Điểm tin báo chí sáng ngày 25 tháng 10 năm 2010

25/10/2010
Trong buổi sáng ngày 25/10/2010, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Nhân dân điện tử có bài Ðại hội thành lập Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam. Bài báo đưa tin: Sáng 24-10, tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh (Hà Nội), Ban vận động thành lập Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam tổ chức Ðại hội lần thứ nhất (nhiệm kỳ 2010 - 2015), thành lập Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam. Tới dự có đồng chí Phạm Gia Khiêm, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính  phủ; đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó Thủ tướng Chính phủ. Cùng dự, có đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành T.Ư; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Sở Nội vụ, các cơ quan, ban, ngành của TP Hà Nội và các địa phương trong cả nước. Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu gửi lẵng hoa chúc mừng.

2. Báo Hà Nội mới có bài WTO bắt đầu xét xử vụ kiện tôm của Việt Nam. Bài báo đưa tin: Ngày 20-10, tại trụ sở Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ở Geneva, Thụy Sỹ, Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp của WTO đã bắt đầu xét xử vụ Việt Nam kiện Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp chống phá giá đối với tôm nhập khẩu từ Việt Nam.

Trong ngày xét xử đầu tiên, Ban Hội thẩm nghe hai bên trình bày lập luận, quan điểm về vụ kiện. Đoàn Việt Nam đã đưa ra những bằng chứng, lập luận đòi hỏi quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam phải được bảo vệ. Phía Hoa Kỳ cũng tìm nhiều chứng cứ nhằm bảo vệ lợi ích của những người nuôi tôm Hoa Kỳ.

Sau khi nghe hai bên trình bày quan điểm, Ban Hội thẩm đã đặt nhiều câu hỏi chất vấn để làm rõ hơn các tình tiết mà hai bên đưa ra trong vụ tranh cãi. Ban Hội thẩm gồm ba chuyên viên, do Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy chỉ định vào cuối tháng 7 vừa qua, là những người chính thức giúp Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO ra phán quyết hay khuyến nghị. Ban Hội thẩm đã bắt đầu xem xét vụ kiện từ khi hai bên nộp bản đệ trình vào cuối tháng 8 vừa qua.

3. Báo Lao động có bài Bất ổn trong khảo sát game online. Bài báo đưa tin: Không chỉ ý kiến chuyên gia mà ngay cả những người kinh doanh, quản lý tiệm Internet cũng nhận thấy kết quả khảo sát về trò chơi trực tuyến vừa công bố không khách quan, không có cơ sở.

Cuộc khảo sát về trò chơi trực tuyến (game online) của nhóm do TS Trịnh Hòa Bình (cán bộ Viện xã hội học, thành viên Hội đồng thẩm định game quốc gia) làm chủ nhiệm bộc lộ khá nhiều khiếm khuyết về phương pháp nghiên cứu.

4. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Phòng, chống tham nhũng: Còn nhiều khó khăn. Bài báo đưa tin: Ngày 22-10, Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng TP Hà Nội đã tổ chức Hội nghị giao ban công tác phòng, chống tham nhũng với các quận, huyện, sở, ngành, trực thuộc TP.

 Theo phản ánh của các đơn vị, công tác phòng, chống tham nhũng hiện gặp phải không ít khó khăn. Bởi đây là vấn đề nhạy cảm, khó khăn, phức tạp, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn, định mức, chế độ… 

Trong khi đó, các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng còn thiếu. Không ít cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ chưa làm hết trách nhiệm, đùn đẩy công việc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư xây dựng theo dự án, quản lý đất đai…

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Khuất tất từ một bản công chứng. Bài báo phản ánh: Tài sản chung, nhưng công chứng viên lại làm hợp đồng có nội dung cho toàn bộ tài sản. Công chứng viên thừa nhận có sự nhầm lẫn lỗi kỹ thuật trong bản hợp đồng (!?)

Theo đơn trình bày của ông Nguyễn Ngọc Đồng (SN 1955, ngụ 31 Lê Văn Ninh, Q. Thủ Đức), cha mẹ ông là ông Nguyễn Ngọc Công và bà Phạm Thị Hoa sinh sống tại Thủ Đức từ năm 1930, từ đó đến nay cha mẹ ông sở hữu một căn nhà (số 31 Lê Văn Ninh) và một diện tích đất 2.500m2. Đến năm 1981 ông Công chết, trước khi mất ông không để lại di chúc mà chỉ di ngôn, về miếng đất 2.500m2 ông quyết định chia đều cho bảy người con (theo hình thức bốc thăm) và căn nhà số 31 Lê Văn Ninh sẽ được giữ lại làm từ đường. Năm 2004, em rể ông là Đặng Trung Thiên được ủy quyền để làm hồ sơ nhà đất, đăng ký quyền sở hữu, kể từ đây sự việc tranh chấp về ngôi nhà bắt đầu xảy ra.

Đến tháng 6-2005, bà Hoa làm một bản di chúc với nội dung bà Nguyễn Ngọc Luận sẽ được thừa hưởng di sản thừa kế là một phần nhà thuộc phần quyền sở hữu của bà và phần bà được thừa kế của chồng bà trong căn nhà 31 Lê Văn Ninh (bản di chúc được lập tại Phòng công chứng số 2, TPHCM). Tuy nhiên, đến năm 2007 tại Phòng công chứng số 3 (Thủ Đức) bà Hoa lại làm một bản hợp đồng tặng nhà cho bà Nguyễn Ngọc Quyền (con gái út). Điều đáng nói, nội dung chính của bản hợp đồng số 3526 do công chứng viên Trần Anh Tuấn (Trưởng phòng công chứng số 2) thực hiện này có nhiều điểm khó hiểu (!). Như tiêu đề chính của bản hợp đồng là “hợp đồng tặng cho nhà ở, toàn bộ ngôi nhà số 31 Lê Văn Ninh...”, tuy nhiên bên dưới lại ghi bên A (bà Hoa) tặng cho bà Quyền (bên B) toàn bộ phần nhà hiện thuộc quyền sở hữu của bên A trong ngôi nhà số 31 Lê Văn Ninh, kèm theo đó là đầy đủ thông tin về diện tích nhà, đất... Với cách lập hợp đồng như vậy, dễ khiến người đọc hiểu nhầm đây là bản hợp đồng cho tặng toàn bộ căn nhà trên, tuy nhiên đây lại là tài sản chung của bà Hoa và chồng bà, nên việc cho tặng toàn bộ ngôi nhà là không đúng pháp luật. Mặc dù ngay trong bản hợp đồng có khẳng định căn nhà nêu trên, bên A chỉ là đồng chủ sở hữu nhà ở và sử dụng đất (căn cứ theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và đất). Chưa dừng lại ở đó, bản hợp đồng không hề nhắc đến các đồng sở hữu khác có quyền và nghĩa vụ được hưởng theo luật thừa kế: “Bên A có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký trước bạ cho bên B” mà theo nguyên tắc những cá nhân được thừa hưởng di sản đều được đăng ký trước bạ đối với tài sản trên.

Ông Đồng bức xúc: “Với cách làm việc như vậy của Phòng công chứng số 3 đã khiến gia đình chúng tôi bị xáo trộn rất nhiều, cụ thể cô Quyền dựa theo bản hợp đồng này để buộc chúng tôi phải rời khỏi căn nhà mà chính cha mẹ chúng tôi để lại và có ý định không thực hiện theo di ngôn của cha tôi”. Trong quá trình thực hiện hợp đồng này tất cả anh em ông đều không biết, và mẹ ông bị hăm dọa nếu không điểm chỉ vào hợp đồng trong khi bà cụ đã gần 80 tuổi và vừa tai biến mạch máu não.

Ông Đồng đã gởi đơn tố cáo đến Sở Tư pháp TPHCM và đã nhận được công văn trả lời rằng hợp đồng này chỉ thực hiện trong phạm vi của đối tượng hợp đồng, đồng thời việc các điều khoản được quy định trong bản hợp đồng được thực hiện theo biểu mẫu của thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên môi trường. Việc bà Hoa cho một phần nhà thuộc quyền sở hữu của mình là đúng, tuy nhiên lại không lý giải trong bản hợp đồng có nội dung “tặng toàn bộ căn nhà”.

Trao đổi với chúng tôi vào ngày 24-8-2010, ông Trần Anh Tuấn thừa nhận: “Căn nhà nêu trên là tài sản đồng sở hữu của nhiều người và bản hợp đồng nêu trên chỉ là hợp đồng trao tặng phần sở hữu của bà Hoa mà thôi. Đó là do lỗi kỹ thuật nên mới nhầm là toàn bộ căn nhà 31 Lê Văn Ninh. Sai sót nhỏ này sẽ được chỉnh sửa lại (!?)...”.

 Rõ ràng việc lập bản hợp đồng mà nội dung và các điều khoản của nó “tiền hậu bất nhất” gây ngộ nhận đối với các bên liên quan không thể xem nhẹ, bằng chứng là những người liên quan đã dựa vào nó để tạo ra những sức ép đối với người khác. Liệu một công chứng viên kinh nghiệm như ông Tuấn chỉ vô tình nhầm lẫn hay đằng sau đó còn có những khuất tất khác?

2. Báo Hà Nôi mới có bài Còn có văn bản “lọt” thẩm định. Bài báo đưa tin: Từ ngày 20 đến 21-10, Đoàn kiểm tra công tác tư pháp năm 2010 của Hà Nội đã làm việc với lãnh đạo HĐND, UBND và Phòng Tư pháp quận Đống Đa , huyện Mê Linh.

Đây là 2 đơn vị làm khá tốt công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật. Đặc biệt, Phòng Tư pháp quận Đống Đa được bố trí 9 cán bộ, công chức - một trong số ít đơn vị "đông quân" nhất so với các quận, huyện, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo quận với công tác tư pháp. Tuy nhiên, công tác văn bản pháp quy ở Đống Đa còn bất cập do sự phối hợp trong khâu ban hành văn bản chưa tốt. Vì thế, nhiều văn bản "lọt" thẩm định, có văn bản thiếu căn cứ pháp lý, không bảo đảm đúng thể thức theo quy định, hoặc quy định thời điểm có hiệu lực thi hành không phù hợp.

3. Báo Pháp luật Việt Nam có các bài:

* Cần có chức danh pháp chế viên. Bài báo đưa tin: Ngày 22/10, tại cuộc họp Ban chỉ đạo Hội nghị tổng kết 6 năm thực hiện Nghị định 122, đa số thành viên đều nhận định việc thực hiện Nghị định này đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Qua đó, góp phần quan trọng trong việc củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động, nâng cao hiệu quả của công tác pháp chế tại các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương cũng như doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế hiện nay, trước hết là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật; yêu cầu đổi mới, hoàn thiện tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước và cổ phần hóa, chuyển đổi mô hình của các DNNN, thì công tác pháp chế còn bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập và hạn chế cần phải khắc phục. Trong đó, đáng lưu ý là tình trạng một số đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản ở địa phương không thực hiện việc xin ý kiến của tổ chức pháp chế mà trình thẳng lên thủ trưởng cơ quan ký, ban hành, tạo ra không ít bức xúc cho người dân.

* Thù lao cho công tác hòa giải: Nhiều cũng khó chi. Bài báo phản ánh: Theo Thông tư liên tịch số 73 ngày 14/5/2010 của Bộ Tài chính – Tư pháp (thay thế Thông tư số 63 trước đây) hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, thì mức thù lao cho hòa giải là 150 ngàn đồng/vụ/tổ. Tuy nhiên, căn cứ để hưởng thù lao là xác nhận của UBND xã về số vụ việc nhận hòa giải của tổ hòa giải cơ sở.

Bà Ngô Hồng Thủy, Phó phòng Tư pháp quận Hoàn Kiếm cho biết: hiện nay trên địa bàn quận chưa có phường nào thực hiện chi trả thù lao hòa giải theo quy định mới (mà vẫn thực hiện chi trả theo quy định cũ).

Nguyên nhân theo bà Thủy là vướng mắc trong việc thiết lập hồ sơ: “Có cần biên bản hòa giải không, nhiều vụ đã hòa giải thành nhưng tại thời điểm đó đương sự ngại không ký thì thế nào, UB cấp xã có xác nhận không?”. Cũng theo bà Thủy, nếu chi theo quy định mới, con số vụ việc ở mỗi phường lên tới vài chục vụ “và như vậy thì kinh phí sẽ rất lớn”.

“Nhiều vụ các hòa giải viên đã mất công đi lại nhiều lần, cơ bản hóa giải được mâu thuẫn tuy nhiên chưa thể hoàn thiện hồ sơ thì có được thanh toán không”, một đại diện Phòng Tư pháp hỏi.

Chia sẻ với thực tế này ở các đơn vị trên địa bàn TP, bà Hồ Xuân Hương, Trưởng phòng tuyên truyền phổ biến pháp luật (Sở Tư pháp Hà Nội) cho biết: Phòng đang tham mưu cho Sở trình UBNDTP ban hành văn bản hướng dẫn chi để đảm bảo cho hòa giải viên ở cơ sở có nguồn kinh phí hoạt động. Theo đó, các vấn đề về hồ sơ cũng như cách thức chi trả sẽ được làm rõ.

Hà Nội đã vậy, ở các địa phương khác, nhất là các nơi vùng sâu, xa, vùng còn nhiều khó khăn, ngân sách địa phương thu không đủ chi, phải do Trung ương cấp thì các khoản chi cho phổ biến pháp luật nói chung và hòa giải nói riêng gần như là không thể.

* Đăng ký khai tử cần linh động hơn. Bài báo phản ánh: Với những quy định hết sức thông thoáng, Nghị định 158/CP về đăng ký và quản lý hộ tịch tạo điều kiện tối đa cho công dân trong việc đăng ký khai tử, tuy nhiên trong nhiều trường hợp nếu không linh động, việc đăng ký khai tử cũng trở nên khó khăn.

Bị bệnh tim nên trong một chuyến bắt xe khách về Đồng Nai, bà H.T ở Đống Đa, Hà Nội đã đột quỵ và mất trước khi được đưa tới bệnh viện. Tuy nhiên, khi làm thủ tục khai tử, cán bộ tư pháp yêu cầu người nhà phải lấy biên bản xác nhận của chủ phương tiện giao thông, có ít nhất chữ ký của hai hành khách đi cùng trên chuyến xe đó. Không nhớ biển số cũng như các đặc điểm của xe, trong khi hành khách sau khi xe về bến đã “mỗi người một ngả”, gia đình bà T. không biết làm cách nào để có được cái biên bản xác nhận việc chết này (theo quy định phải có biên bản thay cho Giấy báo tử mới được đăng ký khai tử).

Một trường hợp khác theo điểm k khoản 2 Điều 22 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định: "Đối với người chết tại nhà ở nơi cư trú, thì văn bản xác nhận việc chết của người làm chứng thay cho giấy báo tử". Tuy nhiên, việc tìm người làm chứng trong nhiều trường hợp nhất là khai tử quá hạn cũng rất khó khăn. Nhiều trường hợp do người thân mất quá lâu, chính bản thân họ cũng không biết chính xác thời điểm chết. Bởi vậy, việc tìm người làm chứng để xác nhận việc chết đó gần như là không thể.

Luật sư Nguyễn Thị Minh Châu, Trưởng Văn phòng Luật sư Bảo Châu và cộng sự cho rằng, trong những trường hợp nếu có giấy tờ hợp pháp chứng minh việc chết, hoặc cán bộ tư pháp biết rõ mười mươi việc chết đó thì không cần phải có người làm chứng.

Tuy nhiên, bà Châu cũng cho rằng, việc xác định thời điểm chết trong nhiều trường hợp là rất quan trọng. Nếu cán bộ tư pháp làm ẩu sẽ “sai một ly đi một dặm”, nhất là trong những vụ kiện về chia thừa kế. Cho nên, phải đề cao trách nhiệm của cán bộ Tư pháp.

Trong điều kiện ở nhiều vùng nhân thức của người dân về đăng ký hộ tịch còn hạn chế thì cán bộ Tư pháp cần chủ động trong việc phối hợp với thôn, xóm, tổ dân phố tổ chức đăng ký khai tử cho người chết. Những người có thẩm quyền như Giám đốc bệnh viện, Trại giam, người đứng đầu cơ sở giáo dưỡng, UB cấp xã…cần chủ động trong việc cấp giấy báo tử cho người thân của người chết và giải thích, hướng dẫn họ đi đăng ký khai tử.

4. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam có bài Hội thảo "Hiện trạng và kế hoạch thúc đẩy triển khai ứng dụng chữ ký số". Bài báo đưa tin: Ngày 22/10, tại Hà Nội, Ban Cơ yếu Chính phủ (Bộ Nội vụ) phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức Hội thảo "Hiện trạng và kế hoạch thúc đẩy triển khai ứng dụng chữ ký số", nhằm nâng cao nhận thức, đẩy mạnh việc sử dụng chữ ký số tại Việt Nam.

Tham dự có đại diện Ban Chỉ đạo công nghệ thông tin của cơ quan Đảng; lãnh đạo các Bộ: Thông tin và Truyền thông, Quốc phòng, Công an, Nội vụ; các đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố.

Các đại biểu tham dự Hội thảo tập trung trao đổi một số nội dung như: Hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật nhằm phản ánh chủ trương của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm của Ban Cơ yếu Chính phủ đối với công tác bảo mật và an toàn thông tin trong tình hình mới; thực trạng cung cấp dịch vụ chứng thực chữ kỹ số; hướng dẫn các cơ quan Đảng và Nhà nước về quy trình cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng...

Về hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, theo ông Nguyễn Đăng Đào, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Kỹ thuật Nghiệp vụ Mật mã, Ban Cơ yếu Chính phủ: Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về cơ bản đã tạo được hành lang pháp lý để triển khai chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số nên các cơ quan của Đảng và Nhà nước cần có kế hoạch cụ thể để thúc đẩy ứng dụng chữ ký số.

Đánh giá tình hình ứng dụng chữ ký số tại Việt Nam, ông Đào Đình Khả, Giám đốc Trung tâm chứng thực chữ ký số quốc gia cho biết: Đến nay có nhiều Bộ, ngành triển khai các dịch vụ công trực tuyến có sử dụng chữ ký số. Tuy nhiên, loại hình dịch vụ chứng thực chữ ký số có nơi chưa được coi là một loại hình kinh doanh được nhà nước công nhận nên các tổ chức đăng ký xin giấy phép cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng khi làm việc với Sở Kế hoạch Đầu tư còn khó khăn.

Các chuyên gia cũng đã trình bày về kế hoạch triển khai hệ thống chứng thực điện tử phục vụ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Theo đó, việc triển khai chứng thư số và chữ ký số cho các cơ quan có thể tiến hành theo 2 mô hình: Mô hình tập trung phù hợp với việc triển khai chứng thư số ở quy mô lớn (từ 1000 chứng thư số trở lên) và Mô hình phân tán phù hợp với việc triển khai chứng thư số ở quy mô nhỏ

Liên quan đến vấn đề này, Báo Lao động có bài Quản lý văn bản mật chứng thực số như thế nào?  Bài báo đưa tin: Bảo mật thông tin thuộc phạm vi Nhà nước và quản lý các văn bản số theo đúng quy định về xử lý văn bản là những vấn đề được quan tâm tại hội thảo “Hiện trạng và kế hoạch thúc đẩy triển khai ứng dụng chữ ký số”.  

Trong quá trình triển khai chứng thực chữ ký số ông Phùng Văn Ổn - GĐ TT Tin học Văn phòng Chính phủ chia sẻ với việc truyền gửi các văn bản số quan trọng như công văn mật mặc dù đã được mã hóa vẫn vướng các quy định về xử lý văn bản hiện hành. 

 Về nguyên tắc nếu văn bản giấy gửi bao nhiêu bản, gửi cho ai và đi đâu và thừa ra bản nào thì phải hủy ngay bản đó. Nhưng đối với văn bản xác thực điện tử ví dụ một bản báo cáo thanh tra đang trong quá trình xử lý được coi là tài liệu mật gửi trên mạng đến đúng người thì vẫn mắc ở việc kiểm soát các bản sao để đảm bảo tính pháp lý, quy định.

 Theo ông Trần Nguyên Vũ - Phó Cục trưởng, Cục tin học và Thống kê Tài chính, Bộ Tài chính, giao dịch điển tử thì không thể copy máy móc như thế giới thực, vì nếu nói trên khái niệm có bao nhiêu bản copy của một văn bản điện tử thì nó vô cùng. “Ví dụ vé máy bay điện tử hoặc in hóa đơn thì một hệ thống nếu có phép nhẩy số thì in ra bản duy nhất còn có bao nhiêu bản sao điện tử thì vấn đề không nhất thiết chúng ta phải áp dụng như quy định trên giấy, trên điện tử chúng ta không thể áp dụng như thế”, ông Vũ nói. Kiểm soát văn bản bằng các mã bảo mật thì người nhận được bản sao cũng không thể xem.

 Theo luật giao dịch điện tử thì một văn bản điện tử nó có giá trị pháp lý khi thỏa mãn bốn tính chất, thứ nhất là toàn vẹn, bảo mật nghĩa là người nào có quyền mới được xem, thứ ba khi cần xem hệ thống phải truy cập được ngay và cuối cùng là tính định danh.

5. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Luật sư muốn được tự đào tạo! Bài báo đưa tin: Hệ thống đào tạo ngành luật của Việt Nam hiện quá thiếu thực tiễn, thiếu kỹ năng khiến sinh viên khi ra trường phải đào tạo lại, thậm chí không thể sử dụng được!

"Thông tư cần qui định rõ hơn những cơ quan nào có thẩm quyền kiểm tra hoạt động của luật sư (LS), vì ở TP HCM, UBND các quận và phường cũng tổ chức các đoàn kiểm tra hoạt động hành nghề của LS!" LS Phan Thông Anh (Ủy viên Ban Thường vụ Liên đoàn LS Việt Nam, Chủ nhiệm Đoàn LS Bình Phước) phản ánh tại Tọa đàm đóng góp ý kiến cho dự thảo thông tư thay thế Thông tư 02/2007/TT-BTP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư, do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 23-10.

Cũng theo LS Phan Thông Anh, Thông tư cũng cần hướng dẫn rõ hơn việc các LS mở văn phòng thừa phát lại thì có bị thu hồi lại thẻ hành nghề LS không. Hay các công chứng viên chuyển sang hành nghề LS, nếu do bị kỷ luật, "có vấn đề" khi hành nghề công chứng thì các Đoàn LS có "nhận"?
Trái ngược với quan điểm của ông Nguyễn Văn Bốn (Phó Vụ trưởng Vụ Bổ trợ Tư pháp, đại diện cơ quan soạn thảo, đồng thời là cơ quan quản lý), khá nhiều LS phản đối khi thay đổi Trưởng Văn phòng LS (VPLS), Giám đốc Cty Luật TNHH một thành viên thì các tổ chức này phải làm thủ tục chấm dứt hoạt động và đăng ký hoạt động lại.

Chủ nhiệm Đoàn LS Thanh Hóa Lê Quốc Hiền cho rằng, việc làm này gây khó khăn cho hoạt động của LS, bởi khi VPLS thông báo chấm dứt hoạt động sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề cần giải quyết. LS Hiền cho rằng thay đổi trưởng văn phòng, chỉ là thay đổi nội dung trong đăng ký hoạt động, nên chỉ cần đăng ký thay đổi, đồng thời có cam kết giữa Trưởng văn phòng cũ và mới về việc kế thừa trách nhiệm với khách hàng là được. Đồng tình, LS Nguyễn Đức Mạnh (VPLS Bizlink, Đoàn LS Hà Nội) viện dẫn thêm Điều 36 và Điều 47 Luật Luật sư, cho rằng Luật Luật sư không qui định khi thay đổi Trưởng văn phòng thì VPLS phải chấm dứt hoạt động, nên các VPLS, Cty luật không phải theo thủ tục này.

Vấn đề được giới luật sư thảo luận sôi nổi là đào tạo LS thế nào cho hiệu quả. Chủ nhiệm Đoàn LS Hải Phòng Nguyễn Cẩm cho rằng, LS làm giảng viên phải có kinh nghiệm ít nhất 10 năm hành nghề. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng LS, luật cũng cần qui định sau khi được cấp chứng chỉ hành nghề bao lâu, LS mới được thành lập VPLS, được nhận hướng dẫn LS tập sự, chứ không phải vừa cầm chứng chỉ xong đã thành lập VPLS ngay hay nhận vài "em" về hướng dẫn được…

Luật sư Lê Thanh Sơn (Trưởng VPLS AIC, Đoàn LS Hà Nội) cho rằng, đào tạo LS khác đào tạo cử nhân luật, vì LS phải được đào tạo theo yêu cầu của thị trường, chứ không phải như sinh viên. Theo LS Sơn "giảng viên của ĐH Luật hay Học viện Tư pháp đều không phải là LS, do đó, không thể hiểu LS và có kinh nghiệm hành nghề LS bằng chính LS. Chỉ có LS mới đưa ra được tiêu chuẩn cần thiết cho việc đào tạo (các VPLS, Cty luật có trách nhiệm đóng góp ý kiến xây dựng chương trình đào tạo, Liên đoàn LS tập hợp và thành lập Ban Đào tạo để nghiên cứu, xây dựng chương trình tổng thể) và thực hiện việc đào tạo, còn Học viện Tư pháp hoặc Trường đào tạo LS của Liên đoàn LS (trong tương lai) chỉ đóng vai trò tuyển sinh, phối hợp tổ chức đào tạo, mà không đưa ra đề thi, không chấm thi…".

Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng quan điểm này không thực tế. Bởi, nếu giới LS thực hiện tự đào tạo "hoàn toàn", thì liệu Liên đoàn LS có "kham" nổi việc này, và có bao nhiêu LS "tương đối" giỏi (có trình độ, năng lực và nghiệp vụ sư phạm nhất định) dành thời gian cho việc xây dựng chương trình đào tạo, giảng dạy chuyên trách LS, trong khi thu nhập từ hành nghề LS và giảng dạy là khoảng cách? Chưa kể, giỏi nghề LS chưa hẳn đã là người có thể đứng trên bục giảng để dạy LS! Hơn nữa, các LS đã có thời gian 2 năm tập sự để học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề từ lớp đàn anh đi trước, "trong thời gian đó, nếu tập sự nghiêm túc và hướng dẫn tập sự nghiêm túc, chúng tôi đủ thời gian để "truyền nghề" cho nhau", một LS khẳng định.

Hội thảo gần đây của Liên đoàn LS về bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng hành nghề và các kỹ năng liên quan cho LS đã chỉ ra rằng, hệ thống đào tạo ngành luật của Việt Nam hiện quá thiếu thực tiễn, thiếu kỹ năng khiến sinh viên khi ra trường phải đào tạo lại, thậm chí không thể sử dụng được! Kinh nghiệm đào tạo LS trên thế giới cho thấy, việc "biến" một sinh viên luật trở thành LS không thể diễn ra trong một thời gian ngắn, mà kéo dài cả một quá trình, bắt đầu từ năm thứ nhất trong trường luật! Bởi vậy, để có LS giỏi, không phải là chuyện tranh cãi xem LS đào tạo LS hay Học viện Tư pháp hoặc một cơ sở đào tạo nào đó đào tạo LS, mà cần thay đổi cả một hệ thống, từ chương trình, phương pháp, thời gian đào tạo và chất lượng đội ngũ giảng viên!

6. Báo Kinh tế & Đô thi có bài Hà Nội kiểm tra CCHC "một cửa" theo cụm. Bài báo đưa tin: Ngày 21/10, Đoàn kiểm tra công tác cải cách hành chính (CCHC) của Hà Nội đã tiến hành kiểm tra đột xuất việc thực hiện công tác này tại UBND xã Nam Hồng, huyện Đông Anh để đánh giá đúng thực trạng, phát hiện các sai sót của bộ phận "một cửa" nhằm kịp thời chấn chỉnh, từ đó rút kinh nghiệm cho các địa bàn tại cụm 3 gồm các huyện Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm, Long Biên và Mê Linh trong việc nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết hồ sơ hành chính tại bộ phận "một cửa" của các đơn vị trên địa bàn. Quá trình kiểm tra cho thấy, việc lưu hồ sơ, giấy tờ một số lĩnh vực quan trọng (địa chính, tư pháp) còn thiếu hoặc chưa đầy đủ, rõ ràng, không ghi vào sổ giao nhận, không ghi phiếu hẹn cho dân hay tiếp nhận hồ sơ giải quyết các lĩnh vực địa chính, xây dựng ngay tại phòng chuyên môn mà không theo quy trình một cửa. 

7. Báo Sài Gòn tiếp thị đưa tin: Tổng cục đường bộ Việt Nam vừa có văn bản kiến nghị bộ Giao thông vận tải sửa đổi quy định cấm xe khách dừng đón, trả khách dọc đường.

Theo đó, tổng cục Đường bộ đề xuất “sửa lại khoản 3 điều 18, khoản 1 điều 19, khoản 2, 3 điều 20 của Thông tư 14/2010/TT-BGTVT. Các điều khoản này liên quan đến việc đón trả khách dọc đường đối với xe khai thác vận tải khách theo tuyến cố định”.

Chia sẻ với SGTT về quy định này, cục trưởng cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (bộ Tư pháp) Lê Hồng Sơn từng nói: đây là quy định thể hiện tính xa rời thực tế, không phù hợp trong điều kiện hiện nay. Quy định này khó có hiệu quả bởi cả người dân lẫn doanh nghiệp khó mà tuân thủ.

Cũng trong ngày 24.10, qua điện thoại, thứ trưởng bộ Giao thông vận tải Lê Mạnh Hùng khẳng định: hiện giờ bộ chưa có chủ trương chỉnh sửa thông tư.

8. Báo Phụ nữ Online có bài 9 tháng tuổi còn chờ giấy khai sinh. Bài báo đưa tin: Bị người tình phụ bạc, người mẹ trả thù bằng cách bỏ rơi đứa con trai còn đỏ hỏn lúc mới 20 ngày tuổi, ngay tại lều trại của người cha vô trách nhiệm. Ông bà nội già lụm cụm phải nuốt nước mắt cưu mang đứa cháu bé bỏng, nhưng khai sinh mãi cho cháu vẫn chưa được…

Ở vùng quê heo hút, ít am hiểu pháp luật, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên khi người mách bảo, hai cụ mới chạy làm giấy khai sinh cho cháu theo diện trẻ mồ côi, bị bỏ rơi. Tháng 5/2010, xã Bình Trị đã cấp giấy khai sinh cho cháu bé với tên Thái Trần Tấn Được, hai cụ đứng tên nhận cháu làm con nuôi; xin nhập vào hộ khẩu gia đình. Tuy nhiên, khi làm thủ tục để cháu được hưởng trợ cấp xã hội theo diện trẻ mồ côi thì cơ quan chức năng huyện Thăng Bình không đồng ý, cho rằng cháu không mồ côi. Chính quyền xã mời cụ Anh mang giấy khai sinh cháu Được ra xã để chỉnh sửa. “Chỉnh sửa mô chẳng thấy, họ thu luôn cả bản sao lẫn bản gốc. Sau đó, họ tiếp tục yêu cầu tui mang sổ hộ khẩu ra để chỉnh sửa, nhưng lần này tui biết rồi, không dám mang ra nữa vì sợ họ xóa tên thằng Được thì nguy” - cụ Anh kể.

Đến nay đã hơn chín tháng tuổi nhưng việc làm lại giấy khai sinh cho cháu Được còn bỏ ngỏ. Một cán bộ tư pháp xã Bình Trị cho biết: “Trường hợp này, có xác nhận của thôn và một trong hai cụ đứng ra khai sinh cho cháu nội; phần lai lịch bên cha, khai tên ông S., phần bên mẹ để trống, thì xã sẽ giải quyết, cấp ngay lại giấy khai sinh cho cháu”. Tuy nhiên, ông S. vẫn cứ ở biệt tăm trong Đắk Lắk, không muốn thừa nhận con.

Chưa có giấy khai sinh nên cháu Được vẫn chưa được cấp thẻ khám chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi, mỗi lần cháu đau bệnh, hai cụ lại phải bán con gà, thúng lúa chạy chữa.