I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân đưa tin sáng 20-9, theo giờ địa phương (tối cùng ngày theo giờ Hà Nội), Hội nghị cấp cao của Liên hợp quốc (LHQ) kiểm điểm việc thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) đã khai mạc trọng thể tại trụ sở LHQ ở thành phố Niu Oóc (Hoa Kỳ). Dự hội nghị có 193 đoàn đại biểu các nước thành viên LHQ, trong đó có khoảng 140 lãnh đạo nhà nước, chính phủ cùng 19 tổ chức quốc tế trong vai trò quan sát viên. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết dẫn đầu Ðoàn đại biểu Việt Nam dự hội nghị.
Theo chương trình, chiều 20-9 theo giờ địa phương (sáng 21-9 theo giờ Hà Nội), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết có bài phát biểu tại Phiên họp toàn thể của Hội nghị cấp cao.
Báo cũng đưa tin: Ngày 20-9, nhân dịp Tết Trung thu 2010, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã gửi thư đến các cháu thiếu niên, nhi đồng.
2. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Bộ máy hành chính ngày càng phình to! Bài báo phản ánh: Pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước cũng chưa phân định hợp lý, đúng đắn, rạch ròi, minh bạch thẩm quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
“Pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước còn có những “mảng trống” là quan điểm của GS.TS Trần Ngọc Đường (Viện Nghiên cứu lập pháp) vừa đưa ra tại Diễn đàn đối tác pháp luật lần thứ 7. Theo ông Đường, đó là mảng trống về kiểm soát quyền lực Nhà nước bên trong tổ chức bộ máy giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cụ thể, lập pháp chưa có cơ chế kiểm soát hoạt động của mình, hành pháp chưa tự kiểm soát được lẫn nhau, tư pháp chưa kiểm soát được tính hợp hiến của các đạo luật, tính hợp pháp của các văn bản pháp qui..
Quốc hội không có các cấp, các chức vụ hành chính, không có người quản lý và người bị quản lý, tất cả các đại biểu đều bình đẳng như nhau. Thế nhưng, trên thực tế, Quốc hội lại đang được “hành chính hóa”... Nói về hoạt động hành pháp, ông Đường cho rằng, bộ máy hành chính không gọn mà ngày càng phình to cùng với hoạt động lập pháp của Quốc hội và lập qui của Chính phủ. Tình trạng “đẻ” ra các tổng cục ở các Bộ ngày càng phổ biến, việc chia tách phường, xã cũng làm bộ máy “phình” ra.
3. Báo Tuần Việt Nam có bài Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và Vedan. Bài báo phản ánh: Nông dân các tỉnh là nạn nhân của Vedan đã nhận tiền bồi thường. Thông tin về Vedan đang nhạt dần trên báo chí đồng nghĩa với việc vụ Vedan đang âm thầm khép lại.. Khi thời hiệu khởi kiện đã qua đi, vụ Vedan gần như đã xong, quyền lợi của người bị thiệt hại phần nào đã được đáp ứng nhưng hình như công lý chưa dõng dạc lên tiếng.
Qua vụ Vedan người ta hiểu rõ hơn câu nói ví von "xã hội như một cỗ xe do kinh tế thị trường đẩy, nhà nước kéo, xã hội dân sự canh chừng". Nước ta xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên có thêm Đảng ngồi cầm lái. Qua vụ Vedan có thể thấy một cỗ xe vận hành chưa trơn tru và nhưng yếu tố trên chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Việt Nam đang nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong khi đó, quyền con người là nguồn gốc đồng thời là mục đích của nhà nước pháp quyền. Quyền con người trong lĩnh vực môi trường đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật cụ thể là Luật Môi trường. Nhưng khi vụ Vedan vỡ lở, người ta mới thấy rằng nếu chỉ ghi nhận thôi thì chưa đủ mà cần có cơ chế để thực hiện và bảo vệ nó. Khi thiếu cơ chế pháp luật thì căn bệnh của bộ máy nhà nước như đùn đẩy trách nhiệm, đổ lỗi cho nhau, thậm chí giải quyết cho qua chuyện lại manh nha tái phát. Khi quyền lợi bị xâm phạm người dân luôn có nhu cầu nhờ cậy nhà nước giúp đỡ cho dù trong nhà nước pháp quyền không có sự ban phát hoặc xin cho từ phía nhà nước hay "nhờ cậy" từ dân chúng. Trong vụ Vedan, vai trò của cơ quan chức năng dường như mờ nhạt. Mờ nhạt trong việc phát hiện chậm trễ, trong việc xử lý vi phạm và trong việc không hoàn thành nhiệm vụ đặt ra luật lệ để giải quyết.
Pháp luật, cụ thể là luật tố tụng dân sự đã quy định rõ trách nhiệm khởi kiện của cơ quan nhà nước. Thế nhưng, không có cơ quan nào dũng cảm đứng ra đảm nhiệm việc này bởi lẽ ai cũng nghĩ "chắc nó trừ mình ra".
Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Tài nguyên môi trường có sự dè dặt đầy khôn ngoan khi không đứng ra khởi kiện. Họ là những người cấp phép hoạt động, kiểm tra, giám sát, xử phạt hành chính Vedan sau đó lại là người đứng ra khởi kiện dân sự đối với Vedan. Có cái gì đó không ổn ở đây nhất là khi Sở này thay vì đàng hoàng khởi kiện họ lại vận động nông dân chấp nhận bồi thường lấy "dĩ hòa vi quý làm trọng". Quan còn ngại ra tòa thì dân nói "vô phúc đáo tụng đình" là điều dễ hiểu. Khi công quyền không nhiệt tình thì người dân buộc phải tự đi tìm công lý. Quá trình đi tìm công lý cho vụ Vedan đáng lẽ ra cơ quan nhà nước phải là người tiên phong nhưng thực tế họ lại chỉ vào cuộc khi người dân đã làm quyết liệt và cơ quan nhà nước lúc này vào cuộc với vai trò là người cổ vũ. Trong hành trang đi tìm công lý của nông dân người ta thấy thiếu thốn đủ thứ trong đó thiếu kiến thức pháp luật, thiếu sự đồng hành và gặp phải nhiều chướng ngại vật bởi lộ trình pháp lý chưa được khai thông. Tiếp cận công lý là một quyền con người trong nhà nước pháp quyền. Khi hành trình đến với công lý còn trở ngại thì rõ ràng nhà nước pháp quyền chưa rõ hình hài.
Trong vụ Vedan, người ta thấy sự năng nổ, nhiệt tình, có hiệu quả của các tổ chức hội đoàn như Hội Nông dân, Hội luật gia, luật sư...trong việc giúp đỡ người dân kiện Vedan.
Khi Hiệp hội siêu thị, Hội bảo vệ người tiêu dùng vào cuộc bằng phong trào tẩy chay sản phẩm Vedan, khuyến khích người tiêu dùng sử dụng quyền lực của người có tiền đi mua hàng hóa là quyền lựa chọn, quyền mua hay không mua, quyền tẩy chay... thì Vedan xuống nước chấp nhận bồi thường. Đây phải chăng là sự ngẫu nhiên hay vai trò của xã hội dân sự đã phát huy hiệu quả?
Vedan có "ngán" xã hội dân sự hay không chỉ họ mới biết nhưng với những gì xảy ra, chúng ta hoàn toàn có thể thấy xã hội dân sự hữu ích như thế nào.
Đã có thời chúng ta dè dặt với cụm từ "kinh tế thị trường", "nhà nước pháp quyền" và giờ đây là "xã hội dân sự". Những thứ trên tồn tại trong cuộc sống hôm nay không phải đơn thuần do ý chí chủ quan. Nhưng để thừa nhận nó ở một quốc gia với những hoàn cảnh và điều kiện không giống nhau là cả một quá trình từ nhận thức đến ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật đến tạo điều kiện cho nó phát triển như mong muốn.
Sự thận trọng bao giờ cũng cần thiết. Nhưng khi cuộc sống đã đòi hỏi bằng những biểu hiện cụ thể như vụ Vedan thì đối với "xã hội dân sự", chúng ta cần cho nó một sự chính danh.
4. Báo Sài gòn giải phóng có bài Liên quan đến sai phạm tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy (Vinashin): Bắt chủ tịch Công ty Công nghiệp tàu thủy Cái Lân. Bài báo phản ánh: Được sự phê chuẩn của Viện KSND tối cao, cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an vừa tống đạt quyết định khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt khám xét đối với ông Tô Nghiêm, 51 tuổi, Chủ tịch Công ty TNHH một thành viên Công nghiệp tàu thủy Cái Lân (thuộc Tập đoàn Vinashin), về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế và gây hậu quả nghiêm trọng.
Như vậy, đến nay trong vụ án xảy ra tại Vinashin, cơ quan điều tra đã khởi tố 7 bị can, bắt tạm giam 6 bị can và ra lệnh truy nã 1 bị can. Các bị can đều có hành vi cố ý làm trái, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Thanh niên Online có bài “Công dân không quốc tịch”. Bài báo phản ánh: Do hoàn cảnh ngang trái, nhiều người không có giấy khai sinh, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân... phải chấp nhận tình cảnh sống “lậu” và đành phải chịu lắm nỗi đắng cay.
Cuối năm 2001, anh Ôn Nghiệp Thanh (ngụ P.3, Q.11, TP.HCM) kết hôn cùng chị Từ Nghiệp Dưỡng. Cưới nhau đã 7 năm, anh chị vẫn không có con. Vào năm 2008, qua lời giới thiệu của người quen, chị Dưỡng lặn lội xuống Bệnh viện đa khoa Bến Lức (Long An) xin một bé gái mới sinh, con của cô N.T.M (quê ở Cà Mau) về làm con nuôi. Người mẹ trẻ chỉ đưa cho chị một giấy chứng sinh cùng tờ cam kết cho con được viết rất sơ sài và không có cơ quan chức năng nào chứng nhận. Với sự hiểu biết hạn chế về pháp luật, chị Dưỡng vui sướng bồng con về mà không yêu cầu làm thêm thủ tục nào.
Cuối năm 2009, bé hơn 1 tuổi, khi nộp đơn lên UBND P.3, Q.11 để làm giấy khai sinh thì anh Thanh mới té ngửa khi nghe cán bộ hộ tịch phường yêu cầu phải có giấy thỏa thuận cho con của người mẹ ruột mới làm thủ tục ra quyết định công nhận việc nuôi con nuôi. Giấy cho con của cô M. trước đây bị phường bác bỏ vì không hợp lệ và yêu cầu anh đi tìm chị M. để làm lại giấy thỏa thuận cho con theo quy định, nếu không được phải đăng báo tìm thông tin người mẹ ruột trong 3 kỳ liên tiếp.
Bỏ hết công việc làm ăn, lần theo địa chỉ cô M. ghi lại, anh Thanh lặn lội xuống tận quê của cô M. ở Cà Mau để tìm. Tuy nhiên, chính quyền địa phương tại đây cho biết không có ai tên N.T.M cả. Đến đây, anh Thanh mới mập mờ hiểu ra rằng cái tên N.T.M của người mẹ ruột chỉ là cái tên giả do cô ấy khai man vì sinh con ngoài ý muốn, và muốn che giấu thân phận. Anh nghĩ bây giờ mà đăng báo thì chắc gì đã tìm được vì mình đã trực tiếp đi tìm mà vẫn chưa ra. Thất vọng, anh đến Báo Thanh Niên xin được can thiệp để con anh có giấy khai sinh vì cháu sắp đến tuổi đi học.
Một trường hợp khác là Lưu Thị Xuân Phương (ngụ trên đường Bà Hom, Q.6, TP.HCM). Phương. Cha mẹ mất sớm, lên 8 tuổi, Phương lên TP.HCM giúp việc. Về sau này bị mất hết giấy tờ tùy thân và lại không biết chữ nên trở lại TP.HCM xin vào làm tại một cơ sở xe nhang. Nhiều lúc muốn chuyển sang nghề khác nhưng nếu đi làm công nhân đòi hỏi hồ sơ thì Phương hoàn toàn không có.
Năm 1993, Phương kết hôn và về ở với bố mẹ chồng. Nhờ chồng có hộ khẩu nên mới xin cho các con được đi học chứ không thì chắc cũng phải đi vào vòng luẩn quẩn của mẹ. Phương cho đến giờ vẫn “4 không”: không khai sinh, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, không đăng ký kết hôn. Nhiều lúc ngồi buồn Phương hay tâm sự: “Không có giấy khai sinh được ví như mình không sinh ra và không tồn tại. Cứ cái đà này, chết em khỏi cần làm giấy khai tử, mà có muốn chắc cũng không làm được”. Còn việc đi học, do giấy tờ bị thất lạc nên Phương cam chịu phận mù chữ.
Báo cũng có bài Những mảnh đời sống "lậu". Bài báo phản ánh về trường hợp của Tô Trịnh Xuân Hoàng, sinh năm 1989, tạm trú tại hẻm 339/79D Lê Văn Sỹ, P.13, Q.3, TP.HCM, hiện đang là sinh viên năm cuối trường Đại học Tài chính Marketing TP.HCM, dù kết quả học tập khá nhưng vì không có hộ khẩu và chứng minh nhân dân nên khi xin thực tập cuối khóa, không có nơi nào dám nhận em.
Em trai của Hoàng là Tô Trịnh Xuân Thịnh, sinh năm 1992, hiện đang học năm cuối tại một trường trung cấp nghề cũng rơi vào tình cảnh tương tự. Do hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, ba mẹ phải vất vả với gánh hàng ve chai nên lúc nào các em cũng rất mong muốn có một công việc phụ giúp cha mẹ. Hoàng và Thịnh rất nhiều lần tìm việc nhưng hầu như khi phỏng vấn, họ đều lắc đầu khi biết các em không có chứng minh nhân dân.
2. Báo Dân Việt có bài Một bản án, 1.560 xã viên thiệt thòi. Bài báo phản ánh: Bản án đúng - sai chúng tôi không bàn nhưng điều kiện thi hành án thì gây thiệt thòi lớn cho 1.560 xã viên.
Năm 1986, Ban Quản trị HTX Suối Hiệp 2 (Diên Khánh, Khánh Hoà) thỏa thuận mua 2ha đất vườn với giá 270.000 đồng của ông Chế Khắc Thiệu. Miếng đất này nguyên là của bà Huỳnh Thị Niệm - mẹ ông Thiệu, nhưng ở thời điểm mua bán, bà Niệm đã xuất cảnh trái phép sang Bỉ và giao mảnh vườn lại cho ông Thiệu quản lý. Kể từ đó, HTX quản lý, đóng thuế và thực hiện thủ tục cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất (năm 2005) đối với mảnh vườn này.
Đến năm 1996 bà Niệm về nước và kiện đòi lại khu vườn. Phiên toà sơ thẩm đầu tiên tuyên HTX phải trả cho bà Niệm 1/3 giá trị khu đất nói trên. Ông Chế Khắc Thiệu phải trả cho HTX 2/3 giá trị khu đất. Tuy nhiên cả bà Niệm lẫn HTX đều không đồng ý nên kháng cáo. Kể từ đó, trong suốt 14 năm, đã có 6 phiên tòa, 6 bản án được tuyên nhưng HTX và 1.560 xã viên vẫn không "tâm phục khẩu phục".
Bản án gần đây nhất là của Tòa án nhân dân Tối cao (ngày 19-3-2010). Bản án này tuyên buộc HTX trả lại cho bà Niệm khu đất vườn, buộc ông Thiệu trả lại cho HTX hơn 1,9 tỷ đồng và bà Niệm phải trả cho HTX hơn 121,9 triệu đồng tiền tài sản trên đất.
Xin nói thêm, khu vườn ngày xưa bây giờ là trụ sở của Ban chủ nhiệm HTX, là sân phơi, nhà kho của 1.560 xã viên HTX. Nó có giá trị thị trường khoảng 6 tỷ đồng - đấy là tài sản của cả HTX, trong đó cổ đông là 1.560 xã viên.
Bản án này rất khó thi hành án, không phải đối với HTX mà cả các bên liên quan. Vì lúc này ông Thiệu - người được tuyên phải trả cho HTX 1,9 tỷ đồng - đã xuất cảnh qua Bỉ nhiều năm nay, ông không có tài sản gì ở Việt Nam, cũng không có mặt trong phiên tòa.
Theo thông tin chúng tôi có được, không thể yêu cầu nước bạn thi hành án đối với ông Thiệu vì Việt Nam và Bỉ chưa ký kết hiệp định tương trợ tư pháp.
Hiện nay, HTX liên tục bị hối thúc giao trả đất cho bà Niệm, nếu không sẽ bị cưỡng chế thi hành án. Trong khi đó quyền lợi của HTX và 1.560 xã viên trong vụ án này không được đề cập.
Ông Lê Minh Lộc - Chủ nhiệm HTX, bức xúc: "Luật pháp đang bảo vệ quyền lợi cho gia đình bà Niệm nhưng còn quyền lợi của 1.560 xã viên chúng tôi thì sao, chẳng lẽ không đáng để quan tâm?".
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thừa phát lại ngại đi… bắt ghen. Bài báo phản ánh: Nhiều người “đặt hàng” thừa phát lại lập vi bằng về việc chồng (vợ) của mình ngoại tình nhưng thừa phát lại từ chối.
Tại sao thừa phát lại từ chối? Theo ông Quang, nếu làm không khéo thì việc bắt ghen sẽ giống như một hình thức theo dõi, xâm phạm đời tư của người khác.
Do “đặc thù” của việc lập chứng cứ ngoại tình, nếu muốn đi lập vi bằng thì thừa phát lại phải “đi hôm về khuya”. Khi đi, thừa phát lại cần có thư ký nghiệp vụ, cảnh sát khu vực, có thể cần thêm người làm chứng. Có thừa phát lại còn cho biết: “Nói thật, do chưa ai làm nên chúng tôi không dám nhận làm. Để coi… có văn phòng thừa phát lại nào lập vi bằng về việc này không, chúng tôi sẽ tham khảo rồi tính”.
Theo thừa phát lại Nguyễn Tiến Pháp, ông từ chối lập vi bằng về việc ngoại tình để làm căn cứ cho ly hôn vì theo ông là không cần thiết bởi Luật Hôn nhân và Gia đình có quy định: Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì tòa án quyết định cho ly hôn. “Như vậy, nếu muốn ly hôn thì có nhiều giải pháp êm thấm, đâu cần thiết phải lập vi bằng rồi làm cho ầm ĩ. Tòa án cũng đâu có đòi hỏi phải chứng minh rằng người chồng ngoại tình thì vợ mới được ly hôn” - ông Pháp nói.
4. Diễn đàn VNR500 có bài Xin ý kiến doanh nghiệp, Bộ ngành đừng “chơi khó”. Bài báo phản ánh: Chất lượng của việc xin ý kiến doanh nghiệp trong việc xây dựng văn bản pháp luật cần phải xem lại. Bởi, khi văn hóa đối thoại và tư duy phục vụ của các cơ quan nhà nước chưa được đổi mới thì khó chờ đợi một sự thay đổi mang tính tự nguyện của các Bộ. Thực tế, thời qua có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) được ban hành không phản ánh đúng nhu cầu của xã hội, gây lãng phí cũng như ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước.
Việc lấy ý kiến DN có chất lượng, phản ánh đúng nhu cầu của DN thì chính DN sẽ chủ động hơn trong thực thi. Cơ quan nhà nước sẽ dễ dàng hơn với công tác quản lý của mình. Hiệu quả công tác xây dựng và thực thi pháp luật cũng sẽ cao hơn. Song, việc này sẽ khó bởi hiện nay các Bộ vẫn còn nặng tư duy quản lý và kiểm soát thay vì đối thoại và phục vụ DN. Điều đó càng được tạo điều kiện khi các Bộ được giao soạn thảo các luật và việc "khó" tiếp thu ý kiến của DN là điều dễ hiểu vì có sự va chạm lợi ích giữa các bên. Các Bộ hẳn sẽ khó từ bỏ quyền lợi của mình nên việc đưa các quy định có lợi cho quản lý và từ chối các ý kiến đóng góp có lợi cho DN là chuyện bình thường và đây là thực tế phải thừa nhận để có cách giải quyết.
Biện pháp tốt nhất là phải thiết lập được một hệ thống thể chế giám sát bên ngoài, như tham vấn các bên có liên quan hay có cơ quan độc lập đánh giá, thẩm định lại nội dung chính sách...Như vậy mới kiểm soát được lợi ích nhóm có thể len lỏi vào các văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng điều này lại chưa được tính đến trong quá trình hoạch định cũng như thực thi pháp luật.