Trong buổi sáng ngày 02/10/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo điện tử Vietnamnet phản ánh: Tại buổi họp báo Chính phủ trưa nay (1/10), Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho hay, Chính phủ vẫn chưa nhận được đơn xin từ chức của ông Đoàn Văn Kiển. Ngay khi nhận được đơn, Văn phòng Chính phủ sẽ chuyển tới Thủ tướng.
Theo tin từ Tiền Phong, hôm qua, 30/9, ông Đoàn Văn Kiển, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam (TKV), đã có đơn gửi Thủ tướng xin từ chức. Ông Kiển đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, buông lỏng quản lý, trực tiếp ký quyết định hoặc đề nghị cấp dưới ký quyết định cho Công ty cổ phần đầu tư thương mại và dịch vụ, nơi em trai làm Phó Giám đốc, được khai thác than không có giấy phép. Ngoài ra, ông Kiển còn vi phạm Nghị định của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, buông lỏng cho Công ty cổ phần phát triển công nghiệp Quảng Ninh khai thác, chế biến và tiêu thụ hàng triệu tấn than trái phép.
Về việc xem xét đơn xin từ chức của ông Kiển, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Phúc cho hay: "Kỷ luật cán bộ phải được làm theo một quy trình chặt chẽ, theo đúng Luật cán bộ, công chức". Bộ trưởng giải thích, ông Đoàn Văn Kiển là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.
Ngày 4/9 vừa qua, ông Đoàn Văn Kiển đã nhận quyết định kỷ luật cảnh cáo về Đảng của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng. Ban cán sự Đảng của Chính phủ cũng thống nhất với kết luận trên. Nhưng để kỷ luật thôi việc một cán bộ thì phải làm đúng quy trình từ cơ sở, thành lập hội đồng kỷ luật.. "Tất nhiên, trong các trường hợp kỷ luật Đảng viên, bao giờ cũng có sự thống nhất cao giữa các cơ quan của Đảng và chính quyền", ông Phúc giải thích. Bộ trưởng khẳng định, vấn đề xem xét thôi việc Chủ tịch TKV sẽ được giải quyết nhanh chóng, đúng mức độ, có lý, có tình.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Thẩm định giá bất động sản không chính xác là một trong những nguyên nhân khiến thị trường nóng, lạnh thất thường. Trong bối cảnh giá bất động sản (BĐS) biến động, thẩm định giá sẽ là phương tiện xác định giá trị thực, định hướng thị trường BĐS trong tương lai. Tuy nhiên, vai trò mờ nhạt của nhiều tổ chức thẩm định giá khiến nhà đầu tư không thể nhận diện được giá nhà đất.
Hiện nay, cả nước có khoảng 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thẩm định giá và 3 công ty thẩm định giá nước ngoài gồm Công ty CB Richard Ellis Việt Nam (CBRE), Collier International, Công ty TNHH Savills Việt Nam. Tuy nhiên, các công ty này gặp rất nhiều khó khăn khi thẩm định giá BĐS. Trao đổi về việc thẩm định giá nhà đất, thạc sĩ Phạm Văn Bình, Phó trưởng môn định giá tài sản (Học viện Tài chính), cho biết: Muốn định giá BĐS chính xác, thẩm định viên phải có đầy đủ thông tin về thị trường cùng hàng loạt yếu tố liên quan như tình trạng pháp lý, quy hoạch, nghĩa vụ thuế của người sở hữu... Trong khi đó, việc tiếp cận các thông tin liên quan đến BĐS gần như chỉ là “sân chơi” của một số cơ quan quản lý và những doanh nghiệp lớn.
Nhiều người cho rằng hiện tượng nhà đầu tư xếp hàng mua căn hộ hay giá nhà đất tại các dự án liên tục bị đẩy lên cao cho thấy có sự thao túng về giá của giới đầu cơ. Những động thái làm giá của chủ dự án không phải giới thẩm định giá không biết nhưng dường như không có một cảnh báo nào từ các tổ chức thẩm định giá để nhà đầu tư tham vấn.
Để minh bạch thị trường, Nhà nước quy định tất cả các giao dịch nhà đất phải thực hiện qua sàn giao dịch. Nhiều nhà đầu tư kỳ vọng quy định này sẽ giúp họ tiếp cận giá BĐS chính xác. Các tổ chức thẩm định giá sẽ định giá nhà đất dễ dàng hơn. Thế nhưng, số liệu thống kê mới nhất của Cục Quản lý nhà và thị trường BĐS cho thấy trong 8 tháng qua chỉ có hơn 3.000 giao dịch thông qua sàn, chiếm 15% - 20% giao dịch toàn thị trường. Điều đó cho thấy hoạt động sàn giao dịch BĐS chưa dừng lại ở hình thức, chưa thực hiện được mục đích minh bạch giá cả thị trường. Mọi thông tin chính xác về giá cả giao dịch BĐS chỉ có bên mua và bên bán biết cụ thể, bởi phần lớn các phi vụ mua – bán nhà đất là giao dịch ngầm. Trong khi giá nhà đất do các tổ chức thẩm định giá đưa ra chỉ ước tính theo từng khu vực, chưa cụ thể hóa được giá mua - bán căn hộ hay giá đất nền tại các dự án.
Thực tế cho thấy việc định giá đất để tính thuế là vấn đề luôn gây ra những tranh cãi về lợi ích giữa các bên có liên quan, độ chính xác của việc định giá đất sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới số thuế phải nộp cho Nhà nước. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng không thể làm cho thị trường minh bạch ngay bằng cách mạnh tay đánh thuế. Điều quan trọng hiện nay là Nhà nước cần quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ BĐS tiếp cận, thu thập thông tin và thống kê giao dịch trên thị trường. Đặc biệt là nâng cấp hoạt động của các tổ chức thẩm định giá vì hoạt động này tác động đến sự hình thành giá bất động sản, giúp giao dịch trên thị trường trở nên lành mạnh, ổn định, tạo môi trường thiện cảm với nhà đầu tư. Mặt khác, Luật Thuế nhà đất được đưa vào áp dụng trong thời gian tới. Khi đó, vai trò của hoạt động thẩm định giá càng trở nên rõ nét, góp phần tạo sự công bằng và bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
3. Báo Lao động phản ánh: Kế hoạch 100% tiến sĩ của Hà Nội đã được sửa lại, mặc dù đã được Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo ký ngày 24.8 vừa qua. Thế là những góp ý từ dư luận đã có tác động đến tư duy bằng cấp trong chiến lược xây dựng cán bộ, công chức của chính quyền thành phố Hà Nội.
Dân không chỉ cần một chính quyền có nhiều người học cao, nhiều bằng cấp, mà còn cần một chính quyền tốt, tạo ra những sản phẩm xã hội có chất lượng. Dân cũng không chỉ cần những cán bộ nhà nước có bằng tiến sĩ, mà còn cần những cán bộ có đạo đức, phục vụ dân tận tụy, có trách nhiệm với công việc và có lòng thương dân.
Việt Nam có nhiều tiến sĩ, giáo sư thuộc loại nhất khu vực. Nhưng VN có ít công trình khoa học và các sản phẩm công nghệ nhất, phần lớn đều phải nhập khẩu. Vậy thì tiến sĩ nhiều để làm gì? Đất nước này không cần nhiều bằng cấp để trang sức cho một bộ phận cán bộ chính quyền hay các nhà khoa học giả danh, mà cần có những con người sáng tạo, làm nên những sản phẩm phục vụ cho cuộc sống, xuất khẩu ra khắp thế giới. Các nước Nhật Bản, Hàn Quốc có hàng ngàn thương hiệu về các sản phẩm khác nhau. Việt Nam cố gắng phấn đấu có một vài thương hiệu như họ cũng tự hào lắm rồi.
Những bước cải cách hành chính tích cực đã thay đổi phần nào chất lượng của nền hành chính công. Cộng đồng doanh nghiệp, người dân, các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn sẽ có những đột phá xuất sắc hơn để nền hành chính Việt Nam ngang vai với các quốc gia tiến bộ.
Hãy loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, hành dân và cản bước phát triển, tìm cách thực hiện điều đó sẽ thực tế hơn là đặt mục tiêu bằng cấp. Những gì mà cuộc sống đang cần, người dân đang mong muốn cần phải được đáp ứng. Được thụ hưởng một nền hành chính công tiên tiến, tôn trọng công dân là một nỗi khao khát trong lòng dân chúng.
Một điều đáng ghi nhận là Sở Nội vụ Hà Nội đã lắng nghe dư luận và có sự thay đổi tư duy bằng cấp trong việc quy hoạch cán bộ. Những người có trách nhiệm soạn thảo kế hoạch thực hiện chiến lược cán bộ, công chức khối chính quyền thành phố từ nay đến năm 2020 đã không bảo thủ, mà sẵn sàng tiếp thu ý kiến trái chiều.
Nêu ra một quan điểm chưa thuyết phục và có thể gặp nhiều ý kiến phản biện từ xã hội là việc hết sức bình thường. Nhưng người đưa ra quan điểm biết xử lý, chọn lọc thông tin từ dư luận để thay đổi chính kiến của mình cho phù hợp là điều hết sức quý hoá và cần thiết.
4. Báo Dân trí phản ánh: Trong Hội thảo “Thách thức về già hoá dân số ở Việt Nam” do Tổng cục dân số - Kế hoạch hóa gia đình diễn ra sáng 1/10 tại Hà Nội, PGS-TS Nguyễn Đình Cử - Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội - Trường ĐH Kinh tế quốc dân cho biết: Nhịp độ già hoá ở nước ta trong thập kỷ 90 đã nhanh hơn, mạnh hơn nhiều so với thập kỷ 80. Mức sinh đang ngày càng giảm sẽ thúc đẩy quá trình già hoá dân số trong khoảng 10-20 năm tới.
Theo nhận định của TS. Nguyễn Quốc Anh - Giám đốc Trung tâm Thông tin - Tư liệu dân số - những đánh giá trước đây cho thấy Việt Nam sẽ già hoá dân số vào năm 2015, nhưng thực tế hiện nay lại thể hiện dân số nước ta sẽ già hoá vào năm 2010. Căn cứ số liệu của điều tra biến động dân số năm 2008, tỷ lệ người 60 tuổi trở lên đã là 9,9%; tỷ lệ này ở người 65 tuổi trở lên là 7,5% (cao hơn quy định dân số già là trên 7%).
Qua phân tích của TS Nguyễn Đình Cử, hiện nay có hơn 80% người cao tuổi Việt Nam sống ở nông thôn. Trong đó, chỉ có khoảng 16-17% hưởng lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% các cụ hưởng trợ cấp người có công với đất nước. Một phần lớn còn lại tự lao động kiếm sống hoặc nhờ sự hỗ trợ của con cháu và gia đình. Trong khi đó, ở nông thôn hiện nay ruộng đất không còn nhiều; năng suất, thu nhập thấp, ít có tiết kiệm phòng khi bất trắc tuổi già.
PGS-TS Phạm Thắng - Viện trưởng Viện Lão khoa quốc gia - nhận định: Xu hướng số người cao tuổi tăng lên sẽ làm tăng gánh nặng kinh tế - xã hội để duy trì ổn định cuộc sống khoẻ mạnh của họ. Nhu cầu chăm sóc người cao tuổi (y tế, xã hội, tài chính) sẽ là một thách thức lớn. Người cao tuổi có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn, trong khi chi phí cho đối tượng này cũng cao gấp 7-8 lần so với trẻ em.
Nói như vậy để thấy rằng trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và cộng đồng đối với người cao tuổi là rất lớn. Theo khuyến nghị của đại diện lãnh đạo trung tâm thông tin - tư liệu dân số, bên cạnh việc sớm ban hành Luật về người cao tuổi, cần thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội nhân thọ ở nông thôn, đẩy mạnh cải cách bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, cần thực hiện các hoạt động phù hợp với hoàn cảnh địa phương, tích cực triển khai các dự án thí điểm và tăng cường các mô hình bảo hiểm xã hội đa dạng.
Việc khuyến khích mô hình “đất đai là bảo hiểm tuổi già” rất khả thi vì coi sở hữu đất đai là khoản thế chấp. Với mô hình này, công dân cao tuổi tự nguyện thế chấp nhà của họ cho Chính phủ hoặc các tổ chức tài chính để được vay tiền. Hàng tháng họ sẽ nhận được khoản thanh toán giúp cải thiện cuộc sống. Sau khi những người này qua đời, căn nhà có thể được giải quyết theo hợp đồng định cư ban đầu hoặc con cháu có thể sử dụng nó để thanh toán các khoản vay.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Nhà sản xuất hàng Việt cần luật hiệp hội. Bài báo phản ánh: Trên góc độ nhà sản xuất, trong tham luận tại đại hội Mặt trận tổ quốc, ông Lý Ngọc Minh, giám đốc công ty THHH Minh Long 1 phân tích vai trò chủ động doanh nghiệp để tạo hấp lực với người dùng. Ông cũng nhấn mạnh đến vai trò hiệp hội được quy định bởi luật Hiệp hội sẽ tạo môi trường cạnh tranh hoàn chỉnh, bảo đảm sự phát triển lành mạnh của thị trường. SGTT trích giới thiệu tham luận này.
Hàng Nhật sở dĩ được yêu chuộng là nhờ doanh nghiệp Nhật sản xuất hàng hoá có chất lượng rất tốt, do dân Nhật kỹ tính. Đây là một sự giao thoa hai bên cùng có lợi, người tiêu dùng có hàng tốt còn doanh nghiệp có cơ hội bán được hàng, đất nước được phát triển. Về điểm này tôi thấy dân Việt Nam mình hơi giống dân Nhật trong kỹ tính và sành điệu khi mua hàng. Tôi nghĩ điều này rất tốt cho sản xuất, tốt cho doanh nghiệp bán hàng nếu nhà sản xuất và doanh nghiệp bán hàng biết nắm bắt cơ hội. Ví như có người biết thưởng thức món ăn, mà mình nấu không ngon thì lỗi tại mình. Bằng chứng là hàng có chất lượng cao vẫn bán tốt hơn dù giá có cao.
Tôi nghĩ ban đầu người tiêu dùng có thể thông cảm với điều kiện máy móc thiết bị trong nước chưa có điều kiện đầu tư đúng mức, nhưng nhà sản xuất không thể vin cớ đó để sản xuất sản phẩm kém chất lượng hoặc có chất độc hại làm ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng. Là doanh nghiệp, chỉ cần có cái tâm trong kinh doanh, có cái nhìn phóng khoáng hơn, có lòng đam mê nghề nghiệp, sẽ thành công trong đổi mới kiểu dáng phù hợp với trào lưu, sản xuất nhiều mặt hàng hơn, đẹp và tốt hơn, hoặc đổi mới phong cách phục vụ hợp lý và nhanh hơn, hay đổi mới công nghệ để có tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, hạ giá thành. Muốn vậy, không phải có vốn là được mà cần ý tưởng mới, chịu khó, kiên nhẫn và luôn học hỏi. Muốn có thương hiệu tốt thì phải coi các thương hiệu nổi tiếng, họ làm như thế nào và học hỏi những điều hay mà mình có thể làm được, muốn biết trào lưu phát triển xu hướng tiêu dùng thì hãy đến hội chợ, quan sát, phân tích và tổng hợp lại, để nắm bắt nhu cầu của người dùng.
Trao đổi với tiến sĩ Lê Đăng Doanh, tôi được biết ở nước ngoài có luật Hiệp hội, để khi có tranh chấp về hàng giả, hàng nhái, bán phá giá, doanh nghiệp nhờ hiệp hội can thiệp, thương lượng hoặc thoả thuận với nhau, trước khi nhờ đến pháp luật. Hiệp hội cũng sẽ tổ chức nâng cấp ngành nghề. Ví dụ: thực phẩm chế biến theo công nghệ nào tốt hiện nay, công nghệ nào không sinh độc tố, hoá chất bảo quản nào được cho phép dùng, hoá chất nào không được có trong thực phẩm v.v... Đồng thời hiệp hội cũng sẽ thông báo những rào cản thương mại cho doanh nghiệp biết và những ưu thế cạnh tranh hiện nay để doanh nghiệp có hiểu biết trong cạnh tranh thương mại. Từ những lợi ích thiết thực như vậy, doanh nghiệp sẽ được khuyến khích phát triển dựa trên cạnh tranh lành mạnh, để không bị loại khỏi hiệp hội, mất đi chỗ dựa. Một khi có luật hiệp hội thì các cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước hoặc pháp luật cũng nhẹ đi rất nhiều vì không phải đi xử những việc nhỏ linh tinh mà pháp luật rất khó quy định một cách chính xác, chi tiết cụ thể từng ngành nghề.
Hiện nay Nhà nước chỉ mới cho phép thành lập hiệp hội nhưng chưa có luật hiệp hội. Tôi nghĩ nên có đề án xây dựng luật hiệp hội, điều kiện tiền đề để phục vụ tốt cho chủ trương người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam sớm đi vào cuộc sống.
2. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Để khiếu kiện đông người vào khuôn khổ pháp luật. Bài báo phản ánh: Gần đây, tình trạng KN-TC đông người đã diễn ra trên diện rộng ở nhiều địa phương như Thái Bình, Nam Định, Hà Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội, Vĩnh Phúc, TPHCM, Bến Tre, Sóc Trăng, An Giang... Nội dung KN-TC chủ yếu tập trung vào việc thực hiện chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, tranh chấp đất đai, tố cáo cán bộ (nhất là cán bộ ở cấp cơ sở) vi phạm pháp luật, mất dân chủ, tham nhũng, cố ý làm trái chính sách, pháp luật…
Tình trạng này gây phức tạp về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, có lúc quá khích đã dẫn đến xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự người thi hành công vụ, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhiều nơi KN-TC đông người trở thành những “điểm nóng”, vô hiệu hóa sự quản lý, điều hành của chính quyền, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Tranh chấp dân sự và khiếu kiện của dân do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về chính sách, pháp luật chưa hoàn chỉnh và một số cán bộ chính quyền các cấp có những khuyết điểm, sai phạm. Nhưng nguyên nhân trực tiếp gây ra những cuộc khiếu kiện vượt cấp, đông người, có vụ mang tính kích động là do một số chính quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc tiếp nhận, giải quyết kịp thời các KN-TC của người dân; cán bộ giải quyết nhiều vụ việc chậm, chưa nghiêm túc, thấu đáo, chưa đúng chính sách, pháp luật làm cho người dân bất bình; chưa làm tốt việc vận động, giải thích, hướng dẫn nhân dân thực hiện việc KN-TC một cách có trật tự, đúng chỗ, đúng pháp luật; chưa kiên quyết xử lý, trừng trị những kẻ cố tình gây rối, coi thường và chống đối pháp luật.
Trong những người tham gia khiếu kiện, có những người khiếu tố đúng, mong muốn được pháp luật giải quyết công minh; đồng thời có một số người mặc dù tranh chấp liên quan đến mình đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý đúng pháp luật nhưng vì thiếu hiểu biết hoặc vì cố chấp vẫn cố tình khiếu nại kéo dài. Ngoài ra, một số kẻ xấu lợi dụng KN-TC để kích động nhằm “đục nước béo cò” tìm kiếm lợi ích riêng. Một số ít đối tượng cơ hội chính trị cũng nhân dịp này tìm mọi cách kích động gây rối, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Xét về tính chất, hiện tượng, KN-TC đông người là hiện tượng xã hội vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, đây là phương thức để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, là kênh thông tin quan trọng giúp Đảng và Nhà nước biết những vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, phát hiện ra những yếu kém, tồn tại, bất cập của mình trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhà nước, từ đó có biện pháp xử lý, chấn chỉnh và hoàn thiện. Về mặt tiêu cực, đây là tình trạng vi phạm pháp luật KN-TC, lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân, gây rối trật tự công cộng, làm mất ổn định chính trị - xã hội, làm suy giảm lòng tin và uy tín của Đảng và Nhà nước, dễ bị kẻ địch lợi dụng để vu cáo ta về nhân quyền…
Để giải quyết một vụ KN-TC đông người, nhất là những vụ việc trở thành “điểm nóng”, phải áp dụng đồng thời nhiều giải pháp. Hình thức, mức độ, phương pháp áp dụng những giải pháp nêu trên tùy theo tính chất, mức độ phức tạp của từng vụ việc cụ thể, trong đó giải pháp điều chỉnh bằng pháp luật có vai trò then chốt, quyết định.
Tại TPHCM, bài học kinh nghiệm trong việc giải quyết KN-TC đông người chính là phải tập trung giải quyết nhanh các nội dung KN-TC đúng pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và kiên quyết xử lý cán bộ, công chức sai phạm; hạn chế đến mức thấp nhất việc phát sinh các vụ việc KN-TC đông người phức tạp từ cơ sở. Bên cạnh đó, cần kết hợp đồng bộ và nhuần nhuyễn các biện pháp giáo dục, thuyết phục với biện pháp hành chính, kể cả biện pháp hình sự khi cần thiết; đồng thời phải kiên quyết xử lý đối với những trường hợp người KN-TC cố ý vi phạm pháp luật. Đối với những vụ việc đã có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ hoặc kết luận giải quyết của các bộ - ngành chức năng của Trung ương, có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật của UBND TP thì Chủ tịch UBND các quận - huyện phải khẩn trương tổ chức thực hiện dứt điểm.
Trong trường hợp nội dung KN-TC có cơ sở thì Tổ Công tác phối hợp xử lý KN-TC tham mưu, đề xuất UBND TP chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan tự khắc phục, sửa chữa những sai sót trong thời hạn do Tổ trưởng Tổ Công tác ấn định hoặc báo cáo, kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc thay đổi, hủy bỏ các biện pháp, các quyết định giải quyết trước đó; kết luận về trách nhiệm và hình thức xử lý đối với cán bộ, công chức, cơ quan Nhà nước có sai phạm; quyết định việc công bố những trường hợp điển hình trên các phương tiện thông tin đại chúng để có tác dụng giáo dục và phòng ngừa.
Trong bối cảnh chúng ta đang mở rộng dân chủ XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền thì vấn đề đặt ra là càng phải có những biện pháp giải quyết phù hợp để đưa loại hình khiếu nại, tố cáo này vào trật tự khuôn khổ pháp luật.