Điểm tin báo chí sáng ngày 13 tháng 10 năm 2010

13/10/2010
Trong buổi sáng ngày 13/10/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những sự kiện nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo An ninh Thủ đô phản ánh: Sáng 12-10, Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã tổ chức Hội thảo “Rà soát chính sách trên một số lĩnh vực ảnh hưởng đến hoạt động của khu vực tư nhân Việt Nam”.
Theo các chuyên gia kinh tế, lợi nhuận của khu vực tư nhân thấp hơn khu vực FDI và khu vực Nhà nước bởi nhiều lý do. Thứ nhất là khó tiếp cận các nguồn lực, đặc biệt là vốn, đất đai; Doanh nghiệp tư phải thuê mặt bằng, thuê đất để làm trụ sở, nhà xưởng trong khi doanh nghiệp Nhà nước được giao đất, doanh nghiệp FDI được cho thuê với giá rẻ. Thứ hai, khu vực tư nhân khó tiếp cận các dự án mua sắm khu vực công mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba, khu vực tư ít có khả năng tham gia các khu vực có lợi nhuận cao do các quy định ngặt nghèo như bất động sản, khai khoáng, viễn thông… Bên cạnh đó, khu vực kinh tế tư nhân cũng chậm nhận được hỗ trợ tháo gỡ khó khăn do biến động về tỷ giá, lạm phát…
2. Báo Lao động phản ánh: Giảm số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ xuống dưới 20 cơ quan vào năm 2015 và còn 15 cơ quan vào năm 2020 - Đây là một trong 10 mục tiêu cụ thể được đề ra trong dự thảo Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, được Bộ Nội vụ và Chương trình phát triển Liên hợp quốc lấy ý kiến đóng góp của 23 tỉnh, thành phố phía Bắc, tại hội thảo ngày 12/10, tổ chức ở Quảng Ninh.
Theo các mục tiêu đề ra, đến năm 2015, chức năng của các cơ quan hành chính nhà nước được xác định phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không còn sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng giữa các cơ quan hành chính; phân cấp thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương về cơ bản được thực hiện; thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn giản, phấn đấu mỗi năm giảm trung bình 10% chi phí mà cá nhân, tổ chức bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính với các cơ quan hành chính nhà nước.
Chương trình cũng phấn đấu cơ chế một cửa, một cửa liên thông được thực hiện 100% vào năm 2013; đến năm 2015 sự hài lòng của người dân, tổ chức với dịch vụ do cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công cung cấp đạt mức 85%; 100% cơ quan hành chính thực hiện cơ cấu công chức theo vị trí việc làm; đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lí, đủ trình độ và năng lực phục vụ sự phát triển của đất nước…
Trên cơ sở đóng góp ý kiến của các bộ, ngành, địa phương, Bộ Nội vụ sẽ chỉnh sửa, hoàn thiện báo cáo tổng kết 10 năm qua và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 để tiến hành tổng kết vào tháng 12 tới. Các mục tiêu cải cách hành chính 10 năm tới sẽ được chỉnh sửa theo hướng phù hợp, đảm bảo gọn nhẹ, dễ dàng đánh giá, kiểm điểm, triển khai thực hiện và lượng hóa được.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Chiều 12-10, ông Lương Văn Luyến, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Bình, cho biết đã tiếp nhận trực tiếp và đăng ký qua điện thoại của các tổ chức, cá nhân hỗ trợ đồng bào bị lũ lụt của tỉnh với tổng giá trị gần 18 tỉ đồng (trong đó lương thực, thực phẩm trị giá 6 tỉ đồng).
4. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: "Các bên nhất trí giải quyết bằng hòa bình và đối thoại, không bao giờ dùng biện pháp quân sự để giải quyết tranh chấp vùng biển", Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh trả lời báo chí sau khi kết thúc hội nghị ADMM+, chiều 12/10. Đại tướng Phùng Quang Thanh cho biết, dù không nằm trong chương trình nghị sự, nhưng vấn đề an ninh trên biển Đông được nhiều bộ trưởng quan tâm tại hội nghị ADMM+. Các bên nhất trí giải quyết tranh chấp bằng hòa bình và đối thoại trong khuôn khổ luật pháp quốc tế. Việt Nam đã đề xuất việc hướng tới xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC).
Đại tướng Phùng Quang Thanh cho biết, thành tựu quan trọng nhất của hội nghị là các bộ trưởng đã gặp gỡ nhau, giao lưu và bàn về hợp tác song phương và đa phương. Các bên đồng ý tăng cường xây dựng lòng tin, tình hữu nghị và bàn về hợp tác chiến lược vì hòa bình, ổn định trong khu vực. Ông khẳng định chỉ riêng việc 18 bộ trưởng các nước cùng đến Việt Nam, lần đầu tiên ngồi lại với nhau bàn những biện pháp giải quyết vấn đề an ninh chung, trong đó có an ninh phi truyền thống là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử.
5. Trang web vnr500.vn phản ánh: …lý luận về một CNXH có sức sống, đầy tính nhân văn, và do vậy có sức thu hút nhân loại hơn thứ CNXH đã sụp đổ cần phải được xây mới. Đó sẽ là một công việc vĩ đại của nhân loại và chắc sẽ hoàn thành không thể trong nay mai. Trong hoàn cảnh đó, liệu chúng ta có tự gây khó cho mình khi đặt ra trong cương lĩnh hành động mục đích là quá độ lên CNXH, trong khi theo luận thuyết của Lê nin thì các nước chưa kinh qua phát triển CNTB như Việt Nam ta, muốn xây dựng thành công CNXH nhất thiết (điều kiện cần và đủ) là phải được nước đã có CNXH thành công giúp đỡ lâu dài, triệt để và toàn diện? Điều kiện này rõ ràng hiện nay chưa hội đủ. Hơn thế nữa, lý luận mới về CNXH ở đâu đó còn đang trong quá trình xây dựng và chưa có thử nghiệm thành công, thì nên chăng trong giai đoạn này thiết thực hơn là đặt ra mục tiêu xây dựng và hoàn thiện xã hội dân chủ nhân dân với Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Hồ Chí Minh sáng lập?
Xác định đúng khẩu hiệu hành động trong từng giai đoạn Cách mạng là tiền đề của thắng lợi. Muốn giành thắng lợi chung cuộc thì phải trân trọng từng bước tiến hôm nay, dù là nhỏ. Vì lẽ đó, trên thực tế cụm từ "kinh tế thị trường định hướng XHCN" đã gây không ít băn khoăn và trăn trở, nếu không nói là đã tạo ra tình trạng mơ hồ, trong định hướng hành động khiến những kẻ cơ hội có điều kiện trục lợi "đục nước béo cò", "vơ vét của công, làm giàu cho cá nhân nhưng lại nhân danh CNXH!".
Sau hơn hai 20 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, có thể liệt kê ra một vài "lỗ hổng" như sau:
- Hiện nay đảng viên cũng như mọi công dân đều có quyền sở hữu tài sản (đất đai, tư liệu sản xuất, tham gia làm kinh tế... ), nhưng cơ chế ủy thác quyền sở hữu đối với các DNNN và tập thể cho các giám đốc, do chính quyền bổ nhiệm, còn nhiều bất cập tạo điều kiện cho việc "biến công thành tư" một cách hợp pháp. Ví dụ, trong quá trình cổ phần hóa, nhiều DNNN đã bị "hóa giá" dưới giá thị trường để chia nhau thâu tóm.
- Hệ thống thanh tra, giám sát, kỷ luật của Đảng và chính quyền chưa chuyển biến kịp trên cả phương diện phương pháp luận và trang bị kỹ thuật đối với hoạt động của cơ chế thị trường, hội nhập, toàn cầu hóa. Về cơ bản vẫn mang dấu ấn của nền kinh tế kế hoạch hóa và bao cấp. Ví dụ, việc cán bộ có chức quyền phải kê khai tài sản hiện nay không có tác dụng ngăn chặn tham nhũng hối lộ mà chỉ mang tính hình thức.
- Hệ thống tuyển chọn, đề bạt cán bộ vào các vị trí chủ chốt trong DNNN không theo kịp với chuẩn mực quốc tế nên thường chỉ đạt tiêu chuẩn chính trị trong nước, chứ chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập và cạnh tranh, trong toàn cầu hóa.
- Việc không tách rời giữa lợi ích của chính quyền và các DNNN đã khiến hệ thống cơ quan nhà nước hoạt động chưa khách quan, công bằng khiến tình trạng lạm dụng quyền lực vì lợi ích kinh tế riêng và tham nhũng, hối lộ là khó tránh khỏi. Hơn nữa, sự không rõ ràng này đang cản trở sự đào thải các DNNN làm ăn kém hiệu quả và thực chất là cản trở quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để phát triển theo chiều sâu.
- Việc Nhà nước trực tiếp nắm giữ vai trò điều tiết, phân bổ vốn và điều hành các DNNN về lâu dài sẽ hình thành liên minh (hay nhóm lợi ích) giữa Chính phủ, công ty và làm mất tính khách quan của Nhà nước trong thực thi quyền sở hữu tư nhân cũng như ngăn cản sự phát triển của nhà nước pháp quyền. Chỉ với một vài "lỗ hổng" nêu trên (và chắc còn nhiều lỗ hổng khác nữa) mà khối DNNN tuy sử dụng trên 50% vốn đầu tư và phần lớn đất đai, tài nguyên khác của xã hội nhưng chỉ góp có 27% GDP (năm 2008) tạo ra 23,9% việc làm (năm 2007), đóng góp khoảng 20% kim nghạch xuất khẩu, đóng góp 15,94% vào thu ngân sách (năm 2007) và là nguyên nhân chính của căn bệnh nhập siêu ngày càng trầm trọng.
Một câu hỏi tự nhiên hình thành: "vậy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong định hướng XHCN là như vậy sao"?
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Chưa cấp phiếu LLTP nhanh vì phụ thuộc cơ quan Công an. Bài báo phản ánh: Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp (LLTP) mới, thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp chỉ còn “gói” trong vòng 10 ngày, song thực tế tại các địa phương, thời hạn này không được cải thiện nhiều do việc xác minh vẫn phụ thuộc vào cơ quan Công an.
Theo quy định mới, từ 1/7/2010 (ngày Luật LLTP có hiệu lực - PV), tất cả nguồn thông tin về LLTP do các ngành chức năng nắm giữ (như Công an, Tòa án Viện kiểm sát, thi hành án….) đều phải cung cấp cho Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp địa phương. Trình tự cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin LLTP được quy định cụ thể trong Luật LLTP. Tuy nhiên, khó là trước thời điểm 1/7, tất cả các thông tin LLTP đều vẫn do ngành Công an quản lý. Do đó, việc cấp Phiếu LLTP vẫn phụ thuộc vào tra cứu của Công an.
“Thời hạn cấp Phiếu LLTP của Hà Nội hiện nay là khoảng từ 10-12 ngày”, Phó Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội Phạm Xuân Phương cho biết. Tuy nhiên, cũng theo ông Phương, đây là kết quả cải cách thủ tục hành chính của Hà Nội đã được duy trì từ nhiều năm. “Với cơ chế như hiện nay, chúng tôi không thể rút ngắn thời hạn thêm được nữa”, ông Phương khẳng định.
Tại Hà Giang, từ đầu năm đến nay tỉnh mới cấp 34 Phiếu LLTP, song theo Giám đốc Sở Tư pháp Hầu Minh Lợi thì thời hạn cấp cũng mất 10 ngày (tức đã rút ngắn hơn trước là 6 ngày), những trường hợp “có vấn đề” cũng phải “kéo” đến 20 ngày. ”Chỉ trừ những trường hợp đơn giản như học sinh đang trên ghế nhà trường hay vừa tốt nghiệp, có lý lịch rõ ràng chúng tôi tạo điều kiện để xác minh và cấp ngay, nhưng cũng mất khoảng 5 - 6 ngày”, ông Lợi cho biết thêm.
So với trước đây, mặc dù thời hạn cấp Phiếu LLTP đã được rút ngắn (từ 16 xuống còn 10 ngày), nhưng vẫn với quy trình cũ (Tư pháp tiếp nhận, Công an tra cứu) thì thời hạn nói trên vẫn không cải thiện được bao nhiêu. Thậm chí nhiều địa phương vẫn “dậm chân tại chỗ”. Chưa kể vào những đợt cao điểm, hay có việc “bận đột xuất”, ngành Công an không thể tra cứu để trả kết quả đúng hạn. Trước đây, khi Thông tư liên tịch Tư pháp – Công an quy định về cấp PLLTP còn hiệu lực, nhiều người dân phản ánh chuyện “nhập nhèm” giữa trường hợp phức tạp và không phức tạp, và vì thế hồ sơ của họ bị “om” thêm 10 ngày (nâng thời hạn lên gần 1 tháng). Luật mới cũng quy định những trường hợp đặc biệt được kéo dài thêm 10 ngày nữa và mở rộng “những trường hợp khẩn cấp thì phải cấp PLLTP trong 24 giờ”. Tuy nhiên những quy định này đến nay cũng chưa có hướng dẫn cụ thể.
Hơn 3 tháng kể từ ngày Luật có hiệu lực, theo ghi nhận tại các địa phương, ngành Tư pháp đang nỗ lực đặt những “viên gạch” đầu tiên cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ việc tra cứu thông tin LLTP. Tuy nhiên, khó nhất vẫn là cơ chế phối hợp giữa các ngành. Mặc dù đã có sự chuẩn bị chu đáo cho triển khai Luật LLTP mới (trong đó có việc phối hợp tốt với các ngành liên quan), tuy nhiên, từ 1/7/2010 đến nay, Hà Nội cũng mới chỉ cập nhật được trên 100 trường hợp (chủ yếu tiền án) – một số lượng như “muối bỏ bể” so với thông tin phải tập hợp.
Tại nhiều địa phương, việc cung cấp thông tin cho tư pháp nhiều nơi không đầy đủ (và như vậy đương nhiên, cơ sở dữ liệu sẽ không cập nhật kịp thời), trong khi chế tài để xử lý thì mờ nhạt. “Luật đã quy định các cơ quan, tổ chức phải thực hiện cung cấp thông tin cho Sở Tư pháp nhưng lại chưa có hướng dẫn cụ thể, cũng như việc chuyển giao những dữ liệu đã có như thế nào, nên khó khăn trong việc cấp Phiếu”, một số Sở Tư pháp phản ánh. Liên quan đến thực hiện Luật LLTP ở địa phương, một vấn đề khác là việc bố trí nhân sự cho công tác này còn nhiều hạn chế do quỹ biên chế eo hẹp và đòi hỏi những cán bộ tinh thông nghiệp vụ, tin học cao.
2. Trang web báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Ai tiếp tay cho việc chiếm đoạt tài sản của Mẹ Việt Nam Anh hùng?. Bài báo phản ánh: Một cá nhân tự đưa xe đến múc đất, đốn cây trong vườn Mẹ Việt Nam Anh hùng đem bán, rồi nói là vườn của mình. Chưa dừng lại ở đó, tòa tuyên án mẹ thắng kiện, nhưng cơ quan chức năng lại “cò cưa” không chịu thi hành án. Chuyện gây bức xúc dư luận xảy ra ở ấp Gò Cà, xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Cầm lấy tay tôi lắc nhẹ, Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Hóa thút thít: “Chúng nó lấy mất đất của mẹ rồi con ơi, giúp mẹ với”. Câu nói chưa dứt, hai hàng nước mắt của mẹ đã trào ra. Anh Nguyễn Văn Nếp, con trai mẹ, giải thích: “Bà ức lắm nên cứ nhắc đến chuyện đất đai là lại khóc, đã hai năm nay rồi lên tỉnh xuống huyện kiện cáo mỏi mòn, nhưng...”. Mẹ Nguyễn Thị Hóa năm nay đã 98 tuổi, tuy sức yếu, mắt mờ nhưng trí nhớ của mẹ còn rất tốt. Với sự hỗ trợ của anh Nếp, mẹ kể lại sự việc trong nước mắt. Tháng 3-2006, mẹ Hóa mua 21.894m2 đất trồng trọt của ông Tống Văn Thanh. Sau khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính thức được sang tên cho mẹ Hóa, rắc rối bắt đầu xảy ra. Tháng 4-2006, ông Trần Văn Dững (thường trú ấp Gò Cà, xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã tự tiện mang xe cơ giới vào đào đất trên diện tích 8.683m2 của mẹ Hóa. Phát hiện ra vụ việc, anh Nguyễn Văn Nếp (con ruột mẹ Hóa) đã ra can ngăn và báo chính quyền địa phương. Công an xã đã vào can thiệp, nhưng ông Dững bất chấp. “Không những không dừng múc đất, khi tôi và con trai là Nguyễn Văn Tú ra ngăn cản thì ông Dững lao đến đánh con tôi, máu chảy từ mặt nó xuống ướt hết cả ngực”, anh Nếp kể lại. Sau khi vụ việc xảy ra, chính quyền địa phương đã cho mời hai bên hòa giải nhưng bất thành.
Mâu thuẫn hai bên càng ngày càng chồng chất khi hàng loạt sự cố sau đó xảy ra trên phần đất này. Ngày 1-9-2006, ông Trần Văn Tứ (cha của Trần Văn Dững) đã tự tiện gọi người cưa 10 cây tràm trên phần đất của mẹ Hóa. Ngày 9-9-2006, ông Trần Văn Dững trong lúc dọn vườn đã cho đốt cây làm lửa cháy lan sang đất mẹ Hóa. Lửa thiêu rụi 40 trụ hàng rào và 55 cây tràm bông vàng. Trước đó, khi lửa bén sang phần đất của mẹ Hóa, nhiều người dân phát hiện đã báo cho ông Dững, nhưng ông ta bỏ mặc. “Sau hai sự việc đó là việc 15 cây lộc vừng trong phần đất này cũng không cánh mà bay, 10 tấn cá trong ao của tôi cũng đột ngột chết trắng mặt hồ, thiệt hại gần 100 triệu đồng”, anh Nếp cho biết thêm. Vụ việc sau đó đã đưa ra tòa.
Ngày 31-7-2008, Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc đã mở phiên tòa và tuyên buộc ông Trần Văn Dững và ông Trần Văn Tứ giao trả toàn bộ phần đất đã xâm hại (8.683m2) cho mẹ Nguyễn Thị Hóa. Bản án còn buộc ông Tứ và ông Dững phải bồi thường cho mẹ Hoá số tiền 12.278.525 đồng. Ông Dững và ông Tứ đã kháng án. Vụ án được chuyển lên Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngày 29-9-2008, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử y án sơ thẩm, mẹ Hóa có quyền sở hữu hợp pháp phần đất này và ông Tứ, ông Dững phải bồi thường 10.549.500 đồng. Tưởng rằng vụ việc đã đâu vào đấy, thì rắc rối mới lại ập đến.
Cục Thi hành án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ngâm bản án hơn hai năm, trong sự chờ đợi mỏi mòn của gia đình nạn nhân. Mẹ Hóa tuổi già sức yếu nhưng hơn hai năm nay đã hơn mười lần lên tỉnh xuống huyện để tìm hiểu lý do, nhưng tất cả vẫn im bặt. “Mẹ già rồi, nhưng mỗi lần nói lên tỉnh hỏi chuyện đất là vẫn đòi đi, nhiều khi lên trụ sở Cục Thi hành án là nằm một chỗ chờ gặp cho bằng được cục trưởng, nhưng chờ mãi chẳng thấy đâu”, anh Nếp kể lại. Các cơ quan chức năng như Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Ban chỉ đạo thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu... đều đã có công văn chuyển Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh yêu cầu thi hành án theo đúng pháp luật, nhưng tất cả vẫn bị phớt lờ. Công văn của Bộ Tư pháp gửi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 25-9-2009 nêu rõ: “Để sớm giải quyết dứt điểm vụ việc, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Hóa theo bản án, Tổng cục Thi hành án dân sự yêu cầu Cục Thi hành án dân sự tỉnh phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức thi hành án theo đúng quy định của pháp luật”.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, sau khi bản án phúc thẩm được tuyên bố, ngày 23-10- 2008, ông Nguyễn Văn Hạnh, Chi cục trưởng Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc, đã ra quyết định “thi hành án theo đơn yêu cầu”. Tuy nhiên không hiểu sao quyết định này sau đó đã không được thực thi. Theo trình bày của anh Nguyễn Văn Nếp: ông Trần Văn Mười, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đã mượn lý do “chờ ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao” (!?) để ngừng thi hành án. Tuy nhiên lý do này sau đó đã bị Phó chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Hồ Văn Niên bác bỏ, trong Công văn số 47/BCĐ-UBND ngày 28-4-2010: “Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh kiến nghị người có thẩm quyền xem xét lại bản án là không cần thiết... Yêu cầu Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh có kế hoạch tổ chức thi hành Bản án dân sự 125/2008/DSPT ngày 29-9-2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo quy định hiện hành trong tháng 5-2010”. Tuy nhiên đến nay ông cục trưởng này vẫn... im lặng. Tại sao?
3. Báo An ninh Thủ đô có bài Hoàn thiện kinh tế thị trường. Bài báo phản ánh: Pháp lệnh dân sự, sự phát triển kinh tế nhiều thành phần cùng với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã đặt nền móng cho nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đây là quy luật tất yếu, một xu thế không thể đảo ngược được. Tuy nhiên, không ít thách thức nội tại đã xuất hiện. Đặc biệt là khi chưa xác định rõ ràng, minh bạch vai trò, chức năng điều tiết, can thiệp của Nhà nước, đôi khi trở nên khó dự báo và làm méo mó môi trường kinh doanh. Gia nhập WTO tạo thêm sức ép buộc Việt Nam phải đẩy mạnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn bộ nền kinh tế buộc phải vận hành trong môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn, ngày càng mang tính toàn cầu.
Các bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh trong nhiều lĩnh vực vẫn duy trì quản lý theo lối cũ vẫn can thiệp khá mạnh vào môi trường kinh doanh thông qua các doanh nghiệp nhà nước và mệnh lệnh hành chính, chưa chuyển dần quyền lực điều tiết theo Luật Cạnh tranh. Trong nhiều lĩnh vực, lẽ ra các cơ quan này phải can thiệp và điều tiết mạnh mẽ hơn như bảo vệ môi trường, bảo vệ an toàn thực phẩm, bảo vệ người tiêu dùng… song, quản lý nhà nước lại bị buông lỏng hoặc kém hiệu quả. “Khuyết tật” của thị trường tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội, phúc lợi không được phân bổ công bằng, khoảng cách giàu nghèo rộng và sâu hơn.
Gần đây một số học giả sử dụng khái niệm “nhà nước lớn, xã hội nhỏ” để chỉ thực trạng Việt Nam hiện nay. Mặc dù đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nhưng Nhà nước vẫn còn “ôm” một khối lượng công việc quá lớn mà chưa “thoát” ra được. Dường như Nhà nước vẫn còn lo là đưa nhiều việc cho tư nhân làm thì không yên tâm, không được cho dân rồi lại tạo ra sự bất bình đẳng mới. Ở các nước phát triển, hầu hết các lĩnh vực dịch vụ công, Nhà nước có thể chuyển cho khu vực tư nhân và xã hội đảm đương. Sai đâu thì chỉnh sửa dần, không thể ôm đồm mãi. Nhà nước không nên gánh vác toàn bộ gánh nặng, lo từ A đến Z như thời kinh tế tập trung.
Bởi vì Nhà nước chỉ làm người “thuyền trưởng” điều khiển “con tàu” kinh tế xã hội, tức là làm chính sách pháp luật và giám sát xã hội thực hiện. Nhà nước chỉ cần nắm giữ những ngành, lĩnh vực thiết yếu hoặc tư nhân không muốn và không thể làm được. Gần đây, Nhà nước đã cho tư nhân làm nhiều trong lĩnh vực y tế, giáo dục, giao thông vận tải, thậm chí cả bưu chính viễn thông. Như thế vẫn chưa đủ. Trong hình diện hiện nay, để tiếp tục hoàn thành và hoàn thiện nền kinh tế thị trường, khu vực doanh nghiệp nhà nước cần phải thu hẹp lại, phải bán, khoán, cho thuê và cổ phần hóa. Không nên để 1.500 doanh nghiệp nhà nước mà nắm giữ tới 70% tài sản quốc gia. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ lệ cao khoảng 50% tổng vốn đầu tư xã hội, nhưng tỷ lệ đóng góp vào GDP không tương xứng chỉ ở mức 37-39% và tạo công ăn việc làm cho khoảng 4,4% tổng số lao động. Suốt hàng chục năm nay, khu vực kinh tế nhà nước luôn nhập siêu ở mức cao. Nói cách khác, khu vực này đã tiêu dùng và đầu tư hơn mức tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính là Nhà nước tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, bắt buộc tất cả các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng, không thiên vị, ưu ái cho bất cứ doanh nghiệp nào. Quyết tâm chính trị, chủ trương của Đảng đã có, vấn đề là quyết tâm thực hiện.
4. Báo Công thương có bài Có bỏ sót đối tượng chịu thuế. Bài báo phản ánh: Theo nguyên tắc này, mức thuế lẽ ra phải căn cứ vào hàm lượng các chất độc hại trong hàng hóa, tuy nhiên, thuế lại được thu theo nguyên tắc mức thuế tuyệt đối. Chẳng hạn: than là mặt hàng cần đánh thuế. Mức độ gây tác động xấu đến môi trường của than gầy, than mỡ, than nâu rất khác nhau lại cùng một mức thuế và tuy sử dụng than gây hại cho môi trường hơn xăng dầu nhưng mức thuế lại thấp hơn xăng dầu….
Vấn đề được các nhà khoa học quan tâm nhất vẫn việc bỏ sót nhiều mặt hàng chưa cho vào danh mục đối tượng chịu thuế. Hiện nay, dự thảo Luật thuế môi trường mới chỉ quy định 8 nhóm đối tượng thịu thuế là xăng dầu, than, dung dịch HCFC, túi ni lông, thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng, thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng, thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng và thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng. Trong khi đó, còn nhiều mặt hàng khác tác động xấu đến môi trường vẫn chưa chịu thuế như: Pin, ắc quy, máy tính điện tử, vải, đồ da, các sản phẩm du lịch (nhất là lữ hành), nước uống đóng chai…
Ngoài ra, theo quan điểm Ths.Võ Thị Mỹ Hương, khoa Luật, Đại học Huế, cần xem xét kỹ lưỡng việc có nên ban hành Luật thuế môi trường vào lúc này hay ban hành trong vài năm tới. Bởi, trên thế giới có 30 nước đánh thuế môi trường nhưng đại bộ phận là những nước công nghiệp phát triển, người dân có thu nhập rất cao. Chỉ có 6 nước là Mexico, Congo, Philippines, Malawi, Zimbabwe và Trung Quốc là thuộc diện các nước đang phát triển. Tuy nhiên, thuế môi trường ở 6 nước đang phát triển này chỉ đánh vào 1 – 2 mặt hàng, chủ yếu là thuốc trừ sâu, nhất là đánh vào loại thuốc trừ sâu độc hại. Riêng Trung Quốc cũng chỉ mới đánh vào than đá và túi ni lông loại mỏng.
Theo các nhà khoa học, nếu thực hiện như dự thảo Luật thuế môi trường trong giai đoạn hiện nay có thể sẽ gây khó khăn cho sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, nhất là khu vực nông thôn. Thuế bảo vệ môi trường áp dụng cho toàn thể nhân dân, trong khi thực tế họ khác hẳn nhau về mức sống, kinh tế… Nếu chia trung bình giá trị thuế bảo vệ môi trường theo Dự thảo hàng năm là 57.000 tỷ đồng cho 40 triệu dân lao động thì thuế môi trường bình quân là sẽ là 1,4 triệu/người/năm, tương đương khoảng 7 tháng thu nhập người nghèo nông thôn và khoảng 5,5 tháng thu nhập của người nghèo đô thị.