Trong buổi sáng ngày 26/01/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân phản ánh: Hôm qua 25-1, tại Hà Nội, Tòa án Nhân dân tối cao tổ chức Hội nghị triển khai công tác năm 2010 của ngành Tòa án Nhân dân. Ðến dự, có Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết; Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu, Viện trưởng Kiểm sát Nhân dân tối cao Trần Quốc Vượng, Thứ trưởng thường trực Bộ Công an Nguyễn Khánh Toàn, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Nguyễn Văn Thuận, và đại diện nhiều cơ quan ở T.Ư.
Phát biểu ý kiến với hội nghị, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, sau khi nêu rõ tình hình kinh tế-xã hội của đất nước năm 2009, đã khẳng định, trong thắng lợi chung của đất nước có sự đóng góp của các cơ quan tư pháp nói chung, ngành tòa án nói riêng. Năm 2009, ngành tòa án đã khắc phục nhiều khó khăn, xét xử các vụ án với số lượng lớn, tăng 10% so năm trước. Xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, án bị sửa, hủy giảm. Ngành tích cực triển khai thực hiện cải cách tư pháp, như chuẩn bị đề án cải cách tư pháp, tăng cường tranh tụng tại phiên tòa... Ngành đã tăng cường đội ngũ cán bộ, tăng cường quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương, hợp tác quốc tế. Qua đó nâng cao vai trò, vị thế tòa án Việt Nam.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết biểu dương những kết quả nói trên của ngành tòa án, đồng thời nhấn mạnh một số vấn đề mà ngành tòa án cần quan tâm. Chủ tịch nước cho rằng, chất lượng xét xử đang được nâng lên, nhưng án hủy, sửa còn tương đối nhiều. Ðội ngũ cán bộ thiếu nghiêm trọng, trình độ hạn chế, do đó không tránh khỏi sai sót, gây ảnh hưởng không tốt đối với ngành.
Tuy đã được cải thiện, nhưng cơ sở vật chất vẫn yếu kém, phương tiện làm việc thiếu thốn trong đó có trách nhiệm của Ðảng, Nhà nước, ngành cần chủ động khắc phục. Về nhiệm vụ của ngành trong năm 2010, Chủ tịch nước đồng tình với 10 nhiệm vụ báo cáo nêu, nhưng nhấn mạnh, năm 2010 là năm có nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, trong đó có Ðại hội Ðảng các cấp, tiến tới Ðại hội lần thứ XI của Ðảng. Ðại hội có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt, hoạch định đường lối phát triển đất nước trong thời gian tới. Năm 2010, Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN, trong đó có nhiều hội nghị quan trọng diễn ra ở nước ta, năm 2010 cũng là năm chúng ta tổ chức Ðại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội và nhiều sự kiện quan trọng khác của đất nước. Trong khi đó, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội ngày càng phức tạp, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá ta.
Do vậy, chúng ta phải nỗ lực hết sức mình để đưa đất nước tiếp tục phát triển. Chủ tịch nước lưu ý ngành tòa án ba việc. Một là, tòa án nhân dân các cấp phải xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội, nhưng không làm oan người vô tội. Ðể làm được như vậy, cán bộ tòa án phải có tâm, có tài và phải bố trí đủ cán bộ cho các tòa án, thực hiện chính sách đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ tòa án. Các tòa án phải xây dựng cơ quan, Ðảng bộ trong sạch, vững mạnh. Hai là, phải đẩy mạnh thực hiện cải cách tư pháp trong toàn ngành theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị và phải theo đúng lộ trình. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc: Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Ba là, tăng cường công tác giám sát, sự phối hợp với các ngành, địa phương, nhất là trong công tác cán bộ. Ðồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là với Lào, Cam-pu-chia.
2. Trang web Tuanvietnam.net có bài Xin hỏi ông Bí thư Tỉnh ủy. Bài báo phản ánh: Sau phát biểu của bí thư tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế Hồ Xuân Mãn về những thành tích của địa phương được đăng tải trên một số tờ báo, một nhà Sử học muốn ông Mãn nói rõ hơn, cụ thể hơn về những thành tích đó. Để rộng đường dư luận cũng là tôn trọng tính đa chiều của truyền thông, Tuần Việt Nam đăng ý kiến thể hiện quan điểm riêng của ông Hà Văn Thịnh, giảng viên trường Đại học Huế.
Trong mục Chào buổi sáng của báo Thanh Niên, số ra ngày 25.1.2010, có đăng tải những phát biểu của Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế Hồ Xuân Mãn. Ông Mãn cho rằng đầu nhiệm kỳ, người nghèo ở tỉnh TTH là 28%, nay còn 8%; tỉnh đã lo cho 31.000 đồng bào dân tộc có nhà "4 cứng" và; nhất là tỉnh TTH luôn "nói đi đôi với làm". Nếu đúng như thế thì thật là diệu tuyệt. Nhưng vì là một nhà sử học, nói cái gì cũng phải có sách, mách có chứng nên tôi muốn ông Bí thư Tỉnh ủy tỉnh TTH cho biết rõ - cụ thể hơn những thành tích rất đáng trân trọng ấy.
(1). Nếu TTH đã giảm được trên 70% số hộ nghèo chỉ trong một nhiệm kỳ lãnh đạo thì đó là một kỷ lục, không chỉ đối với Việt Nam mà là cả thế giới! Đây là thành tích cần phải được nhân rộng cho 62 tỉnh, thành khác học tập. Và, tôi cho rằng nếu bỏ qua điều này là một sự lãng phí tài năng ghê gớm. Vấn đề là ở chỗ dư luận muốn biết bằng cách nào, kinh phí lấy từ nguồn nào, các công đoạn của nó được tiến hành ra sao; bởi vì trên thực tế, không thấy tỉnh TTH có những đổi thay đột biến để tạo nên đột biến ghê gớm trên?
(2). Chỉ cần ngồi ở một quán cóc trên đường Lê Hồng Phong - trung tâm thành phố, khoảng một giờ đồng hồ, bất kỳ ai cũng được "tiếp xúc" với 10-15 người ăn xin, bán vé số. Họ có phải là người nghèo hay không? Tại sao TTH có tỷ lệ ăn xin và bán vé số cao nhất nước trong khi người nghèo đã giảm nhanh đến như thế? Xin nhấn mạnh rằng cũng trong chừng ấy thời gian vào buổi chiều tối, sẽ "bị" không ít hơn 10 đứa trẻ chèo kéo mua đậu phụng rang, bánh phồng tôm. Những đứa trẻ đó chỉ khoảng 8-11 tuổi.
(3). Tiêu chuẩn "nghèo" mà ông Bí thư Tỉnh ủy "xếp hạng" là dựa trên căn cứ nào? Theo các công trình nghiên cứu của Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn trường Đại học Khoa học Huế thì tỉnh TTH là một trong những địa phương có tỷ lệ người nghèo cao nhất nước. Xin nhớ rằng nếu thu nhập bình quân dưới 1.000 USD/người/năm, thì vẫn thuộc dạng nghèo; còn dưới 500 USD thì chắc chắn là thuộc diện đói nghèo. Cũng xin nhấn mạnh rằng tiêu chuẩn nghèo mà tỉnh TTH đang cố tính là theo Thông tư số 170/TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 8.7.2005, trong đó quy định rằng mức nghèo là dưới 200.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 260.000 đồng/người/tháng ở thành phố. Cách tính đó đã lạc hậu vì ai cũng biết chẳng một ai (kể cả trẻ con) có thể sống nổi ở một thành phố với thu nhập nửa USD/ngày(!) Đó là chưa muốn nói rằng số liệu mà ông Bí thư Tỉnh ủy đã đưa ra là không chính xác (tuy vẫn theo cách tính để lấy thành tích của ông). Số liệu của Sở Lao động - Thương binh - Xã hội TTH cho biết năm 2009, TTH có 21.168 hộ nghèo với 75.945 nhân khẩu, chiếm 8,85% (ông Bí thư đã bớt đi 0,85%). Thế nhưng số người "cận nghèo" (một cách nói để giảm thiểu sự sút giảm của thành tích. Trên thực tế là chẳng khác gì nhau. Nghèo và không nghèo chứ không thể có chuyện "cận nghèo"), là 5,75%. Cộng lại, TTH, tuy tính toán khác rất xa với thực tế, vẫn có 14,6% người rất nghèo.
(4). Các dân tộc ít người ở tỉnh TTH có gần 50.000 người. Ông Bí thư Tỉnh ủy Hồ Xuân Mãn cho rằng "tỉnh đã lo cho 31.000 đồng bào dân tộc có nhà "bốn cứng" là chính xác hay không? Được biết, nhà của đồng bào được xây dựng theo Đề án 135 của Chính phủ và kinh phí để thực hiện là do nguồn từ Nhà nước và các cơ quan hợp tác quốc tế. Tại sao tỉnh TTH có thể nói là chính họ đã lo cho đồng bào? Mặt khác, 40% còn lại vẫn chưa có nhà "bốn cứng" là nghĩa làm sao khi chỉ có 8% người nghèo? Đó là chưa nói chuyện xây nhà xong nhưng trong đó chẳng có gì, thu nhập của người dân không thay đổi gì thì quả thật, chỉ mới đem cái áo khoác lên cho người nghèo bớt xấu một chút mà thôi!
(5). Người viết bài này đã sống và làm việc ở tỉnh TTH 33 năm, đã chứng kiến sự thay đổi của nhiều lãnh đạo nhưng chưa hề thấy bất kỳ sự thay đổi thực sự nào từ ý tưởng, cách làm việc của những người lãnh đạo ấy. Tôi sẵn sàng tranh luận với bất kỳ vị lãnh đạo nào về đề tài này. Chỉ cần bước qua đèo Hải Vân là thấy xấu hổ vì mình là người Huế. Sự đủng đỉnh của Huế, tính bảo thủ muôn đời của nó là điều ai cũng biết. Thật là buồn khi mình gắn bó với một quê hương mà quê hương ấy chỉ thay đổi gọi là, phát triển gọi là...
Là người dân, rất ước mong rằng các vị lãnh đạo hãy nói được sau khi đã làm được. Xin ông Bí thư Tỉnh ủy tỉnh TTH trả lời những câu hỏi của tôi.
3. Báo Tuổi trẻ có bài VN trả nợ ODA Nhật Bản: 4.000-5.000 tỉ đồng/năm. Bài báo phản ánh: Đây là con số ước tính do Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đưa ra tại cuộc họp báo ngày 25-1. Tuy vậy, ông Motonori Tsuno - trưởng đại diện JICA tại VN - cho biết họ “không lo lắng gì về năng lực trả nợ của VN”.
Ông Motonori Tsuno nói VN bắt đầu trả các khoản vay đã tiếp nhận trong giai đoạn 1992-1999 từ năm 2009. Năm ngoái, tổng số vốn thực hiện đạt con số kỷ lục là 121,5 tỉ yen và hiện VN là nước nhận vốn vay ODA lớn nhất trong các nước đang phát triển mà JICA đang hỗ trợ. “Bây giờ không thể tính ngay mỗi năm tiếp theo phải trả nợ bao nhiêu nhưng sẽ vào khoảng 20-25 tỉ yen/năm - ông Tsuno nói và cho biết thêm - Lượng vay càng nhiều thì mỗi năm khoản trả nợ của VN sẽ càng nhiều lên”.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Chiều 25-1, báo Pháp luật Việt Nam phát động cuộc thi viết “Gương sáng Tư pháp” nhằm phát hiện, biểu dương những điển hình tiên tiến, những sáng kiến mới, những mô hình, cách làm hay cần nhân rộng, những người tâm huyết đối với công tác Tư pháp, Thi hành án dân sự ở tất cả các đơn vị. Thể loại bài dự thi: Phóng sự, ký sự, bài phản ánh, ghi chép, phỏng vấn (không dài quá 1.200 từ, trừ trường hợp bài viết nhiều kỳ). Địa điểm nhận bài thi: Báo Pháp luật Việt Nam, tầng 1 Nhà No2, Dịch Vọng, đường Trần Quý Kiên, Cầu Giấy, Hà Nội; hoặc tuphap@phapluatvn.vn. 2. Báo Nhân dân có bài Nhiều địa phương ban hành VBQPPL lộn xộn: Chính quyền vướng, dân khổ. Bài báo phản ánh: Tại buổi tọa đàm về việc xác định tiêu chí phân loại thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của chính quyền địa phương sáng 24-1, đại diện nhiều Sở Tư pháp điạ phương đã “than trời” về những rắc rối khi việc ban hành VBQPPL phải chịu sự điều chỉnh của hai luật ( Luật ban hành VBQPPL năm 2008 và Luật ban hành VBQPPL cuả HĐND, UBND năm 2004).
Chủ trì buổi tọa đàm, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên nhấn mạnh, hệ thống VPQPPL hiện nay ở nước ta còn rườm rà, gây khó khăn cho việc áp dụng. Vì vậy, cần đơn giản hoá thủ tục, trình tự ban hành bằng việc hướng đến vấn đề thống nhất hai văn bản luật cùng điều chỉnh việc ban hành. “ Văn bản được ban hành cần cố gắng đi vào cuộc sống, và ít hướng dẫn hơn. Cứ như tình trạng văn bản hiện nay có hướng dẫn nữa cũng vẫn còn thiếu. Luật muốn “sống lâu” phải có tính khái quát cao”-ông Hoàng Thế Liên nói.
Nhiều đại biểu tham gia tọa đàm cho rằng, cần xác định lại một cách rõ ràng vị trí, thẩm quyền ban hành VBQPPL và phải có sự phân cấp rõ ràng hơn. Trên thực tế, hiện nay nhiều nơi khi tiến hành áp dụng hai luật nói trên đều bị vướng vì nguyên nhân chủ yếu là “không xác định rõ thẩm quyền”. Tại nhiều nơi, một số văn bản do địa phương ban hành với tính chất quy định chi tiết nhưng khi soạn thảo không thể hiện nội dung cần quy định chi tiết mà cắt xén và chép lại không đầy đủ các quy định của trung ương. Việc làm này không đúng về thẩm quyền ban hành về mặt nội dung, làm cho hệ thống VBQPPL chồng chéo, trùng lắp. Đối với UBND thì văn bản chủ yếu là Chỉ thị nhưng cũng khó xác định đâu là VBQPPL, đâu là chỉ thị cá biệt. Trong khi đó, theo Luật ban hành VBQPPL năm 2008, không có hình thức VBQPPL là Chỉ thị cả.
Tại quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản chưa phân biệt được hình thức văn bản nên có những văn bản thực chất là văn bản cá biệt nhưng lại soạn thảo theo hình thức VBQPPL. Trình tự thông qua VBQPPL đôi khi chưa được thực hiện đúng quy định. Phó Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh Ung Thị Xuân Phương cho biết, trong năm 2009 hầu như không có xã, phường nào tại đây ban hành VBQPPL nào. Theo đề án xây dựng thành phố đang được đệ trình, thẩm quyền của Thị trưởng sẽ được trao nhiều hơn so với thẩm quyền của Chủ tịch UBND hiện nay.
Qua công tác kiểm tra việc ban hành VBQPPL tại tỉnh Nghệ An trong thời gian qua, phát hiện nhiều sai phạm trong việc ban hành văn bản cả về nội dung, hình thức, thẩm quyền. Ông Nguyễn Ngọc Minh- đại diện Sở Tư pháp tỉnh Nghệ An cho rằng, cần tiến tới thống nhất hai văn bản pháp luật trên.
Đại diện Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Phúc cho rằng, nhiều cán bộ hộ tịch ở xã không biết xã đã ban hành những văn bản gì, nhiều xã khi ban hành cứ thoải mái chèn năm ban hành vào giữa văn bản, thế là thành VBQPPL, gây khó khăn cho việc rà soát cũng như khó xác định đâu là VBQPPL. “Không ai chịu trách nhiệm trước dân về việc ban hành sai, tham mưu sai cả. Xu hướng hiện nay là sai đâu sửa đấy. Chính sách trên giấy chỉ có lợi cho những người ban hành còn dân thì phải “nợ” vì quyền lợi của họ thường không được thể hiện.” Đại diện quan điểm này cho rằng luật, nghị định càng cụ thể bao nhiêu, việc ban hành văn bản ở cấp dưới càng đỡ tầng nấc bấy nhiêu. Vì vậy, cần nhanh chóng hợp nhất hai luật hơn.
3. Trang web Saga.vn có bài Cấm giao dịch chỉ số Vn-Index có đúng luật. Bài báo phản ánh: Quản lý theo hình thức cấm đoán hay tạo khung hành lang pháp lý thì hiệu quả hơn khi xuất hiện một giao dịch mới trong xã hội? Pháp luật luôn bị lạc hậu khi thực hiện vai trò điều chỉnh là điều rất bình thường. Xong sẽ không bình thường nếu giải quyết vấn đề bị lac hậu này một cách tùy nghi, thiếu cơ sở và mang tính mệnh lệnh hành chính duy ý chí. Cách giải quyết kinh doanh chỉ số Vn-Index là một điển hình. Ngày 11/01/2010, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) ra Công văn số 119/UBCK-PTTT về việc yêu cầu các công ty không được triển khai tổ chức giao dịch sản phẩm đầu tư chỉ số VN-Index. Căn cứ pháp lý để UBCKNN đưa ra ý kiến này là Điều 33, Luật chứng khoán 2006. Vậy điều 33 quy định về vấn đề gì? Tại khoản 3, điều 33 quy định: "Ngoài Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán, không tổ chức, cá nhân nào được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán”.
Nếu đã xác định là vi phạm điều 33 thì tại sao UBCKNN lại không áp dụng các điều 120, 124 Luật chứng; điều 14, Nghị định 36/2007/NĐ-CP để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán đối với các Công ty nêu trong Công văn? Phải chăng UBCKNN chưa đảm bảo tính hợp pháp trong nội dung của Công văn 119/UBCK-PTTT? Vấn đề mấu chốt để xem xét tính hợp pháp của công văn 119/UBCK-PTTT là cần làm rõ khái niệm “thị trường giao dịch chứng khoán” là gì? Cũng lưu ý thêm là chúng ta sẽ phải xem xét, đối chiếu với các quy định còn hiệu lực hiện hành chứ không phải suy diễn về mặt học thuật hay lý thuyết thị trường tài chính thuần túy.
Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán (Khoản 18, điều 6, Luật Chứng khoán). Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành (Khoản 1, điều 6, Luật Chứng khoán). Như vậy, rõ ràng thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật hiện hành là nơi chỉ để giao dịch mua bán các chứng khoán. Còn chỉ số VN-Index không phải là một trong các loại chứng khoán thì khi giao dịch chỉ số này dĩ nhiên không thể nói là giao dịch chứng khoán và Công ty tổ chức giao dịch lại càng không phải là hành vi tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán. Đến đây thì Công văn 119/UBCK-PTTT có chuẩn xác về mặt pháp lý hay không đã rõ. Vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán của UBCKNN là điều không thể chối cãi nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc đứng trên quy định của pháp luật để có những nhận định chủ quan, duy ý chí. Hơn nữa, nếu đã không hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán thì các Công ty này lại càng không phải chịu sự quản lý (nghĩa vụ báo cáo) của UBCKNN (Chức năng của UBCKNN quy định tại điều 8, Luật chứng khoán; điều 1, Quyết định 112/2009/QĐ-TTg).
Trở lại với nghiệp vụ giao dịch sản phẩm đầu tư chỉ số VN-Index , đây chỉ là việc kinh doanh theo hình thức nhận định tình huống của sự biến động chỉ số VN-Index, không có bất cứ sự liên can gì đến chứng khoán. Nhưng nhận định như vậy cũng không đồng nghĩa với việc các Công ty trên tổ chức giao dịch sản phẩm đầu tư chỉ số VN-Index là hợp pháp. Công ty chỉ hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện (khoản 1, điều 9, Luật doanh nghiệp). Nếu vi phạm sẽ bị xử phạt theo quy định tại khoản 1, điều 10, Nghị định 06/2008/NĐ-CP đối với hành vi kinh doanh không đúng ngành nghề, vì vậy, muốn có kết luận đúng sai còn phải xem xét giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các công ty trên.
Thời gian qua chúng ta đã bàn nhiều về kinh doanh vàng qua phương thức Sàn giao dịch vàng và Thủ tướng đã có quyết định chính thức để chấm dứt hình thức kinh doanh này. Trong phạm vi bài viết này tôi chưa nhận định tính hợp pháp của quyết định này nhưng về mặt kinh tế thì có thể hiểu và dễ dàng chấp nhận điều đó nhất là thời gian gần đây khi mà giá vàng trong nước luôn cao hơn giá vàng thế giới. Còn chỉ số VN-Index, nó sẽ ảnh hưởng đến ai, lĩnh vực gì? Có văn bản nào cấm chưa? Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm (Khoản 1, điều 7, Luật Doanh nghiệp). Nếu chưa có thì rõ ràng doanh nghiệp được quyền kinh doanh. Chúng ta đang thực hiện định hướng xã hội là sống và làm theo quy định của pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Cấm đoán là một trong những phương cách quản lý Nhà nước chẳng đặng đừng khi áp dụng. Nếu nhu cầu xã hội là cần thiết thì có cấm người dân sẽ vẫn làm (điều này chắc ai cũng có thể minh chứng). Quan trọng nhất trong cách tư duy quản lý là làm sao để mọi hoạt động giao dịch phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Sáng tạo và tìm ra các phương thức kinh doanh mới là điều nên khuyến khích hơn là hạn chế. Chỉ đến khi nào có đủ căn cứ chính xác cho rằng sự sáng tạo đó có mặt thiệt hơn là mặt lợi thì hãy cấm. Một đất nước mà chỉ biết làm theo những gì thế giới đã có, chỉ biết sao chép hơn là tư duy sáng tạo thì đừng nghĩ đến một ngày có thể sánh vai cùng cường quốc năm châu. Xin hãy cho mọi người được quyền sáng tạo và nên giúp đỡ họ hơn là cấm đoán họ.
4. Thời báo kinh tế Sài gòn online có bài Những quy định “bất khả thi”. Bài báo phản ánh: Xét về nguyên tắc, các văn bản quản lý về hoạt động xuất nhập khẩu phải phù hợp với tình hình thực tế khách quan và không gây ách tắc cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế đã phát sinh không ít trường hợp ngược lại. Bài viết này dẫn ra vài trường hợp để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn tình trạng bất cập nói trên.
(1).Thông tư 116/2008/TT-BTC ngày 4-12-2008 của Bộ Tài chính quy định: doanh nghiệp gia công phải đăng ký số lượng nguyên phụ liệu và định mức nguyên phụ liệu tại thời điểm đăng ký hợp đồng gia công (điểm I và II). Cũng không quá khó để có thể nhận ra rằng khi đã xác định được số lượng chủng loại nguyên phụ liệu của hợp đồng gia công thì quá trình theo dõi nguyên liệu gia công nhập khẩu chỉ là một phép tính trừ lùi đơn giản. Cùng với việc xác định nguyên liệu gia công nhập khẩu, việc xác định được định mức sử dụng nguyên phụ liệu ngay từ đầu sẽ giúp người quản lý xác định ngay được số lượng sản phẩm gia công xuất khẩu. Quy định này rõ ràng rất thuận lợi cho công việc của cơ quan quản lý, đặc biệt là các cơ quan tài chính, hải quan.
Tuy nhiên với các doanh nghiệp, tình hình lại hoàn toàn khác. Hợp đồng gia công chỉ ghi nhận các nội dung có tính nguyên tắc chẳng hạn như: số lượng sản phẩm gia công, điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán, thời gian hiệu lực của hợp đồng... Trên thực tế hợp đồng chỉ được sử dụng trong các trường hợp có phát sinh tranh chấp, khiếu kiện... Phụ lục hợp đồng (Annex) mới chính là văn bản ghi nhận số lượng mặt hàng cụ thể và được coi là cơ sở trực tiếp để xác định số lượng chủng loại nguyên phụ liệu và định mức. Phụ lục hợp đồng do người thuê gia công, căn cứ vào diễn biến thực tế của thị trường, để phát hành. Một hợp đồng gia công có thể có tới vài chục phụ lục và trong quá trình thực hiện mỗi phụ lục lại có thể được điều chỉnh nhiều lần về số lượng, kiểu dáng, màu sắc... Nếu thay đổi kiểu dáng, màu sắc sẽ dẫn đến thay đổi định mức, chủng loại nguyên liệu và tổng số lượng nguyên phụ liệu của hợp đồng. Thông thường tại thời điểm đăng ký hợp đồng gia công người thuê và người nhận gia công mới chỉ xác định được không quá 10% số lượng mặt hàng cụ thể (so với tổng số sản phẩm của hợp đồng). Vì vậy yêu cầu doanh nghiệp gia công phải đăng ký số lượng chủng loại và định mức nguyên phụ liệu tại thời điểm đăng ký hợp đồng là một yêu cầu không thể thực hiện được.
Có thể sẽ có câu hỏi: vậy các thông tin về định mức, số lượng chủng loại nguyên liệu do doanh nghiệp khai báo tại thời điểm đăng ký hợp đồng gia công thời gian vừa qua được hiểu như thế nào?
Qua khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp chúng tôi được biết hầu như toàn bộ thông tin về số lượng chủng loại và định mức nguyên phụ liệu doanh nghiệp đã khai báo với hải quan trong bước đăng ký hợp đồng là... những thông tin “trên trời” do các doanh nghiệp “buộc phải vẽ ra”. Nếu đối chiếu các thông tin về định mức, số lượng nguyên liệu mà doanh nghiệp đã khai báo tại thời điểm đăng ký hợp đồng với các thông tin thực tế đã thực hiện ta sẽ thấy hai nguồn thông tin này hầu như chẳng liên quan gì với nhau.
(2). Về thanh khoản tờ khai nhập khẩu nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, tại khoản 2, điều 35, Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20-4-2009 của Bộ Tài chính quy định: “Tờ khai nhập khẩu trước, tờ khai xuất khẩu trước phải được thanh khoản trước...”. Có lẽ không quá khó để nhận ra rằng quy định này rập khuôn theo phương pháp kế toán kho hàng “nhập trước xuất trước” (First in first out - FIFO) mà nhiều nước đang áp dụng. Tuy nhiên cũng cần nói rõ thêm rằng khái niệm “nhập trước xuất trước” của nghiệp vụ kế toán kho hàng chỉ là quy ước về mặt giá trị (giá mua hàng và các chi phí có liên quan) mà thôi. Trên thực tế, về mặt hiện vật hàng hóa có thể nhập kho sau xuất bán trước nhưng giá mua hàng và các chi phí có liên quan thì vẫn phải hạch toán theo nguyên tắc “nhập trước xuất trước”. Khái niệm thanh khoản tờ khai hải quan được hiểu là hiện vật hàng hóa thực tế đã nhập vào hay xuất đi. Vì vậy sẽ là sai lầm tai hại nếu khái niệm nhập trước xuất trước được “phiên dịch” thành “Tờ khai nhập khẩu trước, tờ khai xuất khẩu trước phải được thanh khoản trước...”. Để bạn đọc tiện tham khảo chúng tôi xin nêu một ví dụ cụ thể sau.
Diễn biến xuất nhập khẩu thực tế (trong năm 2009) của một doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản như sau: Tháng 1 nhập khẩu 1 container cá tuyết; tháng 2 nhập khẩu 1 container cá mực; tháng 3 nhập khẩu 1 container cá hồi; tháng 5 có khách hàng mua cá hồi và doanh nghiệp xuất khẩu bốn tờ khai cho bốn khách hàng vào các ngày 2, 7, 20 và 28-5. Các tờ khai xuất khẩu ngày 2 và 7-5 xuất khẩu trước nhưng chưa nhận được chứng từ thanh toán qua ngân hàng nên không thanh khoản được, hai tờ khai xuất khẩu sau nhưng đã đủ các chứng từ theo quy định. Thực tế trên đây cho thấy tờ khai nhập khẩu sau nhưng đã xuất khẩu, trong khi đó tờ khai nhập khẩu trước thì hàng hóa vẫn còn trong kho, hàng xuất cũng trong tình trạng tương tự. Trong trường hợp này mà phải tuân theo quy định “Tờ khai nhập khẩu trước, tờ khai xuất khẩu trước phải được thanh khoản trước...” thì doanh nghiệp chỉ còn biết... kêu trời. Rõ ràng quy định kiểu này đã quá máy móc, không thực tế mà còn đẩy doanh nghiệp vào thế bế tắc.
(3). Thông tư 116/2008/TT-BTC quy định khi chuyển giao nguyên liệu gia công cho doanh nghiệp khác (cùng gia công cho một đối tác nước ngoài) thì doanh nghiệp phải viết hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT). Trong hoạt động gia công nguyên liệu gia công là tài sản của người thuê gia công, các doanh nghiệp Việt Nam (người nhận gia công) chỉ có trách nhiệm bảo quản nguyên liệu để sử dụng cho quá trình gia công sản phẩm theo hợp đồng. Về mặt quản lý, doanh nghiệp Việt Nam chỉ ghi chép, theo dõi số lượng hiện vật qua hệ thống số kho, không theo dõi về mặt giá trị và cũng không phản ánh trên sổ kế toán kho. Tài sản của người khác mình chỉ giữ hộ, không bán hàng và cũng không thu tiền vậy căn cứ vào đâu để viết hóa đơn GTGT? Viết hóa đơn GTGT trong khi không thu tiền thì hạch toán kế toán theo phương pháp nào?
Rõ ràng yêu cầu doanh nghiệp xuất hóa đơn GTGT trong trường hợp này không chỉ mâu thuẫn với các quy định của Nghị định 89/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hóa đơn, mà còn hoàn toàn trái ngược với Thông tư 120/2002 về sử dụng hóa đơn và Quyết định số 15/2006 về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Hy vọng rằng trong các văn bản sắp ban hành của Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan, những quy định kiểu bất khả thi như thế này sẽ không còn tái hiện nữa.