I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh đưa tin Văn phòng Chính phủ, vừa có công văn thông báo ý kiến Thủ tướng về việc xử lý thông tin tỉnh Khánh Hòa còn nợ người chăn nuôi ở huyện Cam Lâm số tiền gần 7 tỉ đồng, báo cáo Thủ tướng trước ngày 28-1.
2. Báo Sài Gòn giải phóng Online đưa tin: Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc. Một trong những nội dung đáng chú ý của nghị định là chính quyền địa phương, nơi có con em dân tộc thiểu số thi đậu vào ĐH-CĐ và sinh viên được cử đi học hệ cử tuyển, có trách nhiệm tiếp nhận và phân công công tác phù hợp với ngành nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp.
3. Báo Dân Việt có bài Gia Lai: Tấp nập người sang Campuchia đánh bạc. Bài báo phản ánh: Gần Tết Nguyên đán, khu vực cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh ở huyện Đức Cơ, Gia Lai luôn tấp nập dòng người qua tỉnh Ranatakiri, Campuchia để... đánh bạc.
Liên tục những ngày qua, tại khu vực cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh luôn nườm nượp những chuyến xe ô tô chở người đi về phía Campuchia. Những chiếc xe 12-16 chỗ này đến từ nhiều tỉnh thành khác nhau như: Kon Tum, Gia Lai, Bình Định… chủ yếu chở thanh niên và những người trung tuổi.
Công an huyện Đức Cơ đang phối hợp Đồn biên phòng 721 và Công an huyện Ozađao, tỉnh Ranatakiri (Campuchia) thực hiện các giải pháp bảo đảm an ninh trật tự quanh khu vực cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh.
Mỗi khi sới bạc được mở thường có hơn 90% là người từ Việt Nam sang tham gia đánh bạc cùng nhiều Việt kiều đang sinh sống, làm việc tại Campuchia.
Trước thực tế này, Công an huyện Đức Cơ và Bộ đội Biên phòng đang phối hợp nắm tình hình và lập danh sách các đối tượng hình sự, đối tượng ma tuý. Tuy nhiên, từ nay đến khi khu dịch vụ casino bên nước bạn hoàn thành và đi vào hoạt động chắc chắn tình hình an ninh, xã hội ở khu vực biên giới sẽ ngày càng phức tạp.
4. Trang thông tin chính thức của Đài truyền hình Việt Nam có bài Quảng Bình: Bắt giữ và xử lý 200m3 gỗ trái phép. Bài báo đưa tin: Thời gian gần đây, tình trạng khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép ở một số huyện miền núi tại tỉnh Quảng Bình ngày càng trở nên phức tạp. Thời điểm cuối năm, Chi cục Kiểm lâm Quảng Bình đã xử lý nhiều vụ vi phạm liên tiếp.
Chi cục kiểm lâm Quảng Bình đã kiểm tra bắt giữ và xử lý hơn 50 vụ khai thác, tàng trử, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép, xử phạt vi phạm hành chính 15 vụ, tịch thu lâm sản không có chủ 35 vụ, tịch thu xử lý 200m3 gỗ các loại, trong đó có gần 3m3 gỗ trắc, thuộc nhóm 1 gỗ quý hiếm, thu nộp ngân sách nhà nước gần 600 triệu đồng.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh đưa tin: Văn phòng công chứng Bà Điểm (trụ sở tại 17A-18A quốc lộ 22, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, TP.HCM) vừa tổ chức khai trương vào ngày 14-1.
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Khi chi cục trưởng thi hành án quận “tuyên án”. Bài báo phản ánh: Quản lý, sử dụng ổn định khu đất suốt gần 20 năm, gia đình bà Danh Thị Kiều Nga (ngụ Hoàng Văn Hợp, P. An Lạc A, Q. Bình Tân) lập hồ sơ xin cấp giấy chủ quyền nhưng không được chấp nhận nên khiếu nại. Trong khi đang chờ kết quả giải quyết của UBNDTP, bà Nga bất ngờ nhận được văn bản của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự Q. Bình Tân đề nghị xử lý hình sự bà vì đã “vi phạm điều 137 và 270 Bộ luật Hình sự năm 2009”.
Ngày 25-11-2009, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) quận Bình Tân (QBT) Tô Bá Nhân ký văn bản 134/THA cho phép ông Trần Trí Bình (ngụ 32 Nguyễn Văn Của, P13Q8) được làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng (sổ đỏ) khu đất 15.121m2 tại khu phố 15, P. Bình Trị Đông, QBT. Văn bản này đề nghị Phòng Tài nguyên - môi trường QBT và UBND P.Bình Trị Đông “tạo điều kiện thuận lợi cho ông Bình được cấp sổ đỏ”.
Trong văn bản 134/THA, ông Nhân nêu rõ khu đất 15.121m2 đã được THADS QBT kê biên từ ngày 8-3-2004. Khu đất trên do gia đình bà Danh Thị Kiều Nga (ngụ P. An Lạc A, QBT) trực tiếp quản lý, sử dụng từ năm 1991. Trên khu đất, ngoài trồng sen và rau muống, gia đình bà Nga đã xây một số căn nhà cho thuê trọ. Bà Nga lập thủ tục xin cấp sổ đỏ nhưng không được chấp nhận nên làm đơn khiếu nại. Tại văn bản số 47/UB ngày 14-1-2005, UBNDQBT xác định rõ: phần đất trên do gia đình bà Nga sử dụng trồng rau muống, cất căn nhà cấp bốn từ năm 1991. Đến ngày 3-12-2002, UBND xã Bình Trị Đông (nay là P. Bình Trị Đông) lập biên bản vi phạm đối với bà Nga “xây nhà không phép trên đất đang tranh chấp”.
Do không được giải quyết nên bà Nga khiếu nại lên thành phố. Theo chỉ đạo của UBNDTP, Sở Tài nguyên - môi trường đã thụ lý từ giữa năm 2009, đo vẽ hiện trạng, xác minh làm rõ quá trình sử dụng đất của bà Nga cũng như các vấn đề liên quan. Tại cuộc họp ngày 14-12-2009 do Phó chủ tịch UBNDQBT Cao Văn Phần chủ trì dưới sự tham dự của đại diện Văn phòng UBND quận, Thanh tra, Phòng Tư pháp, Phòng Tài nguyên - môi trường, UBND P. Bình Trị Đông..., bà Nga trình bày rõ quá trình quản lý, sử dụng khu đất ổn định, liên tục suốt gần 20 năm và đề nghị UBNDQBT cấp sổ đỏ. Ghi nhận ý kiến bà Nga, Phó chủ tịch Cao Văn Phần nhấn mạnh: “Việc khiếu nại của bà Nga hiện TP đang xem xét, giải quyết. UBNDQBT sẽ phối hợp với TP giải quyết dứt điểm...”.
Hiện trạng khu đất vừa bị kê biên, vừa xảy ra tranh chấp, khiếu nại chưa được giải quyết dứt điểm nhưng ông Tô Bá Nhân lại ký văn bản “tình thương mến thương” đề nghị cấp sổ đỏ cho ông Trần Trí Bình.
Yêu cầu cấp sổ đỏ không được “như ý”, ngày 27-7-2010 ông Tô Bá Nhân ký văn bản số 893/THA gởi VKS và Công an QBT đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự bà Danh Thị Kiều Nga. Ông Nhân cho rằng, khu đất 15.121m2 đã được Chi cục THA kê biên, giao cho ông Trần Trí Bình bảo quản nhưng bà Nga ngang nhiên lấn chiếm, xây dựng trái phép. Ông Nhân “phán”: Hành vi của bà Nga đã vi phạm pháp luật điều 137 (tội “công nhiên chiếm đoạt tài sản”) và điều 270 (tội “vi phạm các quy định về quản lý nhà ở”) Bộ luật Hình sự năm 2009.
Đến ngày 29-9-2010, ông Nhân ký tiếp văn bản 1171/THA gởi UBNDQBT, Ban chỉ đạo THADS và UBND P.Bình Trị Đông đề nghị cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. Ông Nhân cho rằng, bà Nga chẳng liên quan gì đến khu đất, đã xâm phạm đến tài sản kê biên, làm cản trở quá trình THA... (?!). Ông Nhân đề nghị áp dụng biện pháp cưỡng chế tháo dỡ phần xây dựng trái phép trả lại phần đất kê biên để Chi cục THADS QBT định giá và đưa ra bán đấu giá THA theo quy định. Ngày 20-12-2010, ông Nhân ký tiếp văn bản 290/QĐ-THA đề nghị “Ban chỉ đạo THADS QBT tham mưu cho UBNDQBT có chỉ đạo dứt điểm việc cưỡng chế đối với bà Nga...”.
3. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Chuyển đổi giới tính: Cho hay cấm? Bài báo phản ánh: Thời gian gần đây, thông tin về vụ ba nam thanh niên... “nhầm” một “nam giới” (đã phẫu thuật chuyển thành nữ giới, nhưng các giấy tờ tùy thân vẫn thể hiện là nam) ở Quảng Bình và đám cưới đồng tính của hai cô gái ở Hà Nội được dư luận quan tâm. Đây là vấn đề nhạy cảm và tế nhị, nên nhận được nhiều sự băn khoăn, có cả sự cảm thông, chia sẻ với những người không may phải chịu sự trớ trêu của tạo hóa. Ngay cả các cơ quan chức năng cũng tỏ ra lúng túng trước việc phải giải quyết những tình huống này.
Trên thế giới và Việt Nam, ước tính cứ 2000 trẻ em sinh ra, thì ít nhất một trẻ có bộ phận sinh dục không phù hợp với bộ nhiễm sắc thể, dẫn đến khuyết tật bẩm sinh về giới tính.
Điều 36, Bộ luật Dân sự qui định cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự cũng qui định chặt chẽ việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp người đó bị “khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học”, và “việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Nhìn từ góc độ pháp lý, có thể thấy xác định lại giới tính là một quyền nhân thân có điều kiện và chỉ khi đáp ứng được các điều kiện luật định mới có quyền yêu cầu y học xác định lại giới tính chính xác.
Pháp luật cũng qui định, những người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác, trước và sau khi xác định lại giới đều hoàn toàn bình đẳng về quyền nhân thân với những người bình thường khác. Có nghĩa, họ có quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, tôn trọng bí mật đời tư... Đặc biệt, việc xác định lại giới tính là vấn đề tương đối nhạy cảm, nên bí mật về các thông tin liên quan đến xác định lại giới tính sẽ được pháp luật tuyệt đối bảo vệ, trừ những trường hợp đặc biệt.
Sau khi xác định lại giới tính, cơ quan Tư pháp căn cứ vào Giấy chứng nhận y tế (do cơ sở khám, chữa bệnh đã thực hiện việc can thiệp y tế xác định lại giới tính cấp) để giải quyết việc đăng ký hộ tịch cho người đã xác định lại giới tính. Sau khi hoàn tất thủ tục, họ sẽ được sửa lại giới tính trên các loại giấy tờ nhân thân như khai sinh, hộ khẩu, chứng minh nhân dân, văn bằng, chứng chỉ. Người xác định lại giới tính cũng có quyền được tự do kết hôn như mọi công dân khác và làm giấy khai sinh cho con (nếu có), được nhận nuôi con nuôi...
Bà Đàm Thị Kim Hạnh (Trưởng phòng Lý lịch Tư pháp, Sở Tư pháp Hà Nội) cho hay, theo báo cáo của Phòng Tư pháp các quận huyện thì trong nhiều năm qua, số trường hợp xin cải chính lại hộ tịch do xác định lại giới tính trên địa bàn Hà Nội rất hiếm, chỉ khoảng dưới 1%. Bà Nguyễn Thị Phương Chung, Trưởng phòng Tư pháp quận Hoàn Kiếm cũng cho biết, nhiều năm qua, quận này không tiếp nhận trường hợp nào xin cải chính hộ tịch vì xác định lại giới!
Như vậy, có thể thấy việc “xác định lại giới tính” - trả lại giới tính thực cho những người bị khuyết tật hoặc giới tính chưa được định hình chính xác được pháp luật bảo vệ chặt chẽ, khác với việc “chuyển đổi giới tính” - được thực hiện theo “ý thích”. Thế nhưng, không ít người do chưa hiểu biết đầy đủ, cứ cho rằng pháp luật cấm “đổi giới”, mà thực ra pháp luật chỉ cấm chuyển đổi giới tính với những người hoàn toàn bình thường về giới tính nhưng vẫn muốn chuyển đổi - những người bị xem là mắc bệnh rối loạn hành vi, tâm lý. Theo nhiều chuyên gia y tế thì những người hoàn toàn bình thường về giới tính nhưng vẫn muốn chuyển giới sẽ chỉ tạo nên những con người trái “tự nhiên”.
Gần đây, có nhiều ý kiến trái chiều về việc pháp luật Việt Nam nghiêm cấm chuyển đổi giới tính với những người hoàn toàn bình thường về giới. Những người thuộc “thế giới thứ ba” đương nhiên là phản đối, muốn được tự do chuyển giới theo ý muốn. Một số nhà tâm lý cũng đồng tình. Tuy nhiên, không ít chuyên gia pháp lý lại cho rằng việc cấm là cần thiết nhằm ngăn chặn những hành vi chuyển đổi giới tính phục vụ cho các quan niệm tâm sinh lý lệch lạc, hoặc sau khi phạm tội thì chuyển giới để trốn tránh trách nhiệm pháp lý, hoặc gian lận trong thi đấu thể thao...
Rõ ràng, đây là các vấn đề cần sớm được luật hóa, nếu không, rất khó tránh khỏi những hệ quả pháp lý rắc rối xảy ra!
4. Báo Hà Nội mới có bài “Áo” đã quá chật. Bài báo phản ánh: Không phải đến bây giờ, Pháp lệnh Quảng cáo (PLQC) mới bộc lộ bất cập, song nhìn từ cuộc giám sát tình hình thực hiện PLQC ở thành phố Hà Nội của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội ngày 14-1 có thể thấy, PLQC ban hành từ năm 2001 đã trở thành "chiếc áo" quá chật so với hoạt động QC đang ngày càng sôi động.
Nhiều năm làm công tác quản lý hoạt động QC, ông Nguyễn Đức Hòa, Phó Giám đốc Sở VH,TT&DL Hà Nội cho rằng: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động QC hiện có nhiều, nhưng thiếu tính thống nhất và chưa phù hợp.
Dù đã rõ những bất cập của PLQC, nhưng dự thảo Luật QC được đưa ra lấy ý kiến gần đây vẫn chưa giải quyết được sự bất cập đó.
Ông Nguyễn Đức Hòa khẳng định: Sự thiếu thống nhất và chưa phù hợp diễn biến thực tế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về QC là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự lộn xộn hoạt động QC ở Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung.
Một trong những điểm đáng chú ý của dự thảo Luật QC đang được xây dựng là xóa bỏ cấp phép QC ngoài trời. Điều này có nghĩa doanh nghiệp có nhu cầu dựng bảng QC sẽ căn cứ vào quy hoạch và tự liên hệ thuê đất để dựng. Nếu doanh nghiệp dựng bảng QC sai quy hoạch thì ngành xây dựng sẽ yêu cầu dỡ bỏ, còn nếu vi phạm về nội dung thì ngành văn hóa sẽ yêu cầu thay đổi. Về vấn đề này, ông Hà Văn Tăng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam nói: "Tôi tán thành việc xóa bỏ cấp phép QC ngoài trời vì như vậy sẽ giảm thủ tục phiền hà không đáng có cho doanh nghiệp". Ngược lại, ông Nguyễn Đức Hòa, Phó Giám đốc Sở VH,TT&DL Hà Nội phản ứng gay gắt: Không cấp phép đồng nghĩa với việc không cần quản lý, đó là sự phi lý. QC ngoài trời ở Hà Nội hiện nay đang được cấp phép, đang được quản lý mà tình trạng lộn xộn, sai makét, sai nội dung, tranh chấp vị trí QC vẫn diễn ra phổ biến, nếu không cấp phép thì không thể quản lý được.
Qua thực tế giám sát các doanh nghiệp, ông Nguyễn Minh Thuyết, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cho biết, đa số các doanh nghiệp đề nghị nên tiếp tục cấp phép đối với hoạt động QC ngoài trời.
Từ những bất cập trong hoạt động QC, UBND thành phố Hà Nội kiến nghị Luật QC không nên giới hạn số phụ trang QC đối với các cơ quan báo in, cho phép các cơ quan báo in căn cứ vào nhu cầu QC để xin phép xuất bản phụ trương QC; đồng thời nâng mức QC trên truyền hình từ 5% lên từ 10% đến 12% tổng thời lượng chương trình của một ngày phát sóng và không nên dùng tiêu chí thời lượng chương trình để khống chế QC và số lần được QC... Đoàn giám sát cho biết, sẽ nghiên cứu những kiến nghị trên để chỉnh sửa một số nội dung trong dự thảo Luật QC trước khi trình Quốc hội thông qua.
Hy vọng Luật QC sớm ra đời với khung pháp lý hoàn thiện để hoạt động QC ở Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung đi vào nền nếp.
5. Báo VTC News có bài Hay thua kiện quốc tế vì cung cách làm ăn! Bài báo đưa tin về cuộc phỏng vấn giữa phóng viên báo này với TS. Hoàng Phước Hiệp, Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế (Bộ Tư pháp). “Những vụ tranh chấp quốc tế tôi được mời tham gia với tư cách tư vấn pháp lý thì số lượng thua nhiều hơn thắng. Có những trường hợp lỗi của Ban quản lý dự án gây tổn thất cho Nhà nước” – TS. Hoàng Phước Hiệp, Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế (Bộ Tư pháp) đúc rút từ các vụ tranh chấp thương mại quốc tế có một bên là Việt Nam.
6. Báo Tuần Việt Nam có bài Tìm đến sự phát triển bền vững. Bài báo đưa tin: Người dân trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài kỳ vọng vào quyết tâm của Chính phủ trong việc giải quyết các vướng mắc về cơ sở hạ tầng, những khiếm khuyết về cơ sở pháp lý dành cho khu vực tư nhân, sự kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước cũng như các chính sách tài chính và tiền tệ cùng biện pháp liên quan đến chuyển đổi cơ cấu kinh tế được xem là chìa khóa tăng trưởng bền vững.
Ba tuần lễ trước khi năm 2010 khép lại với những cố gắng vượt khó của nền kinh tế chúng ta, Ngân hàng Nhà nước cho biết lượng kiều hối tính đến hết tháng 12 có thể lên đến 8 tỉ USD, vượt xa con số 6,7 tỉ USD hồi năm ngoái. Cùng lúc, số liệu chính thức cũng cho thấy vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam đảo chiều vào phút chót với hơn 18,5 tỉ USD và tình hình giải ngân được cải thiện, đã là một ngạc nhiên cho giới quan sát khi mà mức hấp thu đồng vốn của nền kinh tế vẫn chưa cao.
Cùng với khoản 7,9 tỉ USD có phần hào phóng của các nhà tài trợ dành cho chúng ta trong năm 2011, những thông tin trên đây như đợt nắng cuối năm sưởi ấm tình hình kinh tế chưa được sáng sủa, chỉ số giá cả tăng cao bỏ xa kỳ vọng kiềm chế của chính phủ, khi mà nhập siêu lên đến hơn 12,37 tỉ USD, cơn sốt lãi suất đang đe doạ đốt cháy nhiều doanh nghiệp, còn người dân thì tìm đến vàng và đô la như phương tiện ẩn trú tài sản. Đó là chưa kể những dự báo không mấy lạc quan về tình hình phục hồi kinh tế thế giới có thể ảnh hưởng đến đầu tư và xuất khẩu của chúng ta.
Dù gì đi nữa cũng không thể phủ nhận rằng năm qua Chính phủ đã rất cố gắng trong việc giữ một mức phát triển cao, tăng trưởng GDP đạt 6,78%. Kinh tế vĩ mô đã ổn định hơn năm trước đó, thâm hụt thương mại cũng đã giảm được phần nào, tuy nhiên ổn định vừa nói chưa được hỗ trợ của các biện pháp đồng bộ đã khiến nền kinh tế trả giá bằng mức lạm phát lên đến 11,75%, đe doạ khả năng phục hồi sức khỏe của nền kinh tế nếu Chính phủ thiếu quyết tâm tái cơ cấu để loại trừ những bất ổn vĩ mô, hướng đến một nền kinh tế phát triển bền vững.
Nền kinh tế của chúng ta còn dựa nhiều vào yếu tố đầu cơ hơn là đầu tư cho nên không tạo ra được sự ổn định. Khi đề cập đến điều này, các nhà phân tích trong nước dễ đồng tình với nhận định của chuyên gia tư vấn chiến lược về tài chính tại Thụy Sĩ, ông Phạm Nam Kim, rằng mối đe dọa trầm trọng nhất cho nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam là mảng kinh tế ảo.
Một minh hoạ rõ nét cho tình hình này là lĩnh vực địa ốc mà hoạt động đầu cơ đã đưa giá nhà đất ở nước ta lên mức đắt nhất nhì thế giới, trong khi GDP đầu người của Việt Nam xếp thứ 139, với 1.095 USD. Đó là mức giá ảo được đẩy lên đã cuốn hút không chỉ các nhà đầu tư tư nhân mà cả doanh nghiệp nhà nước, thậm chí nhiều tập đoàn cũng đã lao vào cơn lốc này. Hậu quả là một lượng lớn nguồn vốn xã hội đã tập trung vào lĩnh vực ấy, tài nguyên của cả nước được dùng vào việc xây cất những cao ốc, chung cư cao cấp phần lớn là để mua đi bán lại. Cái mà nhà nước có được từ hoạt động đầu cơ của doanh nghiệp trong lĩnh vực địa ốc không thấm vào đâu so với bất ổn và căng thẳng xã hội, nhất là vấn đề nhà ở cho người dân ở các đô thị đang phát triển. Tình trạng này đã được cảnh báo nhiều năm qua nhưng đến nay vẫn chưa có dấu hiệu thay đổi.
Theo số liệu mới nhất của Ngân hàng Nhà nước, đã có đến 280 ngàn tỉ đồng được đổ vào thị trường bất động sản. Đây là con số không nhỏ. Hiện nay, hiện tượng bong bóng bất động sản đã xuất hiện ở thành phố Hồ Chí Minh. Dọc theo đại lộ Đông Tây, ước tính có đến 70-80 ngàn căn hộ sẽ được xây dựng trong năm 2011 với giá rất cao, có khi cả 100 triệu đồng/m2.
Nhìn vào lĩnh vực huy động đồng vốn xã hội cũng dễ nhận ra một trạng thái ảo tương tự. Nền kinh tế của một đất nước phát triển đúng hướng là khi biết biến những khoản tiết kiệm thành đầu tư lớn tạo ra giá trị gia tăng, tức là những khoản tiết kiệm dài hạn để tài trợ cho các dự án lớn, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội và làm tiền đề cho phát triển.
Trong khi tài sản trong dân ở nước ta hiện nay, theo dự đoán của các định chế tài chính quốc tế, có thể chiếm phân nửa GDP, thì đặc trưng tiết kiệm của người dân cũng chỉ là ngắn hạn. Trong khi công cụ trái phiếu chính phủ chưa huy động được nhiều nguồn vốn dài hạn, thì hệ thống ngân hàng cũng không thoát khỏi hình thức huy động ngắn hạn nguồn tiền tiết kiệm bằng nội tệ lẫn ngoại tệ, dẫn đến hậu quả đồng tiền nhàn rỗi chạy từ ngân hàng này sang ngân hàng khác theo triều cường lãi suất như thời gian gần đây. Khi đồng tiền mất giá, hay thị trường chứng khoán tuột dốc, các khoản tiết kiệm lại được đổ vào đô la, vàng hoặc đầu cơ địa ốc.
Đây cũng là những biểu hiện của kinh tế ảo, rất cần sớm được điều chỉnh để đưa đồng vốn vào quỹ đạo của kinh tế thật với các chương trình mục tiêu lớn của đất nước mang tính hiệu quả cao.
Thoát khỏi kinh tế ảo, tìm đến sự phát triển bền vững cho nền kinh tế của chúng ta không chỉ đòi hỏi tầm nhìn mà còn cả quyết tâm. Tái thiết kế công cụ tiết kiệm và chính sách tiền tệ, lập lại trật tự bằng chính sách nhà đất hợp lý để ngăn chận đầu cơ... là điều kiện cần nhưng vẫn chưa đủ. Đầu tàu tăng trưởng của nền kinh tế lâu nay dựa vào doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn quốc doanh, đã mất dần sự thuyết phục khi một số không nhỏ những tập đoàn này là những tấm gương xấu, mà Vinashin chỉ là một biểu hiện. Một qui chế phù hợp vào lúc này là rất cần thiết qua đó đặt các tập đoàn quốc doanh phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh bên ngoài bằng luật chơi của thời kỳ hội nhập hơn là giành giật thị trường trong nước với thành phần kinh tế tư nhân yếu thế hơn. Cần đặt doanh nghiệp nhà nước dưới sự quản lý của cạnh tranh lành mạnh, có lợi nhuận thì tồn tại, còn ngược lại thì phải chịu sự đào thải khắc nghiệt mà thôi.
Năm 2011, kinh tế thế giới chưa hoàn toàn phục hồi, tăng trưởng ở nhiều nước phát triển được dự báo ở mức 0,6% đến 1%, điều này khiến cho số vốn nhàn rỗi khổng lồ sẽ tìm đến các thị trường mới nổi để tối đa hoá hiệu quả đầu tư. Trong tình hình ấy, Việt Nam với sự ổn định chính trị và một thị trường tiêu thụ lớn sẽ là điểm lựa chọn của các nhà đầu tư nước ngoài, nếu chúng ta cải thiện được tình hình tài chính, tiền tệ và luật pháp minh bạch hơn.
Về điểm này, ý kiến của giáo sư Michael Porter trong một cuộc hội thảo gần đây tại Hà Nội rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Ông nói rằng: "Khối ASEAN của 10 quốc gia Đông Nam Á là một khu vực có hơn 600 triệu dân với nhiều nền kinh tế đã đạt trình độ cao, có lợi tức trên mức trung bình và thoát khỏi cách thức cạnh tranh chỉ nhờ lợi thế khai thác nhân công giá rẻ. Việt Nam nên học kinh nghiệm của các quốc gia này, vốn dĩ đã khác và tiến bộ hơn kinh nghiệm của Trung Quốc, chưa nói họ còn có nền chính trị dân chủ và môi trường kinh doanh minh bạch hơn". Có thể xem đây là thông điệp cuối năm mà cha đẻ của lý thuyết marketing hiện đại gửi đến chúng ta vào thời điểm Chính phủ đang xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho giai đoạn 10 năm tiếp theo bắt đầu từ năm 2011.
Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 2011 nền kinh tế của chúng ta có thể đạt mức tăng trưởng 6,5%, còn mức tăng trưởng kỳ vọng được thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra trong phiên họp cuối năm 2010 của chính phủ là từ 7 đến 7,5%. Cho dù vậy thì tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam cũng chỉ bằng 15,3% của Indonesia, 33,5% của Thái Lan, 48% của Malaysia, 56% của Singapore, 55,3% của Philippines. Như vậy mới thấy con đường phía trước của chúng ta để bắt kịp các nước khu vực còn rất dài.
Người dân trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài kỳ vọng vào quyết tâm của Chính phủ trong việc giải quyết các vướng mắc về cơ sở hạ tầng, những khiếm khuyết về cơ sở pháp lý dành cho khu vực tư nhân, sự kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước và tình trạng lao động thiếu kỹ năng, cũng như các chính sách tài chính và tiền tệ cùng biện pháp liên quan đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế được xem là chìa khóa tăng trưởng bền vững.