi phạm vì nguyên tắc cơ bản và bắt buộc trong thủ tục xử phạt vi phạm hành chính không cho phép. Biên bản vi phạm chỉ được lập một lần, không được lập lại lần hai đối với chính hành vi đó”.
Theo chúng tôi, hành vi sai phạm của chủ cao ốc BMC rất đáng bị xử lý nhưng vẫn phải thượng tôn pháp luật. Với các văn bản pháp lý hiện hành, không thể phạt họ 1 tỉ đồng. Sở nên căn cứ vào Nghị định 128/2008 “… để quá thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, có lỗi trong việc không ra quyết định xử phạt trong thời hạn quy định, nếu chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử lý theo quy định pháp luật về cán bộ, công chức” mà xử lý cán bộ thuộc cấp.