I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân đưa tin: Chia sẻ nỗi đau với người dân vùng lũ tỉnh Phú Yên, sáng 4-11, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và Ðoàn công tác đã về thăm đồng bào vùng lũ huyện Ðông Hòa.
2. Báo điện tử Vietnam.net có bài Nên dành ghế Quốc hội cho kiều bào. Bài báo đưa tin: Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) - Bộ Ngoại giao hôm 4/11 tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Đánh giá 6 năm triển khai Nghị quyết, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên khẳng định chủ trương, đường lối chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, coi kiều bào là bộ phận không tách rời dân tộc, song ông cho rằng thực tiễn mới chỉ làm được 50% tinh thần của Nghị quyết.
Để làm tốt một nửa phần chưa làm được còn lại, theo ông, điều cần “thoát ra” nhiều hơn nữa chính là tinh thần hòa giải dân tộc, đặc biệt với sự chủ động của những người ở trong nước, đẩy mạnh hòa giải dân tộc như một bước đổi mới tư duy trong hiện thực hóa Nghị quyết 36 về công tác kiều bào. Các chính sách cụ thể hóa Nghị quyết 36 như luật về quốc tịch, đất đai, nhà ở, đầu tư, doanh nghiệp, pháp lệnh về ngoại hối, quy định về miễn thị thực nhập xuất cảnh cho NVNONN, về cư trú, hồi hương,… theo hướng ngày thuận lợi cho kiều bào đã được ban hành.
Tuy nhiên, theo nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên, cơ chế thực hiện các chính sách trên trong cuộc sống vẫn còn chưa suôn sẻ, khi “chạm thực tế” là “vướng”. Do đó, cần phải tháo gỡ vướng mắc để bà con kiều bào hướng về đất nước, thấy “đất nước này là của họ”. Không chỉ các quyền lợi về kinh tế, văn hóa, xã hội, theo ông nên hướng tới mở rộng quyền lợi về chính trị khi điều kiện thuận lợi như dành cho kiều bào ghế đại biểu trong Quốc hội.
Phó Chủ nhiệm UB Đối ngoại Quốc hội Ngô Quang Xuân nhấn mạnh vai trò chủ chốt của các đại sứ, tức người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài - nơi tiếp xúc trực tiếp và gần nhất với kiều bào.
Về việc mở rộng quyền lợi chính trị như đảm bảo ghế đại biểu trong Quốc hội cho kiều bào như ông Niên nêu, ông Xuân đồng tình chủ trương này trong tương lai nhưng cho rằng để hiện thực hóa, sẽ phải tháo gỡ nhiều vấn đề.
3. Báo Giao thông vận tải đưa tin: Văn phòng CP vừa có Công văn số 7745/VPCP-QHQT thông báo ý kiến của Thủ tướng về việc triển khai đóng góp Quỹ cơ sở hạ tầng ASEAN (AIF), xây dựng kế hoạch và phương án sử dụng Quỹ.
Theo đó, Chính phủ giao Bộ Tài chính phối hợp các bộ, cơ quan liên quan đàm phán thẩm định và ký thỏa thuận thành lập Quỹ AIF. Việt Nam sẽ góp vốn không vượt quá 2% tổng quy mô 16 triệu USD của AIF từ nguồn quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Trung ương.
Trước đó, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17 diễn ra tại Hà Nội từ ngày 28, 29/10, lãnh đạo 10 nước ASEAN đã thống nhất thành lập Quỹ Cơ sở Hạ tầng nhằm hỗ trợ về tài chính cho các yêu cầu về cơ sở hạ tầng lớn của khu vực.
4. Báo điện tử Tổ quốc có đưa tin: Chiều ngày 4.11, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam Đoàn Văn Thái khẳng định, sẽ xử lý nghiêm việc Hội Chữ thập đỏ Nghệ An mang quần áo cứu trợ đồng bào bị lũ lụt làm giẻ lau. Đồng thời gửi lời xin lỗi tới nhân dân cả nước và vùng lũ.
Ông Thái khẳng định, hàng cứu trợ là tình cảm của đồng bào cả nước thông qua Trung ương Hội gửi đến nhân dân vùng lũ. Việc làm của Hội Chữ Thập đỏ Nghệ An không những gây phản cảm với hoạt động cứu trợ mà còn gây tổn thương đến người dân vùng chịu thiên tai.
“Qua sự việc đáng tiếc này, thay mặt Trung ương Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam, tôi gửi lời xin lỗi đến nhân dân, đến đồng bào cả nước, người dân các tỉnh, thành đã và đang phải gánh chịu thiệt hại vì thiên tai” – ông Thái nói và mong người dân hãy độ lượng, công bằng với các hoạt động của Trung ương Hội Chữ thập đỏ.
Ông Thái cũng khẳng định, sự việc này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của Trung ương hội. Trung ương Hội sẽ rút kinh nghiệm nghiêm túc, đồng thời cố gắng không bao giờ để xảy ra sự việc tương tự.
Được biết, chiều nay, Trung ương Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam đã cử cán bộ vào Nghệ An để kiểm tra sự việc, đồng thời, căn cứ vào mức độ vi phạm của từng cá nhân cụ thể để xử lý.
Số hàng cứu trợ trong kho ở Nghệ An (Ảnh: VnExpress)
Từ đầu tháng 10 đến nay, Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã tổ chức đưa 15 toa hàng gồm quần áo, gạo, vật dụng gia đình và tiền mặt đến với người dân vùng lũ với tổng giá trị tiền và hàng khoảng hơn 13 tỷ đồng.
Về vụ việc lấy quần áo cứu trợ làm giẻ lau tại Nghệ An mới được báo chí phát hiện vừa qua, báo cáo giải trình của Hội Chữ Thập đỏ Nghệ An cho biết, quần áo cứu trợ chủ yếu là quần áo cũ, một số địa phương, người dân không nhận.
Báo cáo cho hay, ngày 27/10, Hội Chữ Thập đỏ Nghệ An đã nhận được 5 toa hàng cứu trợ từ Trung ương Hội Chữ Thập đỏ gửi về. Tuy nhiên, trong đó chủ yếu là quần áo cũ. Sau khi nhận hàng, Hội Chữ Thập đỏ Nghệ An đã đưa xuống các huyện Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Yên Thành nhưng tại một số địa phương, người dân không nhận do quần áo đã cũ nát.
Khi hàng cứu trợ từ Trung ương Hội chuyển về, kho chứa của Hội đã chật, không còn chỗ để. Do vậy, Hội Chữ thập đỏ đã đồng ý đưa hàng về chứa tạm ở kho của Công ty cổ phần cơ khí ô tô Nghệ An, sau đó sẽ lựa chọn, phân loại đồ. Đồ nào tốt, còn dùng được sẽ mang về các địa phương, đồ nào cũ nát sẽ tiến hành tiêu hủy hoặc để lại công ty.
Tuy nhiên, khi quần áo còn được để ở kho (chưa phân loại), thì người nhà của một cán bộ trong Hội Chữ thập đỏ Nghệ An đã đến xin đồ cũ rách về sử dụng trong ga ra ô tô ở đường Minh Khai, TP Vinh và Bến Thủy.
Hiện Hội Chữ thập đỏ tỉnh đã đến hai ga ra ô tô trên thu gom lại toàn bộ số hàng đưa trở lại về kho
5. Báo Sài gòn giải phóng đưa tin: Ngày 4-11, ông Nguyễn Ngọc Quang, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam và các ngành liên quan đã làm việc với UBND huyện Phước Sơn và Công ty TNHH Vàng Phước Sơn để giải quyết việc công ty này tự ý phá rừng tự nhiên để làm đường. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Ngọc Quang yêu cầu các cơ quan liên quan của tỉnh Quảng Nam kiểm tra lại thực trạng diện tích rừng bị xâm hại để quyết định xử lý “hành chính” hay “hình sự” đối với sai phạm của Công ty Vàng Phước Sơn.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1.Báo điện tử Dân trí và Báo Dân Việt có bài “Người dân Thủ đô nộp phí cao hơn cũng là công bằng”và bài Quản chặt người nhập cư để tránh thảm họa ùn tắc. Các bài báo đưa tin về trả lời của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường xung quanh vấn đề liên quan đến Luật Thủ đô.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh đưa tin: Văn phòng công chứng Phú Mỹ Hưng (134B Lê Văn Lương, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, TP.HCM) vừa khai trương ngày 4-11.
Báo cũng có bài Nên có hướng dẫn về việc xác nhận tâm thần. Bài báo phản ánh: Liên tiếp trong hai ngày 3 và 4-11, Pháp Luật TP.HCM đã phản ánh những nhiêu khê của việc khám sức khỏe làm di chúc và những bất nhất của các cơ quan công chứng, chứng thực trong việc yêu cầu người dân phải có xác nhận liên quan của bệnh viện (BV).
Về mặt chuyên môn, hai BV lớn về tâm thần ở TP.HCM là BV Tâm thần TP và Trung tâm Giám định pháp y tâm thần TP khẳng định: “Để xác định một người là sáng suốt, minh mẫn thì phải khám tâm thần với một quy trình riêng biệt”. Thế nhưng như các bài báo đã phản ánh, do không có quy định của ngành về việc này, nhiều BV đã áp quy định khám sức khỏe để xin việc làm hay thi bằng lái xe để bắt người dân khám đủ thứ như đo huyết áp, mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt, da liễu…
Trong việc công chứng, chứng thực, cũng vì không có quy định cụ thể của ngành nên có trường hợp công chứng viên (CCV), người có thẩm quyền chứng thực đòi giấy xác nhận của BV, có trường hợp lại không. Trên thực tế, ngay cả khi đã có giấy này, các CCV vẫn phải tự mình thẩm tra để xác định người đi công chứng có tỉnh táo không, có biết mình đang làm gì không… Đáng nói là có CCV đưa thông tin về giấy xác nhận vào di chúc, có CCV chỉ dành để lưu vào hồ sơ công chứng. Với việc không đưa vào văn bản công chứng như thế, vô hình trung giấy xác nhận chỉ được làm cho có để khi bị khiếu nại hay bị cơ quan điều tra “hỏi thăm” thì mang ra “đối phó”!
Dù làm chặt chẽ cỡ nào thì di chúc vẫn có thể bị khiếu nại, tranh chấp. Sau khi người lập di chúc qua đời, nếu thân nhân “cắc cớ” lúc lập di chúc cha/mẹ tôi đã “lú lẫn” hoặc “hết biết gì rồi”, lấy gì để chứng minh việc công chứng, chứng thực trước đây là hợp pháp? Hay khi cảm thấy đương sự “tưng tưng” nên buộc phải từ chối công chứng và bị khiếu nại, cơ quan công chứng căn cứ vào đâu để giải quyết? Trong những tình huống này, chắc chắn giấy xác nhận của các BV có chuyên môn sẽ “nặng ký” hơn gấp nhiều lần so với những nhận định có thể mang tính chủ quan của CCV hoặc người có thẩm quyền chứng thực.
Để đảm bảo tính thống nhất, thực chất, nên chăng liên bộ Tư pháp - Y tế cần có thông tư liên tịch quy định việc này. Ngoài việc CCV phải tự kiểm tra bằng sự nhận biết của chính mình về việc đương sự có đầy đủ năng lực hành vi dân sự tại thời điểm công chứng thì giấy xác nhận của BV chính là cơ sở pháp lý để minh định người làm di chúc lúc ấy minh mẫn, sáng suốt. Tất nhiên, các cơ sở y tế chỉ cần khám xác định về tình trạng tâm thần là đủ.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Giám định tâm thần gặp khó vì ’eo hẹp’ nhiều bề. Bài báo phản ánh: Giám định pháp y tâm thần (PYTT) là công việc đặc thù và hết sức phức tạp. Như bài báo trước đã đề cập, với những trường hợp giả tâm thần nhằm thoát tội thì việc phát hiện ra bệnh thật hay không khó khăn hơn nhiều lần vì khi đó, giám định viên phải “đối mặt” với những kịch bản đã soạn sẵn.
BS Trịnh Tất Thắng, Giám đốc Bệnh viện Tâm thần TPHCM, nguyên giám đốc Trung tâm GĐPYTT TP từng chia sẻ trên một tờ báo: Khi giám định các đối tượng phạm tội, nhất là những tội nặng, các ông thường gặp dạng giả tâm thần.
“Khi đó, tay nghề vững vàng và lương tâm nghề nghiệp là hai điều rất cần thiết ở người giám định viên”, Bác sỹ Thắng nhấn mạnh. “Trong nhiều trường hợp, người được giám định sẽ dựng lên các màn kịch điên rất thật, thậm chí sẵn sàng “thoả thuận” với giám định nếu vở kịch bất thành”. Để “bắt bài” các đối tượng này, nhiều khi phải kéo dài thời gian theo dõi.
Còn giám định viên Phùng Anh Tuấn, Giám đốc trung tâm PYTT Vĩnh Phúc cho biết: trung bình thời gian mỗi vụ giám định tại Trung tâm là 1 tháng; tuy nhiên, với những vụ phức tạp, các ông đều phải “gửi” lên Viện Giám định pháp y tâm thần TW để “nhờ giám định”.
Thời gian eo hẹp (bởi còn liên quan tới thời hạn điều tra, truy tố xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự), trong khi giám định tâm thần phải cần thời gian (để nắm bắt quy luật, theo dõi các thói quen sinh hoạt…của người bệnh). Theo nhiều giám định viên, trong nhiều vụ việc, đặc biệt là những vụ phức tạp, họ không đủ thời gian để cho ra đời những kết luận chắc chắn và thực tế, đã có những vụ phải giám định lại nhiều lần.
Trong khi đó, các loại bệnh lý về tâm thần rất khó “nhận diện”, lúc phát bệnh, lúc không; hoặc bị bệnh nhưng dưới dạng “ẩn”. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, sự thất thường trong mức độ “nặng- nhẹ” của người bệnh cũng làm các giám định viên phải “đau đầu”.
Theo Viện Giám định pháp y tâm thần Trung ương, đến 12/2009, cả nước có 12 Trung tâm Giám định pháp y tâm thần; có 162/2461 giám định viên đã được cấp thẻ, chiếm 6,58%. Trong số các giám định viên, nhiều người có trình độ cao (tiến sỹ, thạc sỹ, bác sỹ chuyên khoa cấp 1, 2…) và một bộ phận bác sỹ định hướng chuyên khoa tâm thần. Các giám định viên phần lớn là người có kinh nghiệm, được đào tạo chuyên sâu. Từ năm 2005 đến nay, cả nước đã thực hiện được 3.595 ca giám định.
Tuy nhiên, bất cập là hiện nay tại nhiều địa phương, số giám định viên pháp y tâm thần vẫn thiếu, chỉ tập trung ở các TP lớn. Cũng theo ông Phùng Anh Tuấn, cả Trung tâm của ông chỉ có vẻn vẹn…mình ông là giám định viên. “Nói chung đội ngũ giám định pháp y tâm thần trên địa bàn hiện nay vừa thiếu vừa yếu”- ông Tuấn nói thêm.
Cũng theo Viện giám định PYTT TW, số giám định viên được đào tạo cơ bản, có trình độ cao, có kinh nghiệm sống nhiều người đã lớn tuổi, theo quy định sắp phải …nghỉ hưu, do đó ngành không tận dụng được nguồn chất xám. Bên cạnh việc việc giám định, tại Viện Giám định pháp y tâm thần Trung ương còn phải điều trị đối tượng phạm pháp bắt buộc chữa bệnh tâm thần, đây là công việc vô cùng nguy hiểm, khó khăn và phức tạp bội phần.
Bên cạnh đó, việc giám định pháp y tâm thần hiện cực kỳ thiếu thốn về trang thiết bị, và đây là một hạn chế lớn “bó tay” các giám định viên khi thực hiện những ca phức tạp, cần sự hỗ trợ tối đa về máy móc…
Báo cũng phản ánh: Để đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý (TGPL) của phụ nữ, đặc biệt phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình và bị buôn bán, Văn phòng TGPL cho phụ nữ đã được Cục TGPL thí điểm thành lập từ tháng 7/2002. Hiện nay, các Văn phòng TGPL cho phụ nữ tại 5 địa phương đang ngày càng trở thành địa chỉ tin cậy của nhiều chị em.
Trong quá trình giải quyết yêu cầu của người được TGPL, Văn phòng đã thực hiện kiến nghị vụ việc khi có cơ sở khẳng định việc giải quyết vụ việc của các cơ quan có thẩm quyền có những sai sót, không phù hợp với quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân cũng như các kiến nghị sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập cảnh, lao động, hộ tịch, hôn nhân, gia đình, hình sự... Tuy nhiên, hình thức kiến nghị chưa được các cơ quan chức năng xử lý trong thời hạn và phù hợp theo quy định của pháp luật.
4. Báo Pháp luật và Xã hội có bài “Quên” khai tử - “hệ lụy” không nhỏ! Bài báo phản ánh: Hiện nay, Sở Tư pháp Hà Nội phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP rà soát tình trạng đăng ký khai tử trên địa bàn từ năm 1961 trở lại đây.
Bố mẹ chị H sinh được 5 người con, gia sản của họ là mảnh đất hơn 1000m2 thuộc huyện Từ Liêm (Hà Nội). Ngày còn sống, bố mẹ chị H đã chia cho mỗi anh chị em H một khoảnh, riêng ngôi nhà cổ bốn gian ông bà giao cho vợ chồng người anh cả làm nơi thờ tự.
Tuy nhiên, bố mẹ chỉ phân chia miệng với các con và tất cả đều đồng tình, lúc đó, đất đai chưa có giá trị như bây giờ, nên cũng không ai nghĩ đến việc phải viết giấy “làm bằng”. Là phận gái, đi lấy chồng xa nên chị H cũng không mấy quan tâm.
Cha mẹ mất đi, gia đình người anh cả vẫn quản lý khối nhà đất nói trên nhưng gần đây, khi các em muốn lấy lại phần của mình thì anh lại không muốn “trả”. “Tấc đất, tấc vàng”, gia đình người anh làm thinh trước yêu cầu của các em, “quên” luôn lời cha mẹ.
Kiện anh ra tòa, khi được yêu cầu xuất trình giấy chứng tử của bố mẹ mình để xác định thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa kế còn hay hết, cả 4 anh chị em chị H mới giật mình vì… chưa ai đi đăng ký khai tử. Đáng nói là, ông bà mất đã lâu, anh chị em chị H không ai còn lưu giữ được bất cứ loại giấy tờ gì để chứng minh thời điểm ông bà mất. Cán bộ tòa án giải thích, nếu chị không chứng minh được, thì vụ án xin chia thừa kế không thể được giải quyết!
Pháp luật quy định rất rõ đăng ký khai tử là trách nhiệm của người còn sống. Thân nhân của người chết có trách nhiệm đi khai tử; nếu người chết không có thân nhân, thì chủ nhà hoặc người có trách nhiệm của cơ quan, đơn vị tổ chức, nơi người đó cư trú hoặc công tác trước khi chết đi khai tử. Theo Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, nếu không đăng ký khai tử, sẽ bị xử phạt hành chính từ 50.000 - 100.000 đồng. Thế nhưng, không phải ai cũng làm được! Và, điều này đã dẫn đến những hệ lụy khôn lường.
Trường hợp như của gia đình chị H nêu trên không phải là hy hữu. Hiện nay, Sở Tư pháp Hà Nội phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP rà soát tình trạng đăng ký khai tử trên địa bàn từ năm 1961 trở lại đây. Chưa có con số thống kê đầy đủ nhưng số liệu ban đầu rất đáng giật mình: Huyện Quốc Oai có đến 4.383 trường hợp chưa khai tử trong tổng số 12.795 người chết, còn các huyện “trung bình” cũng có vài ngàn người chưa đăng ký, thậm chí có huyện lên tới gần 10 ngàn người chết bị “quên”.
Thậm chí, khi khảo sát tại xã Sài Sơn (Quốc Oai), không ít bà con còn loan truyền rằng, nếu đăng ký khai tử, phần đất đã được cấp cho người chết sẽ bị thu lại mà không được đền bù nên đã cùng nhau “ỉm” việc khai tử!
Đăng ký khai tử không chỉ để xác định đúng thời điểm chết, tính thời hiệu thừa kế khi cần phân chia di sản của người chết như trường hợp của chị H, mà nhiều trường hợp khác, giấy chứng tử còn có giá trị cho việc truy lĩnh hay hưởng các chế độ chính sách, thậm chí trong cả việc tái hôn nếu người vợ/chồng không may mất sớm... Tuy nhiên, do “quên” khai tử, nhiều người đã không thể chứng minh được người thân của mình mất khi nào, đồng nghĩa với việc họ không được hưởng quyền lợi mà lẽ ra họ được nhận.
Rõ ràng, không khai tử không chỉ gây khó khăn cho cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý, quy hoạch, xây dựng các chính sách về kinh tế xã hội, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của chính người dân.
Để giải quyết tình trạng này, cán bộ tư pháp xã, phường còn phải chủ động hơn trong trường hợp người dân vì những lý do nào đó không thể đi đăng ký khai tử, để vận động họ, hoặc thực hiện việc đăng ký khai tử lưu động.
Báo cũng đưa tin: Chiều 4-11, Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Vũ Hồng Khanh đã làm việc với Sở Tư pháp Hà Nội về kết quả công tác tư pháp năm 2010 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2011.
Đánh giá kết quả hoạt động của Tư pháp Thủ đô năm 2010, Phó Chủ tịch Vũ Hồng Khanh cho rằng công tác thẩm định, kiểm tra văn bản đã đạt kết quả tốt, nhất là hoạt động kiểm tra văn bản tại các quận, huyện và phối hợp với các cơ quan chức năng tham gia xây dựng Luật Thủ đô. Mối quan hệ với các sở, ngành trong xây dựng văn bản cũng có chuyển biến. Tuy nhiên, hạn chế trong công tác này là sự thiếu chủ động trong kiểm tra, rà soát văn bản còn đang tồn tại ở các sở, ngành và cả UBND TP.
Năm 2010, công tác PBGDPL cũng được thực hiện khá tốt, đã xây dựng được nhiều tài liệu hỏi đáp pháp luật. Bên cạnh đó, việc quản lý các hoạt động luật sư có chuyển biến và đã thực hiện tốt công tác xã hội hóa công chứng.
Trong tám nhiệm vụ trọng tâm được Sở Tư pháp đề ra trong năm 2011, Phó Chủ tịch UBND TP Vũ Hồng Khanh nhấn mạnh: “Ngành Tư pháp Thủ đô phải làm quyết liệt, có chiều sâu để “bật” lên công tác văn bản pháp qui. Tất cả văn bản của Hà Nội, Sở Tư pháp phải là người khởi xướng và chủ trì, tham mưu cho UBND trong việc xây dựng, cũng như thẩm định. Trong mối quan hệ với các sở, ngành về soạn thảo VBQPPL, Tư pháp phải tham gia ngay từ đầu”.
Phó Chủ tịch Vũ Hồng Khanh cũng lưu ý, hoạt động PBGDPL phải bám sát nhiệm vụ trọng tâm của TP, trong đó đặc biệt chú ý tuyên truyền thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP; tuyên truyền chuẩn bị thực hiện Luật Thủ đô khi được Quốc hội thông qua; tuyên truyền pháp luật phục vụ bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND. Riêng trong quản lý các hoạt động bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp cần làm quyết liệt để thể hiện rõ vai trò quản lý Nhà nước của mình, kịp thời chấn chỉnh các sai sót. Bên cạnh đó, cần tập huấn, bồi dưỡng để thường xuyên nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ tư pháp cơ sở và đẩy mạnh hơn nữa công tác CCHC, đổi mới phong cách làm việc của cán bộ tư pháp cơ sở.
Tại buổi làm việc, Giám đốc Sở Tư pháp Phan Hồng Sơn đề xuất UBND TP chỉ đạo các sở, ngành, quận, huyện trong việc phối hợp với ngành Tư pháp triển khai nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật, thi hành Luật Lý lịch Tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước… Đồng chí cũng đề cập đến việc cần tăng biên chế cho Sở Tư pháp, một số Phòng Tư pháp (hiện có dưới 3 cán bộ công chức) và tư pháp các xã, phường để đáp ứng khối lượng công việc ngày càng tăng.