I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo An ninh Thủ đô phản ánh: Vào đêm 17-7, bão số 1 đã đổ bộ vào các tỉnh từ Hải Phòng đến Thái Bình với cường độ cấp 9-10, giật cấp 11-12. Sau đó, bão số 1 tiếp tục đi sâu vào đất liền gây mưa rào và giông trên diện rộng các tỉnh nam đồng bằng Bắc bộ như Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hòa Bình... và suy yếu thành áp thấp nhiệt đới vào sáng sớm 18-7. Tuy nhiên, lượng mưa không quá lớn như dự báo ban đầu của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương.
Bão số 1 đổ bộ đã khiến 1 người chết khi tắm biển ở Thanh Hóa và 6 ngư dân bị mất tích ở khu vực quần đảo Hoàng Sa. Bão số 1 cũng làm 303 nhà bị tốc mái (Quảng Ninh 200; Hải Phòng 103); 27 tàu bị đắm, bị sóng đánh vỡ; 13 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị vỡ và 20 lồng bè bị cuốn trôi ở Quảng Ninh; 34 tàu của tỉnh Quảng Ninh bị trôi.
2. Báo Người lao động phản ánh: Trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN tại Mỹ, TS Richard Cronin, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Henry Stimson - một cơ quan nghiên cứu có trụ sở tại Washington - khẳng định VN đang ngày càng năng động và quan trọng trong khu vực. “VN đang nằm ở vị trí trung tâm trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á” - TS Cronin nói.
Từng có mặt ở VN trong những năm chiến tranh và chứng kiến sự đổi thay trong quan hệ Mỹ-Việt, TS Cronin bày tỏ sự vui mừng về bước phát triển mà mối quan hệ này đã đạt được. TS Cronin khẳng định VN và Mỹ có những lợi ích chung, không chỉ về thương mại, kinh tế mà còn về an ninh và ổn định trong khu vực để có thể hợp tác với nhau.
3. Báo Lao động phản ánh: Sau rất nhiều chờ đợi, lãi suất huy động VND trong tuần qua tiếp tục chứng kiến nhiều biến động theo xu hướng giảm, với việc đa phần các NHTM đang đưa lãi suất về quanh mức 11,2%/năm. Diễn biến này đưa mức lãi suất trung bình chung của 36 NHTM về mức 11,09%/năm với lãi suất cao nhất thuộc về các kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng – 11,19%/năm.
Các kêu gọi của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) đang mang lại các tín hiệu giảm lãi suất tích cực ở hầu hết các NHTM và các mức giảm được thực hiện ở hầu hết các kỳ hạn gửi tiền. Ngoài lãi suất hai kỳ hạn 6 và 12 tháng giữ ở gần mức 11,2%/năm, lãi suất của hầu hết các kỳ hạn dài từ 13 tháng đến 36 tháng đang có mức lãi suất trung bình 11,03%/năm. Vai trò định hướng và dẫn dắt thị trường tiếp tục được các NHTM quy mô lớn thể hiện với việc Vietcombank, BIDV hay Vietinbank giữ lãi suất huy động VND dao động trong khoảng 11-11,2%/năm.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử VOH có bài Cấp giấy chứng nhận quốc tịch Việt Nam cho gần 300 người Campuchia. Bài báo phản ánh: Thực hiện quyết định số 559 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sáng nay 16/07, Sở Tư pháp Thành phố đã tổ chức lễ trao giấy chứng nhận nhập quốc tịch Việt Nam cho 287 người Campuchia hiện đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi được cấp giấy chứng nhận nhập quốc tịch Việt Nam, 287 cá nhân này chính thức trở thành công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được hưởng đầy đủ quyền và thực hiện nghĩa vụ công dân trước nhà nước, cộng đồng dân cư, cùng chung sức xây dựng Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Đây là kết quả của quá trình làm việc và sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở Tư pháp, Sở Ngoại Vụ, Công an Thành phố cùng với các cơ quan trung ương và đại diện Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tỵ nạn.
2. Báo An ninh Thủ đô có bài Vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên gia tăng. Bài báo phản ánh: Qua công tác giải quyết, xét xử các loại án của ngành Tòa án nhân dân từ đầu năm 2010 đến nay cho thấy, tình hình tội phạm trong thời gian qua nhìn chung có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, các tội phạm về ma túy, mại dâm, gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích, trộm cắp và cướp giật tài sản... lại tăng hơn cùng kỳ năm trước. Tội phạm về kinh tế vẫn diễn biến phức tạp, phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Tình hình tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, một số vụ án có đông người tham gia và gây thất thoát lớn đến tài sản Nhà nước... Một vấn đề nổi lên trong thời gian qua khiến nhiều người rất quan tâm, đó là tình trạng vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên gia tăng. Theo thống kê chưa đầy đủ, có trên 60% người phạm tội trong độ tuổi từ 15-30. Cá biệt có một số vụ án nghiêm trọng mà người phạm tội dưới 15 tuổi. Từ thực tế này cho thấy cần có sự phối hợp giáo dục, quản lý chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và các cơ quan đoàn thể đối với thanh thiếu niên. Mặt khác, việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cũng rất cần nghiêm khắc, kịp thời để vừa có tính răn đe, vừa có ý nghĩa phòng ngừa chung.
3. Báo điện tử Đất Việt có bài “Phát canh thu tô” - sơ hở tại luật! Bài báo phản ánh: “Phát canh thu tô” về mặt thực tiễn, không nơi này cũng nơi nọ đang có. Cái gốc của vấn đề do pháp luật và chính sách có những điểm không phù hợp hoặc có kẻ hở. Trường hợp điển hình là thuê đất nông nghiệp của nhà nước giá rẻ rồi cho thuê lại giá cao như bài loạt bài của NTNN đã nêu và trường hợp đất đai và tài sản của Công ty Du lịch Tiền Giang bán như cho tư nhân nước ngoài là những điển hình về sai phạm và lợi dụng luật pháp để làm sai. Nhưng người bị thiệt hại sau cùng, nặng nề là nông dân, nhà nước. Tuy nhiên, tìm ai sai để xử lý trong hai trường hợp trên là không dễ và vụ việc cũng dễ chìm xuồng. Nhiều nông trường quốc doanh và nhiều hợp tác xã từng lợi dụng "Khoán 10" để phát canh thu tô. Ông Trương Đình Tuyển khi làm Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An đã từng biết và từng xử lý vấn đề này. Vấn đề có tính nền tảng là quyền sở hữu đất của công dân không được thừa nhận, vì vậy trong thực tế có nhiều thửa đất không do dân làm chủ nên ai làm gì mặc ai. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai trên một thửa rộng hơn 330.000km2 bằng hệ thống pháp luật, nghị định, thông tư và quy định của Quốc hội, Chính phủ, các bộ - ngành, UBND tỉnh, huyện, xã… và với một số dự án, trường hợp cụ thể còn phải qua các cấp uỷ đảng địa phương chỉ đạo.
Trước cải cách hành chính có đến trên 700 văn bản quy định, hướng dẫn thi hành luật đất đai mà thi hành không thông thoáng. Ta hình dung hai tay ôm một vật (là quyền sở hữu) mà hai bàn tay không câu giáp nhau thì hở! Chính vì sợ bị hở nên phải huy động bộ máy quá đông, mà ai cũng có quyền (sở hữu), với dày đặc những văn bản quy định để bảo đảm cái quyền ấy nên thành rối rắm, chồng chéo, căng kéo nhau nhưng lại hở như chín cửa sông. Điển hình là vụ cho công ty nước ngoài thuê đất dọc biên giới để trồng rừng mà Quốc hội mới rồi phát hiện. Thì ra quản lý đất là do Bộ Tài nguyên - Môi trường, quản lý đất có rừng là Bộ NN&PTNT, quyền cho thuê đất là của UBND tỉnh. Vậy nên 10 tỉnh ký cho thuê trên 30 nghìn ha mà hai bộ không biết, Chính phủ hỏi, Bộ NN&PTNT phải đi điều tra mới có báo cáo.
Hiện nay, có tình trạng cho thuê đất, đúng luật, nhưng chưa có quy định cụ thể nên dễ nảy sinh "phát canh thu tô" chuyên nghiệp. Lợi dụng nhận đất khai hoang, nhiều người, nhất là người có quyền thế nhận đất rồi để đó, tìm dân nghèo không đất cho mượn khai hoang từ 2 - 3 năm rồi yêu cầu trả lại để cho thuê (thu tô) hoặc bán mà không tốn đồng nào để đầu tư vào đất. Lợi dụng "khoán", nhiều cơ quan, đơn vị giữ đất ruộng để cho thuê "thu tô", giữ đất đô thị (hoặc đất phi nông nghiệp) cho thuê gọi là "hợp tác kinh doanh"v.v… Nghĩa là muôn hình vạn trạng, thiên biến vạn hoá, nhà nước không thể thực hiện trọn vẹn cái quyền sở hữu khổng lồ về quản lý đất đai cả nước nếu không điều chỉnh những vấn đề có tính quan điểm, luật pháp, chính sách và cơ chế vận hành của hệ thống. Và, trên hết là nhiều nông dân cảm thấy mình theo Đảng dưới ngọn cờ "người cày có ruộng" đã 80 năm mà vẫn chưa có quyền sở hữu ruộng đất! Mọi sơ hở, bất cập trong quản lý của nhà nước, vận hành cơ chế cũng chính từ ở đây mà ra.
Báo cũng có bài: Pháp luật và môi trường. Bài báo phản ánh: Con số thống kê mới nhất về tình hình tội phạm của Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm, Bộ Công an, cho thấy một bức tranh không mấy sáng sủa. Hơn 300 băng nhóm liên quan đến hoạt động đâm thuê, chém mướn đang tồn tại. Tình trạng tội phạm sử dụng vũ khí nóng, vũ khí tự tạo và các loại hung khí gây án tiếp tục diễn ra ở nhiều địa phương. Đã có đến 35 vụ mà các băng nhóm tội phạm sử dụng súng để thanh toán, trả thù, truy sát lẫn nhau. Trên lĩnh vực thị trường tài chính, tiền tệ cũng xuất hiện nhiều vụ việc cán bộ Nhà nước thông đồng với đối tượng bên ngoài chiếm đoạt tiền của Nhà nước, trong đó cơ quan chức năng phát hiện được 31 vụ nhưng tổng thiệt hại đã lên đến hơn 1.000 tỷ đồng… Tình hình thật đáng lo ngại! Tuy nhiên, có lẽ con số khiến nhiều người lo lắng hơn cả là cơ quan chức năng đã phát hiện đến hơn 3.000 vụ việc, tội phạm vi phạm pháp luật về môi trường tăng đến 275% so với cùng kỳ năm trước. Theo đó, có 1.034 doanh nghiệp, 2.096 cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. 62 vụ đã bị khởi tố với hơn 106 bị can. Thật ra, tội phạm về môi trường đang gia tăng đến mức báo động không phải là chuyện “cây kim trong bọc lâu ngày lòi ra”. Bởi hầu như không ngày nào mà báo chí không có thông tin về tình trạng xâm hại môi trường. Do vậy, con số hơn 3.000 vụ việc mà cơ quan cảnh sát đã nêu không phải là con số kinh hoàng. Trên thực tế số vụ việc vi phạm có lẽ còn cao hơn rất nhiều nhưng vì nhiều lý do chưa bị phát hiện. Điều đáng lo là bên cạnh số vụ việc vi phạm trên, dù không thấy con số thiệt hại tính bằng tiền, nhưng ai cũng biết mối nguy hại vô cùng lớn mà chúng ta đang gánh chịu. Thiệt hại đó không chỉ dừng lại ở kinh tế mà đó còn là sức khoẻ cộng đồng và lòng tin của nhân dân. Nó cũng cho thấy một nền kinh tế phát triển thiếu tính bền vững khi một bộ phận không nhỏ cá nhân, doanh nghiệp đã vì lợi nhuận mà xem nhẹ sự trường tồn của môi trường. 62 vụ việc bị khởi tố so với con số 3.000 vụ việc đã bị phát hiện lại tiềm ẩn một mối lo khác. Đó là sự thiếu cương quyết của pháp luật đối với loại tội phạm vô cùng nguy hiểm này. Nó khiến ta liên tưởng đến vụ Vedan, một vụ vi phạm pháp luật về môi trường điển hình đã bị phát hiện quả tang nhưng chỉ bị xử lý hành chính.
Hai năm qua, những người đã cố tình vi phạm pháp luật đó không chỉ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật mà còn mặc sức kỳ kèo trả giá với những người nông dân đáng thương về số tiền bồi thường. Hay một Hào Dương (TPHCM) đã nhiều lần vi phạm, đã bị phát hiện, nhưng tiếp tục tái phạm. Cá chết trắng ao hồ, ruộng vườn không canh tác được, sông suối bị bức tử… Người nông dân thì trắng tay, chưa kể sức khoẻ cộng đồng bị xâm hại nghiêm trọng. Tất cả những thiệt hại hiển hiện ngay trước mắt chúng ta đó vì sao không thể là bằng chứng để chứng minh tội phạm? Thật đáng rùng mình nếu trong hàng ngàn vụ không bị khởi tố đó có một vài vụ giống Vedan. Sự so sánh này có vẻ khập khiểng. Thế nhưng, nó cũng cho thấy một thực tế là pháp luật về môi trường của chúng ta còn quá nhiều kẽ hở. Đó là việc bình thường, bởi pháp luật phải va chạm với cuộc sống thì mới được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp. Điều không bình thường là đã hơn 2 năm trôi qua, chúng ta dường như vẫn chưa làm gì đủ để ngăn chặn sự xuất hiện của những Vedan khác. Những khiếm khuyết của pháp luật ngày càng bị những đối tượng vi phạm, cố tình vi phạm tận dụng triệt để trước sự bất lực của người dân.
4. Cổng thông tin điện tử Chính phủ có bài Việc áp dụng văn bản QPPL trong xử phạt hành chính về nhãn hàng hóa. Bài báo phản ánh: Bà Đào Thị Phương Dung (tỉnh Bình Định) đề nghị được giải đáp việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) trong xử phạt vi phạm hành chính về nhãn hàng hóa và các hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa, dịch vụ. Theo phản ánh của bà Dung, tại Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 5/6/2009, Điều 23 Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008 và khoản 2, 3 Điều 12, Điều 13 Nghị định số 107/2008/NĐ-CP ngày 22/9/2008 của Chính phủ đều quy định 1 vấn đề là xử phạt về các hành vi vi phạm về nhãn hàng hóa và hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Do vậy, khi áp dụng việc xử phạt vi phạm về nhãn hàng hóa và hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa và chất lượng hàng hóa, dịch vụ, cơ quan chức năng sẽ gặp khó khăn vì không biết áp dụng Nghị định nào cho đúng pháp luật.
Nếu xét theo khoản 3 Điều 83 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 3/6/2008 “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau” thì áp dụng Nghị định 54/2009/NĐ-CP để xử lý vi phạm pháp luật về nhãn hàng hóa và hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Nhưng nếu xét về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền kiểm tra, kiểm soát và thẩm quyền xử phạt của lực lượng quản lý thị trường thì sẽ áp dụng Nghị định 06/2008/NĐ-CP và Nghị định 107/2008/NĐ-CP để xử phạt vi phạm về nhãn hàng hóa và hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Để có cơ sở pháp lý quy định thống nhất trong việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật xử phạt vi phạm về nhãn hàng hóa và hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa và chất lượng hàng hóa, dịch vụ trong lực lượng quản lý thị trường, bà Dung đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn sẽ áp dụng Nghị định nào trong 3 Nghị định trên để xử phạt vi phạm về nhãn hàng hóa và hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa và chất lượng hàng hóa, dịch vụ?
Giải đáp thắc mắc của bà Đào Thị Phương Dung, ông Nguyễn Hùng Dũng, Cục trưởng Cục Quản lý thị trường - Bộ Công Thương khẳng định: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 17/2008/QH12 thông qua ngày 3/6/2008, tại khoản 8 Điều 83 quy định: "Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau".
5. Báo Nhân dân điện tử có bài Thi hành án dân sự: Mạnh ai nấy làm? Bài báo phản ánh: Những khó khăn trong công tác thi hành án dân sự (THADS) không mới, nhưng cho đến thời điểm này dù các cơ quan chức năng một mực khẳng định đã “làm hết trách nhiệm” thì án tồn đọng còn nhiều và những bất cập vẫn cứ “chình ình”. Và việc này cũng đang tồn tại ở ngay chính thủ đô Hà Nội. Vấn đề hiệu lực của của pháp luật như thế nào đang được đưa ra chất vấn tại rất nhiều kỳ họp về tư pháp khi mà có nhiều vụ án đã tuyên rất lâu ví dụ như vụ VINAJUCO sau bẩy năm mới THA xong.
Ông Lê Quang Tiến (Cục trưởng Cục THADS TP.Hà Nội) cho biết, án tồn đọng do nhiều nguyên nhân như thiếu biên chế, án nhiều, phức tạp, án có tài sản để thi hành nhưng tài sản đó lại lớn hơn nhiều lần nghĩa vụ phải THA nên không kê biên được hoặc đương sự không có thu nhập khác ngoài lương.Theo qui định chỉ được khấu trừ không quá 30% thu nhập nên nếu đưa sang diện không có điền kiện THA là không đúng pháp luật, mà phải THA trong nhiều năm mới xong... Tuy nhiên, "thủ phạm" chính của án tồn đọng mà các cơ quan THA đều đưa ra chính là các bản án, quyết định của TA tuyên không rõ ràng. Khi cơ quan THA muốn có sự giải thích từ phía TA để thi hành thì chẳng mấy nhận được phản hồi.
Ông Lữ Văn Dũng – Phó Vụ trưởng Vụ kiểm sát THA – VKSNDTC cho hay, việc TA giải thích bản án không kịp thời là chuyện "muôn thủa".
Theo quy định của luật, thời hạn này là 15 – 30 ngày nhưng nhều trường hợp hết ba tháng cơ quan THA cũng chẳng có được văn bản giải thích. Và đến khi mong ước mãi cũng đạt, thì văn bản giải thích lại có thêm câu "để cơ quan THA tham khảo" khiến không chỉ THA mà cả kiểm sát viên THA đều chẳng biết nên tính sao. Ví dụ như vụ chia thừa kế ở Từ Liêm, bản án tuyên ranh giới không rõ nên đương sự nhất quyết không bàn giao đất. Chủ tọa phiên tòa có bốn văn bản giải thích khác nhau nên THA không biết căn cứ vào đâu để thực hiện. Điều mà nhiều người đang băn khoản là việc xét miễn giảm tiền án phí và tiền phạt trong công tác THA được thực hiện như thế nào, liệu có sự phối hợp giữa các cơ quan hay không? Thực tế, tại nhiều tỉnh thành chứ không riêng gì Hà Nội, tỷ lệ đương sự được hưởng xét miễn giảm tiền án phí, tiền phạt còn thấp. Theo quy định, các án được miễn đủ điều kiện nhưng phải có kết quả xác minh trong sáu tháng. Cơ quan THADS Hà Nội đã tập trung rà soát, xác minh khoảng 1800 vụ việc được miễn nhưng khi chuyển sang cho TA lại không được chấp nhận vì chưa có văn bản hướng dẫn của TA cấp trên. Thậm chí, trước đó, cơ quan THA đã chủ động trao đổi lãnh đạo TA – VKS họp liên ngành tháo gỡ vấn đề này nhưng họp cả ngày, cuối ngày “kết” là không có thẩm quyền ban hành hướng dẫn nên “ngành nào tự làm việc ngành ấy”. Có lẽ mọi công tác phối hợp chỉ trở nên “trơn tru” hơn khi có văn bản hướng dẫn. Từ sau ngày 23-5-2010 khi văn bản phối hợp giữa Bộ Tư pháp-Viên Kiểm Sát –Tòa án được ban hành, công tác phối hợp giữa các cơ quan về THA cũng phát triển theo hướng tốt hơn.
6. Báo Pháp luật và xã hội có bài Luật vẫn... chờ hướng dẫn! Bài báo phản ánh: Theo báo cáo của các ngành và địa phương, đến ngày 1-7-2010, các cơ quan Nhà nước đã nhận được 141 đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong đó, Bộ Tài chính với hai lĩnh vực liên quan nhiều đến doanh nghiệp là thuế và hải quan, nhận được 123/124 đơn yêu cầu bồi thường dành cho các Bộ và cơ quan ngang Bộ. Về phía các tỉnh, thành có 17 đơn, trong đó Thanh Hoá nhiều nhất, với 8 đơn yêu cầu. Đáng quan tâm, để thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/2010/NĐ-CP qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật. Trách nhiệm ban hành 6 thông tư hướng dẫn thuộc về các Bộ Tư pháp, Công an, Tài chính, TANDTC và VKSNDTC nhưng đều chậm tiến độ. Trong đó, đáng ngại nhất là tiến độ xây dựng thông tư hướng dẫn bồi thường trong lĩnh vực tố tụng hình sự của TANDTC và VKSNDTC, hiện mới đang ở giai đoạn thành lập ban soạn thảo và tổ biên tập.
7. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thiếu hướng dẫn, thi hành án lúng túng. Bài báo phản ánh: Tòa không chịu thụ lý việc xác định tài sản chung, riêng dù luật thi hành án có quy định. Theo Luật Thi hành án dân sự (LTHADS), trong việc cưỡng chế liên quan tài sản chung, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện xác định phần sở hữu của họ thì người được thi hành án (THA) hoặc chấp hành viên có quyền yêu cầu tòa án xác định phần sở hữu của người phải THA trong khối tài sản chung để đảm bảo THA. Mặc dù quy định đã rõ ràng như vậy nhưng cuối cùng THA cũng vướng khi phía tòa không chịu thụ lý việc xác định đâu là tài sản riêng trong khối tài sản chung của các đương sự. Cụ thể như vụ của ông Nguyễn Văn H. ở quận Bình Thạnh (TP.HCM). Năm 2007, ông yêu cầu ông T. phải thi hành bản án trả nợ. Sau đó, ông phát hiện ông T. có một căn nhà ở quận 10 nên yêu cầu THA cưỡng chế, phát mại. Trớ trêu thay căn nhà trên là tài sản chung của ông T. với người chị. Cơ quan THA đã mời các bên liên quan đến để thỏa thuận phân chia tài sản nhưng chị ông T. không đến. Hai chủ sở hữu chung này cũng không thèm khởi kiện ra tòa để xác định phần tài sản riêng của mình. Thấy bên kia không hợp tác, căn theo LTHADS, ông H. đã khởi kiện ra tòa yêu cầu xác định phần nhà riêng của ông T. Tuy nhiên, tòa án đã trả lại đơn vì cho rằng không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa. Tòa lý giải, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Ông H. hay cơ quan THA khởi kiện là không được vì không phải đương sự trong vụ án mà chỉ là… người ngoài. Trước tình hình đó, cơ quan THA đành phải xếp hồ sơ, báo cáo khó khăn, chờ hướng dẫn.
Một khó khăn khác là thiếu hướng dẫn cụ thể về đơn yêu cầu THA. Hiện nay chưa có mẫu đơn áp dụng thống nhất nên mỗi nơi có một loại mẫu đơn khác nhau. Thậm chí có nơi chỉ yêu cầu người có yêu cầu tự viết tay. Trong đó, việc hướng dẫn người được THA viết đơn mất rất nhiều thời gian do điền không đúng, không đủ thông tin cần thiết hoặc không đạt yêu cầu về pháp lý. Người được THA phải làm đi làm lại nhiều lần, gây phiền hà, bức xúc dẫn đến khiếu kiện khiến vụ việc bị giải quyết chậm, gây tồn đọng. Bà Nguyễn Thị Thu (quận Thủ Đức, TP.HCM) cho biết bà là người được THA trong một vụ kiện dân sự. Mặc dù được cán bộ THA hướng dẫn làm đơn yêu cầu THA nhưng cũng phải ba lần bổ sung, chỉnh sửa thì đơn yêu cầu mới được chấp nhận.
Bên cạnh những khó khăn nói trên còn có cái khó về việc xác định chi phí xác minh điều kiện THA của người được THA. Hiện nay chưa có quy định nào đề cập về việc thu phí xác minh bao nhiêu, thu theo vụ hay theo việc hay theo tính chất của việc cần xác minh khó hay dễ, xác minh ở cơ quan nhà nước hay tư nhân… Đồng thời, xác định thế nào là chi phí thực tế, hợp lý không ít về chuyện này.
8. Báo Tuổi trẻ online có bài Khám giám định kết hôn: Nhận tiền “bồi dưỡng” công khai. Bài báo phản ánh: Một cô dâu Việt vừa bị sát hại bởi người chồng Hàn Quốc nghi bị bệnh tâm thần. Người ta đã khám sức khỏe tâm thần trước khi kết hôn như thế nào mà lại để xảy ra chuyện đau lòng như vậy?
Ở Bệnh viện Sức khỏe tâm thần TP.HCM, mỗi ngày luôn có vài chục cặp người Việt kết hôn với người nước ngoài đến khám (gọi là khám kết hôn). Đa số cô gái Việt đến đây đều lấy chồng người Hàn Quốc, Đài Loan. Các cặp vợ chồng tương lai thường ngồi lặng lẽ bên nhau, không ai nói với ai lời nào bởi hai bên bất đồng ngôn ngữ. Chỉ những người môi giới hăm hở nhất, họ cầm trên tay hàng xấp hộ chiếu, tờ khai đăng ký kết hôn và chạy ra chạy vào phòng khám rất tự nhiên. Sáng 15-7, chúng tôi có mặt ở phòng khám giám định kết hôn. Ngoài dãy ghế dành cho các cặp vợ chồng chỉ có chị T. (22 tuổi, ngụ Kiên Giang) đến một mình. T. ngồi yên lặng, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn ra phía cầu thang. Nói chuyện với chúng tôi, T. bảo đang ngồi đợi ông chồng người Hàn Quốc. Người này T. chỉ biết qua ba ngày mai mối và mới đi ăn chung với ông ta một lần cùng với người phiên dịch. Khi ông ấy “chấm” T., dịch vụ mai mối đã lo ngay giấy kết hôn cho hai người và hẹn ngày cùng đi khám sức khỏe. T. kể, chồng tương lai của cô ở khách sạn, hẹn những người môi giới 9g sẽ đến, nhưng T. đợi đã nửa giờ vẫn chưa thấy ông ấy đâu. Theo lời T., sau khi khám sức khỏe, hôm sau sẽ diễn ra lễ cưới, có cha mẹ T. từ quê lên dự. T. cho biết người cô sắp lấy làm chồng đã có một đời vợ và một đứa con riêng, hơn cô đến 26 tuổi nhưng cô vẫn thích lấy ông ấy để thoát kiếp nghèo cũng như thoát khỏi cuộc đời lam lũ với đồng ruộng. Gần 10g, người mà T. trông ngóng mới tới. Ông ta có dáng đi chậm chạp, khoảng 60 tuổi. Rất nhanh chóng, người môi giới cùng T. và người đàn ông Hàn Quốc bước vào phòng khám. Ngày nào cũng vậy, càng về gần trưa hoặc gần cuối giờ chiều, các cặp vợ chồng ngồi đợi khám ở Bệnh viện Sức khỏe tâm thần TP.HCM mỗi lúc một đông. Sáng 15-7, phòng khám kết hôn với người nước ngoài có bác sĩ L.H., bác sĩ L.H.M. và bà K.V.A. ngồi tiếp nhận hồ sơ, gọi tên người khám. Cả hai bác sĩ đều không mặc blouse khi khám bệnh. Bên ngoài phòng khám, một số đôi đi khám lẻ tranh thủ lấy những tờ bạc loại 100.000, 200.000 đồng kẹp vội vào hộ chiếu. Với những người môi giới, nếu tổ chức đoàn đi khám đông thì họ chuẩn bị cả xấp tiền loại 50.000, 100.000 đồng. Chúng tôi vờ hỏi một phụ nữ đang ngồi đợi ở cửa phòng khám: “Phải cho tiền bác sĩ hả chị?”. Chị này nhìn chúng tôi như người từ trên trời rơi xuống. Một chị khác ngồi cạnh thấy vậy ra điều thông cảm, giải thích: “Phải đưa chứ. Đưa để được khám nhanh, lấy giấy tờ nhanh. Không đưa thì đợi đến mai”. Chị này bảo đúng ra ngày mai chị mới được nhận kết quả, nhưng do vừa “bồi dưỡng” cho nhân viên 200.000 đồng nên được đợi lấy ngay. Vì vậy, chị phải vừa đưa tiền cho bác sĩ vừa đưa tiền cho nhân viên làm thủ tục giấy tờ. Việc khám diễn ra rất đơn giản, chỉ là bác sĩ hỏi và ghi vào phiếu khám sức khỏe tâm thần. Cả bác sĩ L.H.M. và L.H. đều hỏi tất cả các cặp vợ Việt, chồng Hàn Quốc hoặc Đài Loan... những câu gần như giống nhau kiểu như: bao nhiêu tuổi, làm nghề gì, học lớp mấy, quen nhau bao lâu, cha mẹ tên gì, có bị té, bị chấn thương đầu bao giờ chưa? Gia đình có ai bị tâm thần không...? Có đôi lúc, bác sĩ yêu cầu giải thích câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là gì? Trong lúc ngồi đợi, chúng tôi nghe được đoạn đối thoại khám bệnh giữa bác sĩ L.H.M. và một cô gái: “Ba (của cô) bao nhiêu tuổi?”, “Không biết! Hỏi sinh năm mấy thì biết”. “Vậy sinh năm mấy?”. Cô gái không trả lời được. “Không nhớ à?”, “Không nhớ!”. “Học lớp mấy”, “Lớp 2”...
Quan sát nhiều ngày, chúng tôi tận mắt thấy có việc bác sĩ, nhân viên phòng khám kết hôn nhận tiền của những người đến khám hoặc nhận từ người môi giới. Chúng tôi hỏi thẳng bác sĩ L.H. về chuyện nhận tiền, ông trả lời tỉnh bơ: “Cho thì nhận chứ đâu có ai bắt buộc. Cái đó người ta tự nguyện”. Chúng tôi hỏi một ngày nhận được bao nhiêu tiền của người đến khám, bác sĩ này nói: “Cái đó làm sao biết được”. Khi chúng tôi đề nghị ông đếm thử số tiền đã nhận được để trong hộc bàn làm việc thì ông im lặng. Về việc bác sĩ, nhân viên nhận tiền “bồi dưỡng” của bệnh nhân, ông Trịnh Tất Thắng - giám đốc Bệnh viện Sức khỏe tâm thần TP.HCM - cho rằng do người làm dịch vụ, môi giới “họ làm như thế với bác sĩ” và “mình chỉ nhắc nhở thôi”. Khi chúng tôi nói một ngày khám rất nhiều người, số tiền nhận là rất lớn thì ông giải thích: “Theo lịch khám, mỗi tháng bác sĩ chỉ được khám kết hôn có một ngày... Còn “cò” mồi, dịch vụ đến bồi dưỡng bác sĩ thì chẳng thể kiểm soát được”. Bệnh viện có kiểm điểm, xử lý những bác sĩ, nhân viên nhận tiền “bồi dưỡng”? Theo bác sĩ Thắng, việc “bồi dưỡng” tiền là bình thường, đó là chuyện tình cảm chứ không phải hối lộ. “Về nguyên tắc, bác sĩ phải làm đúng trách nhiệm, không được vòi vĩnh. Có bác sĩ nhận, có bác sĩ không nhận, cái đó là tùy từng cá nhân, chúng tôi đâu có thời gian theo dõi. Tôi nghĩ không vì mấy đồng tiền đó mà họ làm méo mó kết quả chẩn đoán” - bác sĩ Thắng nói.
9. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: VKSND TP Hà Nội vừa hoàn tất cáo trạng truy tố giám đốc Công ty TNHH Minh Hằng là Trần Thị Thúy Ngọc (trú phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo cáo trạng, tháng 8-2007, anh Trần Ngọc Tuyên (Mễ Trì, Từ Liêm, Hà Nội) cần vay tiền để làm nhà nên đã nhờ người quen giới thiệu Ngọc cho vay 500 triệu đồng. Đổi lại, anh Tuyên phải thế chấp cho Ngọc một giấy đỏ. Ngọc đã dùng giấy đỏ này làm giả hợp đồng công chứng ủy quyền của Phòng Công chứng số 5 với nội dung: gia đình anh Tuyên ủy quyền cho Ngọc bán nhà gắn liền với đất. Sau đó, Ngọc đem hợp đồng giả này đến Phòng Công chứng số 3 để làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất. Công chứng viên của Phòng Công chứng số 3 đã chứng thực hợp đồng chuyển nhượng với giá 200 triệu đồng. Ngoài vụ việc này, Ngọc còn dùng hành vi tương tự để chiếm đoạt hơn 10 tỉ đồng của nhiều người khác