Điểm tin báo chí sáng ngày 30 tháng 12 năm 2010

30/12/2010
Trong buổi sáng ngày 30/12/2010, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Nhân dân đưa các tin:

* Ngày 29-12, Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh cùng Ðoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên đã tiếp xúc cử tri Ðịnh Hóa, một huyện miền núi vùng Thủ đô kháng chiến chống thực dân Pháp.

* Ngày 29-12, tại Hà Nội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp T.Ư chủ trì Phiên họp lần thứ 23 Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp T.Ư. Phiên họp tập trung thảo luận Báo cáo kết quả nghiên cứu thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và Viện Kiểm sát nhân dân khu vực, Chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp năm 2011.

Sau khi nghe các ý kiến đóng góp vào những nội dung được đưa ra thảo luận, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết phát biểu ý kiến kết luận phiên họp, đánh giá công tác cải cách tư pháp những năm qua đạt được những chuyển biến tích cực, bám sát tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/T.Ư của Bộ Chính trị về 'Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020'. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, tăng thẩm quyền của tòa án cấp huyện ngày càng được nâng cao về chất lượng, cơ sở vật chất của các cơ quan tư pháp được đầu tư hơn trước; đồng thời nhận thức của các ngành, các cấp về Nghị quyết 49-NQ/T.Ư cũng có chuyển biến tốt. Ðối với những khó khăn, hạn chế trong công tác tư pháp, Chủ tịch nước nhấn mạnh: Người dân quan tâm nhất là cơ quan tư pháp phải trong sạch, vững mạnh; xét xử đúng người, đúng tội, hạn chế đến mức thấp nhất án oan sai. Vì vậy, cải cách tư pháp phải tập trung vào vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngay từ cấp cơ sở, nâng cao chất lượng xét xử, đồng thời đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát. Phải tạo được bước chuyển biến đột phá trong cải cách tư pháp.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhất trí với phương án triển khai từng bước thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và Viện Kiểm sát nhân dân khu vực. Theo đó, những địa phương có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ thì tiến hành thành lập ngay; nơi nào chưa đủ điều kiện cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và thành lập theo lộ trình đã được xác định. Việc triển khai phải được thực hiện chặt chẽ, các cơ quan tư pháp thường xuyên rút kinh nghiệm, tham vấn với các cơ quan của Quốc hội trong vấn đề sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan để thực hiện chủ trương này. Chủ tịch nước cũng đề nghị, trên cơ sở Chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp năm 2011, các cơ quan tư pháp cần cụ thể hóa nội dung công tác, tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ cải cách tư pháp, gắn việc triển khai từng bước thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và Viện Kiểm sát nhân dân khu vực vào chương trình công tác ngay trong năm 2011.

* Ngày 29-12, tại Trụ sở Chính phủ, dưới sự điều hành của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 12-2010.

* Ngày 29-12, kỷ niệm 65 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên, bầu ra Quốc hội Việt Nam (6-1-1946 -  6-1-2011), thành phố Hà Nội tổ chức gặp mặt các thế hệ đại biểu Quốc hội (ÐBQH) thành phố Hà Nội từ khóa I đến khóa XII.

2. Báo dautu.vn có bài Hợp tác xã còn thiếu đầu mối quản lý. Bài báo đưa tin: Tại hội thảo góp ý kiến vào Dự thảo Luật Hợp tác xã vừa được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Văn phòng đại diện Tổ chức phi chính phủ quốc tế CARE tại Việt Nam tổ chức, ông Nguyễn Xuân Dư, Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái cho rằng, quy định số thành viên tối thiểu của hợp tác xã như trong Dự thảo (7 thành viên) là quá thấp.

Chuyên gia tư vấn của JICA, bà Vũ An Thư cho biết, nhiều hợp tác xã do JICA hỗ trợ đăng ký số lượng thành viên lên đến 25 - 30 người, nhưng trên thực tế chỉ có 7 - 10 thành viên trực tiếp làm việc trong hợp tác xã.

Vẫn theo bà Thư, nếu nâng số lượng thành viên tối thiểu lên trên 7 người, thì Dự luật cần phải có một chương quy định về mô hình tổ chức, hoạt động, các cơ chế chính sách ưu đãi đối với loại hình "hợp tác xã mini". Bằng kinh nghiệm thực tế của mình, các c

huyên gia tư vấn Dự án AFD - CDIM cho rằng, do trình độ dân trí tại nhiều vùng nông thôn còn rất thấp, nên người dân có xu hướng muốn tham gia tổ hợp tác, thay vì tham gia hợp tác xã. Vì vậy, một mặt, không nên nâng số thành viên tối thiểu lên quá cao, mặt khác, cũng cần phải luật hoá những quy định về tổ chức, hoạt động, cũng như các biện pháp hỗ trợ đối với tổ hợp tác.

Trong số 21 nền kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay, thì có 6 nền kinh tế thành lập hẳn một bộ thực hiện quản lý nhà nước về hợp tác xã, 12 nền kinh tế  có đơn vị trực thuộc bộ chuyên trách quản lý nhà nước về hợp tác xã và chỉ có 3 nền kinh tế (trong đó có Việt Nam) không có đầu mối chuyên trách về hợp tác xã.

Vì vậy, hiện có nhiều ý kiến cho rằng, cần phải thành lập một cơ quan trực thuộc Chính phủ hoặc một cơ quan cấp tổng cục trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hợp tác xã.

3. Báo điện tử VTC News đưa tin: Theo Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, trong nửa đầu tháng 1/2011, Bộ GD&ĐTsẽ ký ban hành điều kiện mở ngành đào tạo ĐH, CĐ, TCCN.

Bộ GD&ĐT sẽ không giao thẩm định chương trình mở ngành đối với trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cho Vụ Đại học mà giao cho các hội đồng bao gồm các nhà khoa học có kinh nghiệm, uy tín, có phẩm chất.

Những trường nào có đội ngũ giảng viên đảm bảo, có bề dày hoạt động, quá trình hoạt động nghiêm túc, không chỉ trong đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ mà cả đào tạo ĐH chính quy, vừa học vừa làm, Bộ sẽ giao cho trường đó tự xem xét, thẩm định các chương trình. Những trường mới thành lập, chưa có bề dày kinh nghiệm, Bộ sẽ chỉ định mang chương trình đến hội đồng của trường nào đó đủ điều kiện thẩm định.

Việc đánh giá cơ sở vật chất, đội ngũ của trường Bộ sẽ giao cho địa phương. Về phía Bộ sẽ thanh, kiểm tram đột xuất và định kỳ và có biện pháp xử lý công bố công khai. Cách làm này cũng sẽ áp dụng cho cả việc mở ngành đào tạo ĐH, CĐ và trung cấp.

4. Báo điện tử Chính phủ đưa tin: Bộ Công thương đã ban hành Thông tư 41/2010/TTBCT ngày 14/12/2010  về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành khung giá phát điện và phê duyệt hợp đồng mua bán điện.

Thông tư áp dụng với đơn vị phát điện sở hữu nhà máy điện có tổng công suất lắp đặt trên 30MW đấu nối với hệ thống điện quốc gia trừ các nhà máy thuỷ điện chiến lược đa mục tiêu, các nhà máy điện cung cấp dịch vụ phụ trợ kỹ thuật, các nhà máy điện độc lập được đầu tư theo hình thức BOT và các nhà máy điện sử dụng năng lượng mới tái tạo; Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các tổ chức, cá nhân có liên quan.

Bộ Công Thương yêu cầu Cục Điều tiết điện lực có trách nhiệm thẩm định và trình Bộ Công thương ban hành khung giá phát điện hàng năm; thẩm định và phê duyệt hợp đồng mua bán điện và các hiệu chỉnh bổ sung hợp đồng của các nhà máy điện; hướng dẫn và giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán điện giữa các bên; giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán điện trong trường hợp hai bên thoả thuận thực hiện giải quyết tranh cấp tại Cục Điều tiết điện lực.

Thông tư có hiệu lực từ ngày 28/1/2011.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Nghi vấn 13 cháu bé người Rục bị đưa ra nước ngoài. Bài báo phản ánh: Tám hộ dân ở các bản Ón, Yên Hợp, Mò O Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hoá, huyện Minh Hoá, Quảng Bình đã phát đơn khiếu nại trung tâm Nuôi dưỡng người có công và đối tượng xã hội Quảng Bình về việc đưa con họ đi nước ngoài mà không thông qua họ.

Đơn của họ cáo buộc trung tâm này vô trách nhiệm với các cháu và gia đình họ trong mấy năm qua.

Lá đơn của tám hộ dân được gửi đến UBND tỉnh Quảng Bình, công an tỉnh và một số cơ quan báo chí. Đứng tên đơn có bà Cao Thị Hồng, Trần Thị Thu, Đinh Thị Thuỷ, Hồ Thị Pấy, Cao Thị Bảo, Cao Thị Biên, Cao Tiến Thuỳnh. Theo các hộ trình bày qua đơn: “Tháng 1.2006, sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh Quảng Bình ra quyết định tiếp nhận đối tượng xã hội vào nuôi dưỡng tập trung tại trung tâm Nuôi dưỡng người có công và đối tượng xã hội tỉnh Quảng Bình gồm có 13 cháu là những đối tượng mồ côi cha, ở với mẹ, hoặc mồ côi mẹ, ở với cha không có khả năng nuôi dưỡng các cháu. Thấy được sự quan tâm đó, chúng tôi quyết định cho con em vào trung tâm để học hành, rèn luyện để được trưởng thành. Sau một thời gian, chúng tôi nhớ các con và ra thăm, thì gặp các cháu, đến khoảng tháng 6.2006, chúng tôi ra thăm con, thì không thấy con đâu cả. Đến bây giờ, số con cháu chúng tôi vẫn biệt vô âm tín”. Các gia đình cho rằng, con cái của họ đã bị mất tích.

Lá đơn viết tiếp: “Trong số 13 cháu trên, có cháu Cao Đức Bượi sinh ngày 13.12.1995, nhưng cán bộ tư pháp xã Thượng Hoá làm lại giấy khai sinh cho cháu, vì vậy, cháu mới mang khai sinh ngày 20.6.1998. Qua sự việc trên, chúng tôi thấy cán bộ trung tâm Nuôi dưỡng người có công và đối tượng xã hội Quảng Bình đã lợi dụng chúng tôi, lừa dối và chuyển 13 cháu là con em chúng tôi ra nước ngoài để trục lợi”.

Chúng tôi đã làm việc với bà Lê Thị Thu Hà, giám đốc trung tâm về sự việc trên, nhưng bà Hà thoái thác, không phát ngôn. Bà Hà hẹn sẽ cung cấp đầy đủ hồ sơ sự việc, nhưng đến hẹn, bà lại lấy lý do nhân viên giữ hồ sơ đi vắng. Trong khi đó, bà Hà khẳng định, các cháu không hề mất tích, mà đã được trở thành con nuôi ở nước ngoài, tại nước Ý xa xôi. Bà Hà không cho phóng viên biết được địa phương nào của nước Ý.

Theo luật con nuôi với người nước ngoài, các cháu bé được nhận phải có sự đồng ý của người nhà, hoặc người bảo trợ, và thông tin phải được cập nhật về địa phương sáu tháng một lần cho gia đình. Tuy nhiên, sở Tư pháp Quảng Bình và trung tâm này không làm đúng quy trình. Từ ngày 13 cháu bé người Rục, Sách đưa ra nước ngoài, các gia đình chưa nhận thông tin chính thức nào từ đây.

2. Báo Sài Gòn giải phóng Online có các bài:

* Chi cục Thi hành án dân sự quận 2 làm khó người dân? Bài báo phản ánh: Tôi tên Trần Thị Nuôi, hiện đang cư ngụ ở số 20/4 xa lộ Hà Nội, phường Linh Trung, quận Thủ Đức. Cách đây hơn 1 năm, trên đoạn đường từ TPHCM về nhà ở xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, tôi bị xe mô tô hai bánh mang biển số 51S2-0933, do anh Vũ Đức Duy điều khiển tông mạnh từ phía sau khiến tôi té và bất tỉnh tại chỗ.

Do các tổn thương quá nặng (chấn thương đầu, gãy hở 1/3 xương cẳng chân trái) nên tôi được chuyển lên Bệnh viện Chợ Rẫy (TPHCM) cấp cứu. Sau nhiều tháng chạy chữa, chi phí thuốc men lên hàng chục triệu đồng khiến gia đình rơi vào cảnh vô cùng khốn khó. Do đó, tôi làm đơn gởi Công an huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang yêu cầu truy cứu trách nhiệm bồi thường của anh Vũ Đức Duy.

Ngày 7-6-2010, Tòa án Nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang ban hành bản án xét xử sơ thẩm số 141/2010/DSST, trong đó ghi rõ: “Buộc Vũ Đức Duy bồi thường cho chị Trần Thị Nuôi số tiền 47.593.180 đồng, trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu bị đơn không trả một lần số tiền nói trên thì phải trả thêm tiền lãi, được tính theo mức lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước”.

Sau đó, ngày 29-7-2010, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang đã có văn bản số 64/QĐ-THA ủy thác việc thi hành án cho Chi cục Thi hành án dân sự quận 2, TPHCM, nơi Vũ Đức Duy cư ngụ. Nhưng đến nay, tức đã hơn 4 tháng trôi qua, tôi vẫn chưa nhận được tiền bồi thường. Nhiều lần liên hệ với Chi cục Thi hành án dân sự quận 2 để hỏi về kết quả thi hành án nhưng lần nào tôi cũng chỉ nhận được yêu cầu về nhà tiếp tục chờ.

Mới đây, nhân viên thụ lý hồ sơ của tôi (tên Lam) ra yêu cầu khó hiểu, buộc tôi trong vòng một tuần phải chứng minh được khả năng chi trả của gia đình người đã gây thiệt hại. Nếu không, Chi cục Thi hành án dân sự quận 2 sẽ khép lại hồ sơ vụ việc. Từ lúc vụ việc xảy ra đến nay, tôi chưa một lần gặp mặt anh Duy (trong phiên tòa xét xử sơ thẩm, anh Duy vắng mặt không lý do) và hiện nay tôi đi lại cũng hết sức khó khăn do chân trái bị thương tật vĩnh viễn. Vì vậy, thời hạn một tuần của Chi cục Thi hành án dân sự quận 2 khác nào làm khó người dân?

Ngày 20-12-2010, tôi đến Chi cục Thi hành án dân sự quận 2 để nhận lại hồ sơ thì được yêu cầu “mỗi tháng ký vào biên bản nhận 1 triệu đồng bồi thường, kéo dài trong vòng 47 tháng, không bao gồm lãi suất ngân hàng”. Tôi không đồng ý yêu cầu này vì nó hoàn toàn trái với bản án xét xử sơ thẩm do Tòa án Nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang đã ban hành. Do đó, Chi cục Thi hành án dân sự quận 2 trả lại toàn bộ hồ sơ, chính thức khép lại vụ việc. Như vậy, sau hơn một năm đi tìm công lý, tôi vẫn không nhận được bồi thường thỏa đáng?

* Dân hay nhà nước phải thực hiện? Bài báo phản ánh: Báo Sài Gòn Giải Phóng nhận được thắc mắc của một số bạn đọc, hỏi về việc khi làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây viết tắt là GCN) thì người dân hay Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất (ĐKQSDĐ) phải thực hiện việc trích đo địa chính (đo vẽ sơ đồ thửa đất)?

Theo Nghị định 88 của Chính phủ về cấp GCN (ban hành năm 2009), việc trích đo địa chính là thuộc trách nhiệm của Văn phòng ĐKQSDĐ (quy định tại Điều 14, Điều 15, Điều 16). Tuy nhiên trong thực tế, việc đo vẽ sơ đồ thửa đất đều do người dân tự thuê các công ty đo đạc thực hiện và các Văn phòng ĐKQSDĐ quận, huyện chỉ thụ lý hồ sơ xin cấp GCN khi người xin cấp có đủ các thủ tục quy định. Vậy có phải các Văn phòng ĐKQSDĐ đã làm sai luật không?

Tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy đây chính là một điểm bất cập trong công tác lập pháp: Các văn bản pháp luật quy định tréo nhau, quy định ra đời sau “quên” đối chiếu với quy định có liên quan đã ban hành trước đó và vẫn đang có hiệu lực. Điều này khiến cho khi luật đi vào cuộc sống, cơ quan chức năng bị lúng túng trong thực thi nhiệm vụ và dẫn đến làm có phần không hoàn toàn đúng quy định.

Như trên đã nói, Nghị định 88 quy định Văn phòng ĐKQSDĐ cấp quận, huyện có trách nhiệm trích đo địa chính. Thế nhưng, có thể nói Nghị định 88 đã giao một việc mà các Văn phòng ĐKQSDĐ quận, huyện không thể làm được. Bởi lẽ, hoạt động đo đạc bắt buộc phải được cơ quan quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ cấp giấy phép, và có thể nói tất cả các Văn phòng ĐKQSDĐ quận, huyện trên địa bàn TPHCM đều không có giấy phép này. Nghị định 12 của Chính phủ (ban hành năm 2002) về hoạt động đo đạc và bản đồ quy định rõ tại Điều 5: Tổ chức kinh tế, cá nhân khi tiến hành hoạt động đo đạc và bản đồ phải có giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ. Và để được cấp giấy phép hoạt động thì tổ chức kinh tế, cá nhân đó phải có đủ điều kiện chuyên môn, kỹ thuật về đo đạc và bản đồ.

Trong khi đó, Văn phòng ĐKQSDĐ lại là đơn vị sự nghiệp công lập (chứ không phải là tổ chức kinh tế) và không có cả nhân lực chuyên môn lẫn thiết bị kỹ thuật để có thể được cấp giấy phép hoạt động đo đạc! Để tháo gỡ nút thắt này, Liên bộ Tài nguyên – Môi trường, Nội vụ và Tài chính đã ban hành Thông tư 05 (có hiệu lực từ ngày 1-5-2010), mở ra một “cánh cửa” cho Văn phòng ĐKQSDĐ quận, huyện. Theo đó, các đơn vị này có thêm nhiệm vụ “kiểm tra chất lượng tài liệu trích đo địa chính thửa đất do người sử dụng đất cung cấp trước khi sử dụng, quản lý”. Với quy định này, việc các văn phòng ĐKQSDĐ yêu cầu người dân thuê các công ty đo đạc thực hiện khâu trích đo địa chính là không sai, tuy nhiên nếu so với quy định của Nghị định 88 thì có phần chưa ổn, bởi vì thông tư không thể cao hơn nghị định được.

* Mệnh lệnh hành chính “đá” luật? Bài báo phản ánh: Thời gian qua, một số tổ chức, cá nhân đã phát đơn kiện Hãng Hàng không tư nhân Indochina Airlines (ICA) để đòi số tiền lên tới 90 tỷ đồng hãng này nợ của họ. Trong số này có tới 25 tỷ đồng tiền nợ nhiên liệu bay của Vinapco.

Do ICA không còn tồn tại để đòi nợ, Vinapco chỉ còn cách gửi công văn sang Cục Hàng không (HK) đề nghị hỗ trợ yêu cầu ICA thanh toán. Theo ông Trần Hữu Phúc, Giám đốc Vinapco, Vinapco đã nhiều lần có báo cáo gửi Cục HK đề nghị có biện pháp xử lý khoản nợ trên, nhưng đến nay, Vinapco vẫn chưa nhận được trả lời và cũng chưa thấy Cục HK có biện pháp xử lý gì.

Về phía Cục HK, ông Lại Xuân Thanh, Phó Cục trưởng, khi trả lời báo chí đã khẳng định rằng: “Cục HK không phải cơ quan quản lý giải quyết nợ. Tuy nhiên, sau khi nhận được báo cáo của Vinapco và các đại lý bán vé, cục cũng đã nhiều lần chuyển gửi cho ICA, nhưng tất cả đều bị trả lại”. Trước tình trạng này, Vinapco đã khởi kiện vụ việc ra tòa.

Đề cập đến trách nhiệm để tồn đọng một số nợ có nguy cơ mất trắng này, ông Trần Hữu Phúc khẳng định: “Trách nhiệm không phải ở chúng tôi”. Theo ông Phúc, chỉ sau vài tháng khai thác thương mại, ICA đã không thanh toán đúng hạn theo hợp đồng. Đến khi Vinapco thông báo ngừng cung cấp xăng cho ICA, ICA đã “cầu cứu” Cục HK và Bộ GTVT. Sau đó, Cục HK có công văn hỏa tốc yêu cầu Vinapco phải cung cấp nhiên liệu để tránh ảnh hưởng đến hành khách, vì vậy Vinapco buộc phải tuân thủ lệnh của cơ quan quản lý ngành dọc và không thể ngừng bán xăng cho ICA.

Theo ý kiến của các luật sư kinh tế, trong trường hợp này, vấn đề thương mại đã không được vận hành theo Luật Thương mại. Các luật sư cho rằng, vấn đề kinh doanh nên để thị trường quyết định, bởi theo hợp đồng, khi bên mua không trả tiền, bên bán có quyền ngừng cung cấp. Nếu cơ quan chủ quản yêu cầu tiếp tục bán, tức đã can thiệp quá sâu bằng mệnh lệnh hành chính. Điều đó dễ làm méo mó thị trường và khi hậu quả xấu xảy ra, liệu cơ quan ban hành văn bản mệnh lệnh hành chính đó có phải chịu trách nhiệm?

3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài NLĐ Việt Nam ở nước ngoài chưa được TGPL kịp thời. Bài báo phản ánh: Mặc dù người lao động Việt Nam ở nước ngoài thường xuyên gặp những vướng mắc về pháp luật nhưng đến nay, các cơ quan chức năng của Chính phủ chưa có những biện pháp hiệu quả và cần thiết để hỗ trợ kịp thời cho họ.

Các nghiên cứu, khảo sát trong thời gian qua cho thấy người lao động di cư nói chung và người lao động Việt Nam ở nước ngoài nói riêng gặp rất nhiều khó khăn và rủi ro trước, trong và sau khi đi lao động ở nước ngoài.

Mặc dù người lao động Việt Nam ở nước ngoài thường xuyên gặp những vướng mắc về pháp luật nhưng đến nay các cơ quan chức năng của Chính phủ chưa có những biện pháp hiệu quả và cần thiết để hỗ trợ kịp thời cho họ ngoại trừ việc một số người lao động từ nước ngoài trở về đã được trợ giúp pháp lý (TGPL) bởi các Trung tâm TGPL nhà nước ở các tỉnh. Các Đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài đến nay chưa có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về TGPL cho người lao động Việt Nam.

Nguồn nhân lực các Ban quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài thuộc Cục Quản lý lao động ngoài nước hiện nay rất mỏng và không có nghiệp vụ TGPL cho người lao động. Ngoài ra, ở cả Đại sứ quán và Ban quản lý lao động đều chưa có quỹ để chi trả chi phí mời luật sư thực hiện TGPL cho người lao động khi họ có vướng mắc pháp luật. Ở Malaysia, nhiều người lao động Việt Nam bị truy tố hình sự nhưng không có luật sư bào chữa.

Việc TGPL cho người lao động Việt Nam tại nước ngoài hiện nay chủ yếu do các tổ chức phi chính phủ của các nước đó thực hiện nên không có tính hệ thống và chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của người lao động.

4. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Nguyên Chi cục trưởng Thi hành án huyện Yên Dũng lĩnh 30 tháng tù. Bài báo đưa tin: Ngày 27-12, TAND tỉnh Bắc Giang mở phiên toà xét xử Trần Văn Chính (SN 1959), nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang về tội "nhận hối lộ" theo khoản 2, Điều 279 Bộ luật Hình sự.

Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, hưởng dưới khung nên TAND tỉnh tuyên phạt Trần Văn Chính 30 tháng tù giam và cấm đảm nhiệm chức danh liên quan đến lĩnh vực tư pháp trong vòng 3 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.