Điểm tin báo chí sáng ngày 14 tháng 7 năm 2010

14/07/2010
Trong buổi sáng ngày 14/7/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thị trường chứng khoán đang cần bổ sung luật. Bài báo phản ánh: Trong một hội thảo mới đây ở Trường ĐH Luật TP.HCM, nhiều chuyên gia cho biết giao dịch nội gián (sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán) đang gây mất công bằng, thiệt hại quyền lợi của các cổ đông khác.

Thạc sĩ Lê Chí Thủ Khoa, Phó Giám đốc Phòng nghiên cứu phát triển - Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE), nhận định: “Không chỉ chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc các công ty mà người nhà của họ, thậm chí người môi giới chứng khoán cũng có thể hoạt động nội gián. Việc này mang lại lợi nhuận khổng lồ trong một thời gian ngắn. Người thực hiện thường phải trả nhiều tiền để mua lại thông tin mật hoặc thông tin chưa công bố. Hành vi này vi phạm pháp luật nghiêm trọng”. Ông Khoa đề xuất: “Nên lập một tòa án riêng chuyên giải quyết các vụ về giao dịch nội gián, giao dịch không công bằng. Bởi Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự đã quy định tội dùng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán bị phạt tiền từ 100 triệu, 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Hơn nữa, loại vi phạm này ngày càng phổ biến, càng nhiều và phức tạp, tinh vi…”.

Theo đánh giá của lãnh đạo Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM, việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán rất quan trọng, nhạy cảm, có thể đánh sụp một thị trường mạnh nhất. Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều công ty vi phạm, công bố thông tin bất thường, đặc biệt là giao dịch của các cổ đông nội bộ. Trong đó, các công ty chưa niêm yết thường vi phạm nhiều hơn.

Tiến sĩ Bùi Xuân Hải, Trưởng khoa Luật thương mại ĐH Luật TP.HCM, đề nghị vấn đề công khai hóa thông tin cả bên trong và bên ngoài công ty đại chúng đều quan trọng. Bởi nó cung cấp chi tiết cho cổ đông, giúp cổ đông giám sát tốt, giảm tư lợi và có tác dụng răn đe hữu hiệu với người quản lý công ty. Mặt khác giúp công chúng hiểu rõ về công ty và những hoạt động.

Nhiều chuyên gia góp thêm, cần bổ sung và điều chỉnh một số điều luật chuyên ngành. Cụ thể là bổ sung yêu cầu công bố thông tin định kỳ và bất thường phù hợp với quy mô, tính đại chúng của công ty đại chúng, không phân biệt với tổ chức niêm yết. Một thẩm phán của Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM nói việc chào bán chứng khoán ra công chúng cần bổ sung trong Luật Chứng khoán theo hướng công ty phát hành phải có cam kết đưa cổ phiếu vào niêm yết, giao dịch trong vòng sáu tháng để thu hẹp thị trường tự do. Ngược lại, việc chào mua công khai luật cũng chưa nói rõ trường hợp nào phải chào mua, trường hợp nào được miễn việc đăng ký mua nên cũng phải làm rõ…

2. Báo Kinh tế Sài gòn có bài Tập quyền hay phân quyền? Bài báo phản ánh: Quốc hội dự kiến sửa đổi Hiến pháp trước khi kết thúc nhiệm kỳ để tạo điều kiện cho việc tổ chức lại bộ máy nhà nước trong nhiệm kỳ tới.

Nếu thực sự thống nhất với nhau rằng Nhà nước của chúng ta phải là “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” thì việc tổ chức nhà nước ra sao, nhân dân phải được bàn và phải được quyết định. Những nguyên tắc tổ chức nhà nước phải được quy định trong Hiến pháp và vì thế việc nhân dân phải được quyền thảo luận và quyết định về Hiến pháp là điều cần thiết.

Cần có một tổ chức để làm công việc biên soạn và tổ chức thảo luận và xin phúc quyết của dân. Thảo luận phải là thảo luận rộng rãi, công khai, người dân phải được tham gia vào các cuộc thảo luận đó và cần một khoảng thời gian đủ cho thảo luận. Đấy thường là công việc của Quốc hội lập hiến. Cuối cùng người dân phải quyết định bằng cách trực tiếp thông qua Hiến pháp trong một cuộc trưng cầu dân ý. Khi Hiến pháp được nhân dân thông qua thì quốc hội lập hiến hết nhiệm vụ. Trong suốt lịch sử của mình cho đến nay, người dân Việt Nam chưa bao giờ có quyền thảo luận và quyết định về Hiến pháp. Vì thế “nhà nước của dân, do dân và vì dân” vẫn là mục tiêu cao cả cần đạt tới.

Tập quyền và phân quyền là hai trong số các khái niệm liên quan đến tổ chức nhà nước mà Hiến pháp phải quy định. Tập quyền thường dẫn đến chuyên chế, lạm dụng quyền lực, tha hóa. Đấy không còn là cách tổ chức của các nhà nước pháp quyền hiện đại. Phân quyền là cách tổ chức nhà nước mà quyền lực nhà nước được phân ra cho các nhánh khác nhau, độc lập tương đối với nhau. Các nhánh này hợp tác, phối hợp, giám sát và kiềm chế lẫn nhau trong thực hành quyền lực nhà nước.

Thường người ta phân ra nhánh lập pháp, tư pháp và hành pháp. Tất cả các nhà nước pháp quyền hiện đại thực chất đều được tổ chức theo cách này. Đấy là một thành quả của văn minh nhân loại. Cho đến nay, loài người vẫn chưa nghĩ ra cách hữu hiệu hơn về tổ chức nhà nước.Cách tổ chức nhà nước của chúng ta hiện nay về cơ bản là cách tổ chức tập quyền. Cần có nỗ lực lớn để chuyển theo hướng chung của các nước văn minh. Cần có những chuẩn bị, thảo luận mang tính xây dựng cho việc chuyển đổi này, vì thiếu nó Việt Nam sẽ không thể trở thành một nước hiện đại “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn minh”. Đấy là một việc cần tiến hành càng sớm, càng sâu rộng càng tốt trên tinh thần xây dựng.

Nghe nói lần này Quốc hội chỉ dự định sửa đổi một vài điểm để có thể tổ chức lại ngành tư pháp (không nhất thiết theo tỉnh, thành phố mà theo vùng) và tổ chức lại ngành hành pháp (để dân trực tiếp bầu chủ tịch xã; Thủ tướng có quyền bổ nhiệm các bộ trưởng, các chủ tịch tỉnh và thành phố) và ngành lập pháp (thí dụ bỏ Hội đồng Nhân dân cấp huyện). Đấy là những vấn đề chưa thật cốt lõi, nhưng cũng quan trọng và nên được thảo luận rộng rãi để có thể đưa ra những sửa đổi mang lại những cải thiện trong hoạt động của Nhà nước.

Phần tiếp theo của bài viết này chỉ bàn sơ về ý định cải cách nhánh hành pháp theo hướng Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng; Thủ tướng lập nội các và có quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm các bộ trưởng; Thủ tướng có quyền bổ nhiệm các chủ tịch tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương.

Tại các nước dân chủ, người đứng đầu ngành hành pháp thường phải tổ chức chính phủ của mình và (từng thành viên) Chính phủ thường được Quốc hội thông qua (một thủ tục phân quyền, giám sát và kiềm chế lạm quyền). Đấy là một cách làm hợp lý và là công việc nội bộ của đảng thắng cử và nắm quyền (thường phản ánh sự thỏa thuận bên trong đảng hay quyền lực của các phái trong đảng thắng cử). Chính vì thế, việc trao quyền tổ chức chính phủ cho cá nhân Thủ tướng hay là sự dàn xếp trong nội bộ đảng cầm quyền là việc riêng của đảng đó. Nếu họ giao quá nhiều quyền cho một cá nhân thì rất dễ một người có thể thâu tóm quá nhiều quyền lực và có thể trở thành chuyên quyền, độc đoán, thậm chí độc tài, biến cả một đảng thành công cụ của mình. Nói tóm lại, việc tổ chức chính phủ một cách thống nhất, trao nhiều quyền hơn cho Thủ tướng là hợp lý nhưng vẫn phải có sự giám sát và kiềm chế từ các định chế khác. Xét theo tinh thần đó, thì việc bổ nhiệm các bộ trưởng ở Việt Nam hiện nay cũng là quyết định của đảng cầm quyền, về cơ bản và cả về hình thức cũng khá giống như cách làm ở các nước khác và ý định cải tiến lần này có thể được hoan nghênh. Ngược lại, dự kiến mở rộng quyền để Thủ tướng có quyền bổ nhiệm (và bãi nhiệm) người đứng đầu chính quyền địa phương là vấn đề hoàn toàn khác. Đấy là vấn đề phân quyền hay tập quyền của bản thân bộ máy hành pháp dưới dạng tập quyền trung ương hay phân quyền địa phương.

Tập quyền trung ương hoàn toàn là nhà nước trung ương quyết định tất cả, các nhà nước địa phương chỉ là bộ máy thừa hành của nhà nước trung ương. Phân quyền hoàn toàn (không bao giờ có) cho địa phương có nghĩa là nhà nước địa phương quyết định mọi vấn đề của địa phương. Đây là hai khái niệm dùng để phân tích, để tìm hiểu về cách tổ chức nhà nước ở trung ương và địa phương. Chúng chỉ là các khái niệm. Trong thực tế không có cái tập quyền trung ương thuần khiết (ngay cả thời quân chủ khắc nghiệt cũng không hoàn toàn vậy, mà câu “phép vua thua lệ làng” là một minh chứng), cũng chẳng có phân quyền hoàn toàn cho địa phương.

Ý định tăng quyền cho Thủ tướng đối với chính quyền địa phương là ý định tăng cường sự tập quyền trung ương. Không có sự đối lập, đối kháng giữa hai khái niệm tập quyền và phân quyền về mặt trung ương và địa phương này. Quan hệ này cũng phải được Hiến pháp quy định. Đấy là sự phân công càng rạch ròi càng tốt về công việc, về trách nhiệm và quyền hạn của nhà nước trung ương và nhà nước địa phương (kể cả ba mặt, lập pháp, tư pháp và hành pháp). Sự phân công rạch ròi sao cho những công việc của nhà nước trung ương do nhà nước trung ương làm, những việc mà nhà nước địa phương làm hiệu quả thì nhà nước địa phương đảm nhiệm. Sự phân công đó không phải để các địa phương trở thành các vương quốc trong một quốc gia, nhưng cũng phải tạo điều kiện cho các nhà nước địa phương có đủ quyền tự quản. Mục đích tối cao là hiệu quả hoạt động của toàn bộ nhà nước (trung ương và địa phương) nhằm kiến tạo môi trường cạnh tranh-hợp tác lành mạnh của tất cả các thực thể xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo các quyền tự do của nhân dân và các tổ chức, đảm bảo an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Về những vấn đề quan trọng như thế của đất nước, người dân phải được quyền thảo luận và quyết định. Xu hướng của các xã hội hiện đại là phân quyền cho địa phương. Việt Nam cũng đã tiến theo hướng này trong thời gian qua. Đấy là việc đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, do chưa được thảo luận thấu đáo nên đã có những sơ hở trong việc phân quyền này (đầu tư tràn lan không theo quy hoạch chung; có sự chồng chéo, cạnh tranh không lành mạnh; không phát huy được sự liên kết vùng, thậm chí ảnh hưởng đến an ninh quốc gia như cho thuê rừng đầu nguồn, cấp phép khai thác khoáng sản bừa bãi...) và những khiếm khuyết đó phải được sửa chữa. Đấy thực ra là lỗi chủ yếu của chính quyền trung ương (vì hiện tại bản thân nó đưa ra sự phân cấp và có trách nhiệm điều phối, giám sát). Nhưng không thể vì muốn sửa chữa những sai sót đó mà đi một bước lùi trong phân quyền cho địa phương. Có những người vin vào kinh nghiệm lịch sử (vua bổ nhiệm các quan là người có xuất xứ từ nơi khác để tránh mầm mống gây bè cánh gia tộc tạo phản và có thể để chống tham nhũng nữa) và kiến nghị sự sửa đổi như vậy theo hướng tập quyền trung ương. Có thể học tiền nhân nhiều thứ, song mỗi thời một khác và học cũng nên chọn lọc.

Tóm lại, Nhà nước hiện hành ở Việt Nam vẫn mang tính tập quyền cao (cả ở mức phân quyền, giám sát và kiềm chế quyền lực của các định chế khác nhau về mặt lập pháp, tư pháp và hành pháp, lẫn trong quan hệ trung ương - địa phương), cần có sự thảo luận kỹ lưỡng trước khi quyết định. Và điều cốt yếu là người dân phải có quyền tham gia, thảo luận và quyết định.

3. Báo Vietnamnet có bài 'Dừng làm cổng chào, Hà Nội sẽ có uy tín cao'. Bài báo phản ánh:  "Chưa làm được cổng chào đẹp thì để lại đã", "thành phố dừng cái này sẽ có uy tín lớn"... là đề xuất của đại biểu HĐND TP Hà Nội chiều nay (13/7) khi thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2010. Chuyện cổng chào của Hà Nội trở thành "điểm nóng" khi liên tục được các ĐB "điểm danh". ĐB Nguyễn Việt Hưng phản ánh cử tri khắp nơi rất bức xúc khi Hà Nội "đùng một cái" công bố dự án 5 cổng chào, nếu bảo Thủ tướng đã phê duyệt từ năm 2008 thì sao không làm theo quy trình: tổ chức thi phương án kiến trúc, lấy ý kiến nhân dân? Gợi lại kỷ niệm cổng chào do người dân dựng lên để đón đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô năm 1954 hay khi thống nhất đất nước năm 1975, ông Hưng thắc mắc không biết tại sao lại thiết kế chẳng ra cổng chào như thế? Vị cựu Giám đốc Đài PT-TH Hà Nội còn băn khoăn chuyện làm cổng chào tạm cũng như "hô thần nhập tượng", liệu sau này có dỡ được không? Không tin chuyện doanh nghiệp "vô tư" tặng thành phố cổng chào bạc tỷ, ông Hưng đặt câu hỏi Hà Nội sẽ phải đổi lại dự án hay ưu tiên gì cho doanh nghiệp? "Không biết bức xúc của dân có đến tai lãnh đạo thành phố không? Chứ tôi nghe nhức đầu", ông Hưng "thành thật". Đồng cảm với ĐB Hưng, ĐB cao tuổi Ngô Văn Ny khẳng định tiền của doanh nghiệp cũng là tiền của dân, không thể phung phí, nếu làm thì phải để lại được dấu ấn như Ô Quan Chưởng với Thăng Long - Hà Nội, còn không thì "63 tỉnh, thành chỉ có một Thủ đô, không nên làm vội vã". ĐB Phạm Thị Thành thì không hiểu sao có thể vẽ 5 thiết kế "lung tung" như thế, chẳng đẹp, chẳng Việt Nam chút nào. "Tại sao làm tạm bợ mà vẫn làm, có phải vì mình chưa định hình về địa lý của Hà Nội, hay Hà Nội còn thay đổi địa giới, nên không dám làm những cổng thật đẹp? Nếu chưa làm đẹp được thì để lại đã", bà Thành thẳng thắn. ĐB Hưng quyết liệt hơn khi đề nghị Hà Nội nên dừng lại đúng lúc, "thành phố quyết định dừng cái này sẽ có uy tín rất cao".

Chủ trì phiên thảo luận, Phó Chú tịch HĐND Lê Quang Nhuệ lưu ý UBND TP cần tiếp thu những góp ý này.

Theo ĐB Vũ Đức Tân, báo cáo của UBND hoặc chưa đề cập, hoặc nói chưa đủ về nhiều vấn đề nóng như vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý đất đai, thu hồi dự án không hiệu quả còn rất chậm, chuyện cải cách hành chính còn yếu...

Kể chuyện sáng nay lặn lội ngoài đường tới 3 tiếng để đi từ nhà ở Giảng Võ đến cơ quan ở Trần Hưng Đạo, ướt từ đầu đến chân, "không tiến cũng chẳng lùi được. Mưa chỉ độ 2 tiếng mà hậu quả như thế thì rất phải suy nghĩ". Ông Tân đặt dấu hỏi về việc cải tạo hệ thống thoát nước và đề nghị thành phố phải có trách nhiệm hơn với người dân, với những nhu cầu thiết yếu của họ. Nhiều ĐB rất lo lắng khi sắp đến Đại lễ 1.000 năm Thăng Long mà bộ mặt thành phố ngổn ngang quá. ĐB Bùi Thị An lo lắng chuyện đường xá lổn nhổn, ngồi xe máy hay ô tô đều phải qua "ổ trâu", "quy hoạch đô thị và quản lý đô thị đều yếu kém, lộn xộn, tôi cảm giác không chữa nổi nữa", bà An "ưu tư". ĐB Phạm Thị Thành thì băn khoăn khi thành phố chỉ nhấn mạnh đến tiến độ các công trình kỷ niệm chứ chẳng nhắc gì đến chất lượng cả, trong khi đội ngũ lao động toàn huy động từ các "chợ nhân công". Vỉa hè làm hôm trước, hôm sau đã thấy bấp bênh, giờ thành phố lại bắt từ 1/8 không được đào bới nữa nên các nơi lại càng "thi nhau làm tầm bậy tầm bạ. Các đồng chí đi ô tô nên không biết, chứ đi bộ thì thấy ngay. Không biết hết 1.000 năm Thăng Long thì lấy tiền đâu mà sửa"? ĐB Nguyễn Việt Hưng lại lo lắng về hiện tượng "ăn theo" dịp Đại lễ theo kiểu "mượn đầu heo nấu cháo", rồi mượn danh nghĩa 1.000 năm Thăng Long để đi kêu gọi các doanh nghiệp tham gia dự án, làm mất uy tín của Hà Nội, "cái nào thiết thực cho dân thì tiếp tục, làm, còn không thì dừng lại ngay", ông Hưng đề nghị.

4. Báo Nhân dân phản ánh: Hôm nay, tại cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang (Việt Nam) và cửa khẩu Thiên Bảo, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), theo thỏa thuận giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, hai bên tổ chức trọng thể Lễ Tuyên bố Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc và các Hiệp định liên quan (Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu) chính thức có hiệu lực. Ðây là sự kiện quan trọng đối với nhân dân ta, nhân dân Trung Quốc cũng như đối với khu vực.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo điện tử VTC News có bài Cán bộ tư pháp tự chứng nhận bằng giả để "thăng quan". Bài báo phản ánh: Tháng 10/2004, cán bộ phòng nội vụ huyện Thái Thụy về xã kiểm tra bằng của ông Tiến. Lúc này, ông Tiến xuất trình bằng tốt nghiệp PTTH hệ bổ túc số 0360755. Ngày 1/4/2005, UBND huyện có quyết định tuyển dụng công chức xã đối với ông Nguyễn Văn Tiến với chức danh công chức Tư pháp – hộ tịch.

Theo nguồn tin từ cơ quan Công An tỉnh Thái Bình cho biết, năm 2005 do cần bằng tốt nghiệp cấp 3 nên ông Tiến đã gặp một thanh niên (không rõ lai lịch) nhờ mua 1 bằng tốt nghiệp cấp 3 hệ bổ túc cùng 2 bản photo có dấu đỏ công chứng với giá là 3 triệu đồng. Hôm sau, người đàn ông lạ mặt đã mang đến cho ông Tiến 2 bản photo bằng tốt nghiệp PTTH hệ bổ túc đóng dấu công chứng, số bằng 0360755 cấp ngày 15/8/2004 tại hội đồng thi TTGDTX Thái Thụy mang tên Nguyễn Văn Tiến. Còn bằng chính, người đàn ông này hẹn hôm sau sẽ giao, nhưng ông Tiến đã không lấy được vì sau đó người này “bặt vô âm tín”! Có được bằng giả trong tay, ông Tiến nộp cho trường Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật để dự thi vào lớp Cao đẳng pháp lý của trường. Theo nguồn tin khác, ông Tiến còn sử dụng 1 bằng tốt nghiệp PTTH hệ bổ túc có số hiệu bằng 0456129, cấp ngày 1/9/2005 tại hội đồng thi TTGDTX Thái Thụy cũng mang tên Nguyễn Văn Tiến và bản photo công chứng tại xã Thụy Sơn do ông Chủ tịch Trần Văn Cự kí. Tiếp đó, để chuẩn bị cho kì thi tốt nghiệp lớp Cao đẳng pháp lý, nhà trường đã tổ chức kiểm tra bằng gốc tốt nghiệp PTTH của học viên và yêu cầu công chứng một bản để nhà trường lưu hồ sơ. Lúc này, ông Tiến lợi dụng việc mình là lớp trưởng, thu bằng tốt nghiệp của một học viên trong lớp đã qua kiểm tra và mang về nhà photo, đánh máy tên tuổi, ngày tháng năm sinh, thay đổi cả số bằng và mang dán ảnh photo ra bản mới. Sau đó, lợi dụng chức danh là cán bộ tư pháp xã, ông tự đóng dấu công chứng và mang qua cho đồng chí Chủ tịch ký xác nhận. Ông Tiến đã sử dụng bản photo công chứng này để được dự thi tốt nghiệp.

Từ tháng 10/2004, cán bộ phòng nội vụ huyện Thái Thụy về xã kiểm tra bằng của ông Tiến. Lúc này, ông Tiến xuất trình bằng tốt nghiệp PTTH hệ bổ túc số 0360755. Ngày 1/4/2005, UBND huyện có quyết định tuyển dụng công chức xã đối với ông Nguyễn Văn Tiến đảm nhiệm chức danh công chức Tư pháp – hộ tịch.

Ngày 17/12/2006, ông Tiến dự thi và trúng tuyển vào lớp Cao đẳng pháp lý trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật tỉnh Thái Bình. Trong hồ sơ lưu của nhà trường đã có 2 bằng tốt nghiệp PTTH hệ bổ túc. Trong hồ sơ lưu rõ, tại trường Trung cấp chính trị Thái Bình, ông Tiến đã vào học lớp trung cấp Quản lí nhà nước – Luật từ tháng 3/2001 đến tháng 9/2003 thi tốt nghiệp ra trường.

Trao đổi với PV về vấn đề này, ông Bùi Đức Thịnh, phó Trưởng phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự kinh tế và quản lí chức vụ Công an tỉnh Thái Bình cho hay: 2 bằng mà ông Tiến đang sử dụng không phải do Sở GD&ĐT tỉnh Thái Bình cấp mà đó là bằng giả. Ông Tiến đã lợi dụng bằng giả của mình để được xét tuyển làm cán bộ công chức xã và mua bằng giả với mục đích để được đi học. Việc ông Tiến mua bằng giả là hành động có tính toán và có mục đích.

Hiện Chủ tịch UBND xã Thụy Sơn, Chủ tịch UBND Huyện Thái Thụy đều đã biết việc ông Tiến sử dụng bằng giả. Lãnh đạo chính quyền cho biết: "Với những sai phạm này, ông Tiến đã vi phạm vào điều 267 bộ Luật Hình Sự. Hiện chúng tôi vẫn đang cân nhắc hình thức để xử lí nghiêm khắc đối với ông Tiến". Tuy nhiên cho đến thời điểm này, ông Tiến vẫn đang đương nhiệm chức danh cán bộ tư pháp xã và chưa nhận được bất cứ hình thức ký luật nào.

2. Báo Đời sống và pháp luật có bài Hồi âm vụ 2 mẹ con bị hành hung ở Tiên Lãng - Hải Phòng: Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội vào cuộc. Bài báo phản ánh: ngày 16/7/2009, chị Nguyễn Thị Duyến và con trai là Lương Văn Toản (trú tại thôn Thuỷ Hưng xã Đông Hưng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng) đã bị người làm cho gia đình ông Vũ Quang Tụy (người cùng thôn) hành hung, gây thương tích. Kết quả giám định thương tật của mẹ con chị Duyến là 9%, do vậy công an huyện Tiên Lãng đã không khởi tố vụ án hình sự. Không đồng ý với cách xử lý vụ việc của công an huyện Tiên Lãng, chị Duyến đã liên tục gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan có thẩm quyền ở Hải Phòng và Trung ương.

Ngày 14/6/2010, Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội đã ra văn bản số 2985 đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng VKSNDTC chỉ đạo xem xét, giải quyết theo thẩm quyền, đúng pháp luật, trả lời chị Nguyễn Thị Duyến, đồng thời thông báo kết quả giải quyết đến Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội.

3. Báo Tuổi trẻ online có bài Áp dụng văn bản pháp luật nào lúc “giao thời”? Bài báo phản ánh: Luật mới chưa đầy đủ trong khi luật cũ đã hết hiệu lực, thời điểm “giao thời” làm người dân bối rối. Vừa qua, tôi có nhận được hai yêu cầu tư vấn về việc áp dụng văn bản pháp luật nào cho chính xác.

Một là câu hỏi của bà L.T.K. về trường hợp hủy bỏ quyết định tuyển dụng công chức đối với người tập sự bị xử lý kỷ luật xảy ra tháng 4-2010 thì áp dụng quy định nào. Vì theo quy định tại điều 20 nghị định 117/2003/NĐ-CP (thi hành pháp lệnh cán bộ, công chức 1998) thì người đứng đầu cơ quan quản lý công chức có quyền hủy bỏ quyết định tuyển dụng đối với người tập sự bị xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên. Sau đó pháp lệnh này bị thay thế bởi Luật cán bộ, công chức (có hiệu lực từ ngày 1-1-2010). Nghị định 24/2010/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 1-5-2010) hướng dẫn thi hành Luật cán bộ, công chức thì quy định người đứng đầu cơ quan quản lý công chức có quyền hủy bỏ quyết định tuyển dụng đối với người tập sự bị xử lý kỷ luật từ khiển trách trở lên. Tháng 4-2010 là “giao thời” vì pháp lệnh cán bộ, công chức đã hết hiệu lực, còn nghị định 24 lại chưa có hiệu lực.

Hai là thắc mắc của ông H.V.Y.: thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT ngày 14-7-2005 (thi hành nghị định 55/2001/NĐ-CP) quy định về điều kiện kinh doanh đại lý Internet, có các yêu cầu: người quản lý phòng máy phải có trình độ tối thiểu là A tin học, có sơ đồ hệ thống máy tính, có sổ tập hợp các quy định của Nhà nước về Internet. Sau đó nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28-8-2008 thay thế nghị định 55 lại không quy định các yêu cầu như trên. Như vậy thông tư 02 có còn hiệu lực áp dụng không?

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 có quy định rõ: “Văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của văn bản hết hiệu lực cũng đồng thời hết hiệu lực cùng với văn bản đó, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một phần vì còn phù hợp với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới”. Đây là một trong những quy định phù hợp với thực tiễn hiện nay của Việt Nam nhưng đến Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì bị bỏ đi. Điều 81 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 chỉ quy định một văn bản sẽ hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần khi ở vào một trong ba trường hợp sau: (1) Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản; (2) Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó; (3) Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy cũng không rõ một nghị định có hết hiệu lực không khi luật được nghị định này hướng dẫn hết hiệu lực. Ngược lại, pháp luật hiện hành cũng không có quy định nào về trường hợp một văn bản luật hết hiệu lực nhưng các nghị định hay thông tư hướng dẫn thi hành vẫn còn được áp dụng.

Với sự phân tích như trên, rõ ràng không có một câu trả lời chính xác cho bà K. và ông Y.. Đến thời điểm hiện nay, các nghị định hướng dẫn thi hành Luật cán bộ, công chức vẫn chưa được ban hành đủ, do vậy nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh cán bộ, công chức trước đây vẫn còn đang được áp dụng nếu không trái với các quy định mới, chẳng hạn như nghị định 35/2005/NĐ-CP về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức vẫn có hiệu lực một phần.

Đối với trường hợp ông Y., có thể áp dụng nguyên tắc: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Do đó sẽ áp dụng nghị định 97 thay cho thông tư 02.

Sự bỏ ngỏ có thể tạo ra sự tùy tiện vì sẽ có tình trạng không biết rõ văn bản nào có thể áp dụng tiếp và văn bản nào hết hiệu lực. Thêm vào đó là cảm nhận chủ quan của cơ quan có thẩm quyền khi tự họ xác định phần văn bản nào còn, phần văn bản nào hết hiệu lực. Ví dụ sau khi Bộ luật dân sự 2005 thay thế Bộ luật dân sự 1995 thì có nhiều văn bản hướng dẫn của Bộ luật dân sự 1995 vẫn tiếp tục được áp dụng nhưng không có sự thống nhất vì tùy thuộc nhiều vào cảm nhận của cơ quan áp dụng pháp luật. Như vậy, pháp luật hiện nay bỏ trống vấn đề này nên tạo sự áp dụng không thống nhất ở các cơ quan nhà nước và khó khăn cho người dân vì không thể biết chính xác văn bản nào sẽ điều chỉnh vấn đề mình quan tâm.

4. Báo điện tử VOVNEWS có bài Thủ tướng đồng ý lùi hạn xử phạt tài xế chưa có bằng FC. Bài báo phản ánh: Ngày 13/7, Thủ tướng Chính phủ đã có công văn đồng ý với kiến nghị của Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương và Công ty Tân Cảng Sài Gòn về việc gia hạn xử phạt tài xế điều khiển xe đầu kéo chưa có giấy phép lái xe hạng FC đến hết ngày 30/6/2011. Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện việc dạy, sát hạch giấy phép lái xe hạng FC tới hết ngày 30/6/2011. Từ ngày 1/7/2010, sau khi quy định tài xế điều khiển xe đầu kéo phải có giấy phép lái xe hạng FC có hiệu lực, hàng hóa tại các cảng biển đã bị ứ đọng do tài xế sợ bị phạt với mức tiền từ 2 triệu đến 3 triệu đồng. Ngoài ra, theo khảo sát của Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải), hiện vẫn còn hàng nghìn tài xế có giấy phép lái xe hạng C, D, E chưa kịp đi sát hạch lấy bằng FC.

5. Báo Tuổi trẻ có bài Vụ cô dâu Việt bị sát hại: “Chúng tôi làm đúng quy trình”. Bài báo phản ánh: Ông Trần Phước Hoàng, phó giám đốc Sở Tư pháp TP Cần Thơ, cho biết: “Chị Thạch Thị Hồng Ngọc đăng ký kết hôn vắng mặt ở Hàn Quốc nên muốn công nhận việc kết hôn đó tại VN thì Sở Tư pháp TP Cần Thơ phải phỏng vấn cô Ngọc và ông Jang Du Hyo.... Sau khi làm đúng quy trình, chúng tôi thấy hồ sơ đăng ký kết hôn của cả hai đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật VN nên đã công nhận và ghi chú vào sổ hộ tịch của VN”. 

Cũng theo ông Hoàng, cô Ngọc đến Sở Tư pháp TP Cần Thơ nộp hồ sơ ngày 10-4. Ngày 26-4, bà Nguyễn Long Châu - cán bộ Sở Tư pháp TP Cần Thơ - trực tiếp phỏng vấn cả hai vợ chồng. Bà Châu kể: “Buổi phỏng vấn kéo dài hơn 20 phút, có cả phiên dịch. Tôi hỏi 13 câu theo mẫu chung và một số câu hỏi phụ khác. Tất cả đều được ghi vào biên bản. Lần phỏng vấn đó cô Thạch Thị Hồng Ngọc và ông Jang Do Hyu đều đạt yêu cầu. Ông Jang Du Hyo không có biểu hiện tâm thần hoặc các bệnh gì khác...”.

Theo bà Châu, thấy giữa hai người có sự chênh lệch tuổi tác khá lớn (cô Ngọc mới 20 tuổi, còn ông Jang Du Hyo 46 tuổi) nên bà Châu đề xuất lãnh đạo xin phỏng vấn lần hai đối với cô Ngọc để làm rõ tính tự nguyện, mục đích kết hôn. Ngày 8-6, khi được phỏng vấn lần hai, cô Ngọc cho biết mình kết hôn nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, không bị ai ép buộc. Cô Ngọc nói chồng lớn tuổi hơn sẽ thương nhiều hơn...

6. Trang web tamnhin.net có bài Từ EVN đến sự chính danh của các tập đoàn kinh tế. Bài báo phản ánh: Những ngày nắng nóng lại bị cắt điện tràn lan, tùy tiện đã làm đảo lộn cuộc sống dân sinh và gây đình đốn sản xuất kinh, doanh. Một số địa phương đã kiến nghị Trung ương xem xét trách nhiệm của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) về thực trạng thiếu điện trầm trọng đã gây ảnh hưởng lớn đề nhiều vấn đề xã hội, kinh tế nước ta. Tuy nhiên, việc thiếu điện gây căng thẳng kinh tế, xã hội, mà nguyên nhân chính từ sự độc quyền của EVN như các địa phương và công luận đang lên tiếng, còn xuất phát từ một nguyên nhân bao trùm chưa ai chỉ ra: đó là sự bất cập của cơ chế, chính sách hiện hành. Khách quan mà nói, EVN là tác nhân của vấn đề đang gây bức xúc xã hội, nhưng về mặt nào đó, trong chừng mực nào đó, cũng là nạn nhân của nguyên nhân chủ yếu nói trên.

Điều 149 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: "Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động  của tâp đoàn kinh tế". Thật khó tin là Luật Doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống gần 5 năm, nhưng quy định tại điều 149 lại chưa được các cơ quan chức năng hướng dẫn một cách cụ thể. Đơn giản như thế nào là "có quy mô lớn" và những "tiêu chí, tổ chức quản lý…" thì đến nay vẫn chưa có văn bản pháp quy nào đưa ra những chuẩn mực thực thi. Chính sự không rõ ràng của các khái niệm pháp lý này mà đã dẫn đến không ít những sai lầm khi triển khai như chủ thể thành lập TĐKT, chỉ định công ty mẹ, đồng nhất công ty mẹ với TĐKT.… Bên cạnh đó các TĐKT nhà nước ra đời trong thời gian qua đã “vận dụng sáng tạo” các khái niệm  ấy trong sản xuất kinh doanh khiến các đơn vị chủ quản khó có chế tài khi quản lý. Phải chăng đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự độc quyền, làm ăn thua lỗ và các hệ lụy tiêu cực khác của không ít các tập TĐKT nhà nước hiện nay.

EVN không có tư cách pháp nhân! Xin bạn đọc đừng ngạc nhiên, nhưng đó là một sự thật khó tin về EVN nói riêng và các TĐKT nhà nước chúng ta hiện tại. Tại khoản 1, điều 26 thuộc Nghị định 139/2007/NĐ-CP, ngày 05 tháng 9 năm 2009, của Chính phủ  về hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp quy định: "TĐKT bao gồm nhóm các công ty có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên dưới hình thức công ty mẹ - công ty con". Tại khoản 2, điều 26, Nghị định 139 quy định: "TĐKT không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Việc tổ chức hoạt động của tập đoàn do các công ty lập thành tập đoàn tự thỏa thuận quyết định". Như vậy, TĐKT ra đời trên cơ sở tập hợp, liên kết các công ty có tư cách pháp nhân độc lập và đặc trưng quan trọng nhất là bản thân TĐKT không có tư cách pháp nhân. Đến đây bạn đọc có thể hỏi: Theo Nghị định 139, EVN không có tư cách pháp nhân, không có điều lệ, không có vốn và tài sản riêng, không có cơ cấu tổ chức và bộ máy độc lập và không được nhân danh bản thân trong các quan hệ hợp đồng kinh tế, không có tư cách trong tranh tụng trước tòa án...., vậy EVN hoạt động như thế nào và bản thân EVN với tư cách là chủ thể kinh tế hiện hữu liệu có hợp pháp?