I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Vấn đề dioxin tại VN: Chuẩn bị mở phiên điều trần thứ 3. Bài báo phản ánh: Ngày 15-7, Hạ nghị sĩ Eni F. H. Faleomaveaga, Chủ tịch Tiểu ban châu Á-Thái Bình Dương và các vấn đề về môi trường toàn cầu thuộc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, sẽ triệu tập phiên điều trần nhằm xem xét cách thức đáp ứng các yêu cầu của nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam. Ông Faleomaveaga cũng là người đề xuất, điều hành phiên điều trần của Quốc hội Mỹ về vấn đề da cam/dioxin của Việt Nam lần thứ nhất (tháng 5-2008) và lần thứ hai (tháng 6-2009). Tham dự phiên điều trần sẽ có bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng - thành viên nhóm đối thoại Mỹ-Việt về chất độc da cam/dioxin và chị Trần Thị Hoan - nạn nhân chất độc da cam/dioxin thế hệ thứ hai. Hai người nhận được sự bảo trợ của tổ chức Chiến dịch Cứu trợ và trách nhiệm đối với nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam.
Mục đích hoạt động của nhóm này là kêu gọi sự công bằng và hỗ trợ của chính phủ Mỹ đối với nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam cũng như chăm sóc sức khỏe con cái cựu chiến binh Mỹ và những người Mỹ bị phơi nhiễm chất độc này.
Báo cũng có bài Hợp tác về năng lượng rất quan trọng. Bài báo phản ánh: Nhân chuyến thăm chính thức Liên bang Nga theo lời mời của Tổng thống Nga Medvedev, sáng 11-7, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã tới Tập đoàn Dầu khí Zarubezhneft - đối tác của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) trong liên doanh dầu khí Vietsovpetro.
Phát biểu tại đây, Tổng Bí thư nhấn mạnh trong tổng thể quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga, quan hệ hợp tác trong lĩnh vực năng lượng và dầu khí chiếm vị trí rất quan trọng, được coi là một trong những lĩnh vực hợp tác mẫu mực và hiệu quả nhất. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Phó Chủ tịch Duma quốc gia Nga Ivan Ivanovich Melnikov đã chứng kiến lễ ký văn bản thỏa thuận giữa Petrovietnam và Zarubezhneft về việc chuyển đổi liên doanh dầu khí Vietsovpetro sang giai đoạn phát triển mới, thỏa thuận khẳng định việc đưa mỏ dầu tại vùng Nenevski trên lãnh thổ Liên bang Nga vào khai thác trong quý III tới.
2. Báo Mới có bài Doanh nghiệp Mỹ mới chỉ "đặt gạch giữ chỗ". Bài báo phản ánh: Doanh nghiệp (DN) Mỹ vẫn chờ đợi thị trường Việt Nam lớn lên, chờ đợi Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư, chờ đợi Việt Nam cải thiện hạ tầng cơ sở, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chờ đợi Việt Nam xử lý tệ quan liêu, tham nhũng và thủ tục hành chính nhiêu khê. Đến nay, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã tròn mười tuổi. Mười năm trong lịch sử chỉ là một khoảnh khắc. Những tác động của một cam kết quốc tế đồ sộ như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ mười năm chưa đủ để ngấm thấm đến điểm cùng, chưa thể tính sổ hết được cái lợi, cái hại, cái thắng, cái thua. Nhưng mười năm là khoảng thời gian đủ để có thể nhận diện được những cái nét cơ bản được gì, mất gì, đủ để cho những cái tốt, cái xấu có thể hiển thị.
Thứ nhất: Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trước hết là một sự kiện góp phần hoàn tất quá trình bình thường hóa quan hệ, thực hiện quan hệ đầy đủ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Từ nay, lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngàn năm của mình, Việt Nam có quan hệ bình thường và bình đẳng với tất cả các quốc gia trên thế giới, với tất cả các nước lớn, cả trên vũ đài chính trị, cả trên thương trường. Và điều trông thấy rõ ràng là với đường lối đối ngoại hòa bình, rộng mở của Đảng và Nhà nước ta, uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, Việt Nam ngày càng được quốc tế nể trọng.
Riêng quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại song phương tạo điều kiện cho quan hệ kinh tế thương mại phát triển. Chính lợi ích trong quan hệ đó đã thúc đẩy nhiều quan hệ khác phát triển và mở rộng. Lợi ích kinh tế thương mại đã tạo ra nhu cầu giao lưu giữa hai nước ngày càng lớn hơn, từ đó làm cho hai nước hiểu nhau hơn, tin cậy nhau hơn và thấy cần hợp tác với nhau nhiều hơn. Hiện giữa hai nước đang có nhiều chương trình hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Thứ hai, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển. Trước hết chúng ta nhìn thấy rõ nhất ở những góc độ, lĩnh vực sau:
1. Bổ sung hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam theo cam kết của Hiệp định
Trong BTA, chung ta cam kết xây dựng và thực thi một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử. Khi phê chuẩn Hiệp định này, Nghị quyết của QH VN đã ghi rõ: "UBTVQH, Chính phủ và các cơ quan tư pháp phải khẩn trương xây dựng chương trình hành động cụ thể, đồng bộ tiến tới việc sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật theo lộ trình của Hiệp định...". Năm 2001, Chính phủ đã giao cho Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành rà soát toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành, đối chiếu với những cam kết trong Hiệp định và những quy định của WTO đề xuất trình QH chương trình bổ sung, sửa đổi pháp luật. Cuộc tổng rà soát các văn bản pháp luật năm 2001 giúp chúng ta nhận ra được nhiều điều bổ ích, đó là hệ thống luật của chúng ta thời đó khác quá nhiều so với thế giới, luật của chúng ta còn chung chung, chồng chéo, khó hiểu, khó thực thi. Chúng ta cũng thống kê được một danh sách các văn bản luật phải sửa đổi trong đó hầu như tất cả các văn bản pháp luật của chúng ta thời điểm đó đều phải sửa đổi, bổ sung.
Phải nói thêm rằng, QH và Nhà nước VN rất quan tâm đến việc sửa đổi, bổ sung luật. Luật pháp VN đã qua nhiều lần làm mới để cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, các tiêu chí chuẩn mực của hệ thống luật pháp luôn là những vấn đề bàn cãi. Từ khi có BTA, các tiêu chuẩn, các chuẩn mực đó là những quy định của WTO đã được cả thế giới thừa nhận và tuân thủ. Và trên cơ sở kết quả cuộc Tổng rà soát năm 2001, trong nhiệm kì 2001-2005, Quốc hội ta đã ráo riết vừa ban hành luật mới, vừa sửa đổi các luật cũ và một loạt các luật quan trọng đã được ban hành, sửa đổi như Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật chống tham nhũng, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Luật Dân sự, Luật Hình sự, các Luật thuế, Luật Hải quan, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật lao động... Hệ thống pháp luật không phân biệt đối xử đang cho phép chúng ta huy động mọi tiềm lực xã hội để phát triển.
Đến hôm nay, có thể nói về cơ bản (chỉ mới là cơ bản), hệ thống luật của Việt Nam đã khớp với luật lệ của WTO. Vấn đề hôm nay là phải khẩn trương tháo gỡ những khúc mắc trong khâu thực thi pháp luật. Đó là thành công lớn nhất của Việt Nam trong quá trình thực hiện Hiệp định BTA và hội nhập kinh tế.
Trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, ta cam kết đảm bảo hệ thống pháp luật công khai, minh bạch và đảm bảo để các thành viên trong xã hội tham gia vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách, quy chế. Cùng với quá trình đổi mới tư duy trong xã hội Việt Nam, cùng với sự phát triển mau lẹ của phương tiện Internet, công nghệ thông tin, nhận thức và ý thức làm chủ của dân ta ngày càng cao, thông tin ngày càng phong phú, hiểu biết ngày càng rộng, do đó, sự tham gia của dân ngày càng rộng rãi, ngày càng có chất lượng vào quá trình xây dựng luật pháp, đường lối chính sách, vào quá trình điều hành, quản lý kinh tế, xã hội bằng các phương tiện và hình thức khác nhau.
Sự tham gia rộng rãi của xã hội vào công việc quản lý điều hành kinh tế - xã hội đang góp phần tạo ra bầu không khí lạc quan, phấn khởi, tạo ra một xã hội dân chủ, ổn định, tạo thêm sức mạnh quốc gia từ nguồn trí tuệ vô tận của đông đảo quần chúng. Sự tham gia rộng rãi của xã hội góp phần làm cho hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh hơn, dễ thực thi hơn, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển tốt hơn. Một xã hội dân chủ như thế hiện đang vừa là môi trường, vừa là động lực để đất nước phát triển bền vững.
2. Hiệp định BTA góp phần hình thành đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng đông đảo.
Chưa bao giờ ở Việt Nam có đội ngũ doanh nhân đông đảo như hôm nay. Những quy định trong các văn bản pháp luật mới sửa đổi của Việt Nam đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các DN ở những lĩnh vực, ngành nghề, những nơi mà luật không cấm. Luật pháp bảo vệ quyền kinh doanh đúng luật của DN. Người giỏi được xã hội và nhà nước tôn vinh, khuyến khích. Thị trường trong nước mở cửa, thị trường nước ngoài thông thoáng là cơ hội để các DN tung hoành, bươn chải và trưởng thành.
3. Hiệp định tạo điều kiện cho xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh chưa từng có.
Nhờ có BTA, nhờ được hưởng quy chế Tối huệ quốc, xuất khẩu VN vào thị trường Hoa kỳ tăng nhanh với khối lượng lớn chưa từng có với bất kì thị trường nào trong lịch sử ngoại thương VN. Tăng nhanh hơn cả sự tưởng tượng của những người lạc quan nhất.
4. Hiệp định tạo điều kiện cho đầu tư Hoa Kỳ vào VN nhiều hơn.
Mặc dù đến hôm nay, theo số liệu thống kê, số vốn đầu tư FDI đăng kí từ Hoa Kỳ vào VN xếp hàng thứ 6 sau các nước láng giềng châu Á. Theo cách tính của các quan chức Hoa Kỳ, tức là cộng với các số vốn đầu tư của các công ty Hoa Kỳ từ nước thứ ba vào thì Hoa Kỳ xếp thứ 3 trong danh sách các nước đầu tư vào VN. Có điều mới xuất hiện là năm 2009, Hoa Kỳ vượt lên đứng đầu danh sách đầu tư FDI trong năm 2009 vào Việt Nam. Hoa Kỳ cũng sở hữu 65% số trái phiếu quốc tế của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài khác cũng đã vào Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Rõ ràng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam chưa nhiều, chưa nhanh như ta mong đợi cả về số lượng, cả về cơ cấu. Ngoài một số dự án lớn của các tập đoàn như Intel, Ford... các tập đoàn hùng mạnh trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của Hoa Kỳ chỉ mới vào khảo sát, thăm dò, thử nghiệm, "xếp gạch" giữ chỗ...
Lý giải hiện tượng này chỉ có thế là:
- Đối với họ Việt Nam vẫn là thị trường nhỏ. Trong chiến lược đầu tư của các nước lớn, kể cả Hoa Kỳ, Việt Nam chỉ là thị trường phụ thêm trong công thức "Trung Quốc + 1" hoặc "Trung Quốc và Ấn Độ + 1". Cái phần phụ thêm + 1 đó, đối với họ có ngay cũng tốt, chưa có ngay họ có thể chờ. Cái phần phụ thêm + 1 đó hôm nay có thể là Việt Nam, ngày mai có thể là nước khác nếu ở đó làm tốt hơn.
- Doanh nghiệp Hoa Kỳ vẫn chờ đợi thị trường Việt Nam lớn lên, chờ đợi Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư, chờ đợi Việt Nam cải thiện hạ tầng cơ sở, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chờ đợi Việt Nam xử lý tệ quan liêu, tham nhũng và thủ tục hành chính nhiêu khê. Các doanh nghiệp Hoa Kỳ phần lớn là các tập đoàn lớn, họ làm ăn có bài bản, luật pháp của họ không cho họ làm ăn theo kiểu đánh quả, chộp giật. Chắc ăn thì làm, chưa chắc ăn thì đợi.
Có lẽ cũng phải mất rất nhiều thời gian nữa, Việt Nam mới giải quyết được hết các mặt yếu kém nêu trên. Thời gian cứ trôi đi, cơ hội cứ giảm bớt dần. Đó cũng là một thách thức. Những cái Hiệp định song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đem lại cho Việt Nam còn có thể kể nhiều và ở trong nhiều lĩnh vực. Những mặt tiêu cực của thị trường này mang đến Việt Nam ở đâu cũng thấy được. Đặc biệt là "văn hóa Mỹ" đang ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam bằng nhiều phương tiện khác nhau, cũng là điều rất đáng lưu tâm.
Nói chung chơi với Mỹ là cơ hội nhiều, thách thức lắm, chúng ta phải giỏi, nhanh chóng giỏi mới có thắng nhiều hơn thua.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Thanh niên phản ánh: Trước thực trạng các cô gái có phong trào lấy chồng xứ Hàn, xứ Đài... ngày một nhiều và cũng ngày một nhiều cái chết thương tâm cũng như bao sự đọa đày mà các cô dâu Việt phải chịu đựng nơi xứ người, thiết nghĩ, Hội LHPN các cấp kết hợp với Sở Tư pháp - nơi các cô dâu Việt đến đăng ký kết hôn hãy tư vấn, tìm cách trao đổi, tiếp xúc cùng họ, giúp họ nhận thức được những mối đe dọa, những khó khăn mà các cô dâu sẽ gặp phải (bất đồng ngôn ngữ, hôn nhân không tình yêu, sự khác biệt văn hóa, phong tục tập quán...) để các cô dâu cũng như gia đình họ suy nghĩ thật kỹ trước khi quyết định kết hôn, cũng như quyết định đưa con mình làm dâu ở một đất nước xa lạ.
Dù xã hội có đồng tình hay không thì việc lấy chồng nước ngoài thông qua môi giới vẫn ngày một gia tăng. Do đó, để bảo vệ công dân của nước mình cũng như bảo vệ phụ nữ Việt tránh khỏi những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần khi làm dâu xứ người thì các cơ quan chức năng, đặc biệt là Hội LHPN VN, nên kết hợp cùng các đại sứ quán, lãnh sự quán VN ở các nước có nhiều cô dâu Việt, thành lập một trung tâm hỗ trợ các cô dâu Việt tại nước đó, nhất là ở các tỉnh có nhiều cô dâu Việt. Địa chỉ, số điện thoại của các trung tâm này được thông báo rộng rãi, được trao tận tay các cô dâu khi họ đến đăng ký kết hôn tại các Sở Tư pháp để họ có thể liên hệ, nhờ sự can thiệp, giúp đỡ khi xảy ra những vấn đề không hay nơi xứ người.
Báo cũng có bài Tháo gỡ vướng mắc trong cấp giấy chủ quyền cho dân. Bài báo phản ánh: Theo tin từ Văn phòng UBND TP.HCM hôm qua 9.7, UBND TP đã chỉ đạo Sở Xây dựng chủ trì phối hợp với các sở liên quan và UBND các quận, huyện khẩn trương thực hiện rà soát, đề xuất hướng xử lý đối với các trường hợp vướng mắc về nhà ở trên địa bàn TP, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người dân và phù hợp với quy định pháp luật về xây dựng. Cụ thể, đó là những trường hợp thuộc các dự án phân lô hộ lẻ và các dự án đầu tư xây dựng chung cư đã được Kiến trúc sư trưởng TP (nay là Sở Quy hoạch - Kiến trúc) phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 trước ngày 1.7.2004, nhưng xây dựng sai quy hoạch, sai thiết kế xây dựng đã được phê duyệt, chưa đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo dự án...
Sở Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với các sở, ngành liên quan nghiên cứu biện pháp tháo gỡ các vướng mắc trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đề xuất các biện pháp chế tài nghiêm các chủ đầu tư có vi phạm trong đầu tư xây dựng...
2. Báo Pháp luật và xã hội phản ánh: Đoàn kiểm tra VBQPPL của UBND TP Hà Nội vừa làm việc với thường trực HĐND, UBND huyện Chương Mỹ về công tác ban hành VBQPPL ở đơn vị này. Ông Đinh Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch UBND huyện Chương Mỹ cho biết, xuất phát từ tình hình thực tiễn và để phục vụ công tác quản lý nhà nước ở địa phương, từ ngày 1-8-2008 đến 7-6-2010, HĐND, UBND huyện đã ban hành 54 văn bản (VB) các loại. Qua kiểm tra, Đoàn kiểm tra của UBND TP ghi nhận, các VB do huyện Chương Mỹ ban hành về cơ bản đã đảm bảo tuân thủ đúng trình tự, thủ tục luật định, phù hợp với thực tiễn nên có tính khả thi cao. Đáng chú ý, công tác kiểm tra VB tại 32 xã, thị trấn trên địa bàn đã được phòng Tư pháp huyện thực hiện sát sao. Nhờ vậy, những tồn tại từ phía cơ sở như: Lúng túng trong việc xác định thể thức VB, quy trình gửi VB để kiểm tra, thẩm định còn thực hiện chưa đúng tiến độ, chưa đầy đủ theo quy định… đã được thông báo và có sự hướng dẫn kịp thời để cơ quan ban hành VB ở cơ sở tự sửa đổi cho phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua buổi làm việc, Đoàn kiểm tra cũng đã chỉ ra những “lỗi” mà huyện Chương Mỹ mắc phải trong công tác ban hành VBQPPL như: “Quên” gửi dự thảo VBQPPL cho cơ quan tư pháp thẩm định trước và sau khi ban hành. Theo quy định của Luật ban hành VBQPPL thì dự thảo quyết định, chỉ thị của UBND cấp huyện phải được cơ quan tư pháp cùng cấp thẩm định trước khi trình UBND; sau khi ban hành chậm nhất là ba ngày kể từ ngày ký ban hành thì VB của HĐND, UBND cấp huyện phải được gửi đến Sở Tư pháp để kiểm tra. Nhưng trên thực tế, toàn bộ văn bản do UBND huyện Chương Mỹ ban hành không có VB thẩm định của cơ quan tư pháp cũng không được gửi đến cơ quan có thẩm quyền kiểm tra cấp trên. Bà Vũ Thị Trung, Trưởng phòng Tư pháp huyện Chương Mỹ cho biết: “Thiếu sót của huyện Chương Mỹ là nhiều VB được ban hành mà chưa qua thẩm định của phòng Tư pháp. Còn với những VB có ý kiến của cơ quan tư pháp thì việc thẩm định mới chỉ dừng lại ở việc “góp ý” chứ chưa được thể hiện dưới hình thức VB thẩm định”.
Do chưa coi trọng công tác thẩm định VB nên nhiều vướng mắc trong công tác ban hành VBQPPL của huyện đã không được phát hiện, hướng dẫn kịp thời, chẳng hạn như: Sự lúng túng trong việc phân biệt VBQPPL với các VB áp dụng pháp luật, VB hành chính; rồi lúng túng trong việc xác định thẩm quyền ban hành VB. Cụ thể, một số VB do UBND, Chủ tịch UBND huyện ban hành, nội dung có chứa quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) được áp dụng nhiều lần đối với nhiều đối tượng hoặc một nhóm đối tượng trong thời gian nhất định nhưng lại không được ban hành dưới hình thức VBQPPL như: Chỉ thị số 07/CTUBND ngày 13-5-2010 về việc tăng cường công tác quản lý sử dụng đất đai trong thời gian Đại hội Đảng các cấp; Chỉ thị số 09/CTUBND ngày 25-5-2010 về việc đẩy nhanh tiến độ chuyển giao lưới điện hạ áp nông thôn cho ngành điện quản lý bán điện trực tiếp đến hộ dân...Ngoài ra, việc “quên” quy định thời điểm có hiệu lực của VB; việc đánh số thứ tự VBQPPL không cùng với năm ban hành và ký hiệu dành riêng cho từng VB… cũng là những “lỗi” về thể thức mà UBND huyện Chương Mỹ gặp phải.
Kết thúc buổi làm việc, Đoàn kiểm tra đã kiến nghị huyện Chương Mỹ cần tiến hành tự kiểm tra, xử lý ngay các sai sót đã được Đoàn chỉ ra. Đặc biệt là phải quan tâm hơn nữa khâu thẩm định VB, làm sao để tư pháp hoàn thành tốt vai trò “gác cửa” trong thẩm định VB.
3. Báo An ninh thủ đô có bài phản ánh: Ngày 9-7, Bộ Tư pháp đã có cuộc họp liên ngành với Bộ Công an, Công Thương, Ngoại giao về phạm vi hành nghề của chi nhánh tổ chức luật sư (LS) nước ngoài tại Việt Nam. Trước đó, Chi nhánh Rouse Legal được cấp giấy phép hành nghề trong các lĩnh vực: sở hữu trí tuệ, tố tụng dân sự, công ty và thương mại, tài chính ngân hàng, lao động. Tuy nhiên, khi xem xét qui định tại Điều 70 - Luật Luật sư và Nghị quyết 71/2006/QH11 (29-11-2006) của Quốc hội, phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam, Chi nhánh Rouse Legal vẫn chưa quyết định việc nhận thực hiện các vụ việc liên quan đến lĩnh vực tố tụng. Vì theo đơn vị này, các qui định của pháp luật chưa thống nhất về phạm vi hành nghề của chi nhánh các tổ chức LS nước ngoài tại Việt Nam.
Tại cuộc họp, đại diện Vụ pháp chế (Bộ Công Thương) khẳng định, các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO vẫn giữ lại quyền cho Việt Nam quyết định cho phép hay không chi nhánh, công ty luật nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được cử LS tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng trước tòa án Việt Nam. Nếu Việt Nam cho phép Chi nhánh Rouse Legal được cử LS tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cho khách hàng tại tòa án Việt Nam thì sẽ là “tiền lệ” để áp dụng cho tất cả các tổ chức, chi nhánh LS nước ngoài khác tại Việt Nam theo nguyên tắc của WTO là không phân biệt đối xử và minh bạch, công khai. Vì vậy, 4 cơ quan kể trên đều chung quan điểm, trước mắt, không cho phép chi nhánh, tổ chức LS nước ngoài ở Việt Nam cử LS tham gia tố tụng.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thi hành án khổ vì ban bồi thường chậm trễ. Bài báo phản ánh: Hơn bốn năm trước, vợ chồng ông Phạm Văn Đây mượn của bà Phạm Thị Lượm 2,4 tỉ đồng. Do không trả được, vợ chồng ông Đây định bán nhà cho bà Lượm để cấn trừ hơn một nửa số tiền nợ. Tuy nhiên sau đó, bà Lượm đã khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Đây phải trả đủ 2,4 tỉ đồng và tiền lãi chứ không tiếp tục mua bán nhà. Năm 2007, TAND TP.HCM đã tuyên buộc phía bị đơn phải trả cho nguyên đơn gần 2,7 tỉ đồng tiền nợ gốc lẫn lãi. Vụ việc được giao cho cơ quan thi hành án quận 7 (nay là Chi cục Thi hành án dân sự quận 7) thi hành. Tuy nhiên, dù nhiều lần được yêu cầu nhưng bên phải thi hành án vẫn không trả nợ. Sau đó, phát hiện vợ chồng ông Đây được đền bù trên 125 triệu đồng tiền giải phóng mặt bằng ở quận 2 nên bên được thi hành án vội yêu cầu thi hành án. Chi cục Thi hành án dân sự quận 7 đã quyết định cưỡng chế bằng cách khấu trừ số tiền này và đề nghị Ban bồi thường giải phóng mặt bằng quận 2 chuyển hết tiền bồi thường cho vợ chồng ông Đây về cơ quan thi hành án để nơi đây thi hành bản án.
Thế nhưng dù Chi cục Thi hành án dân sự quận 7 đã ra quyết định, thông báo hợp lệ nhưng đến nay phía ban bồi thường vẫn chưa có động thái gì khiến cơ quan thi hành án bị đương sự hối thúc, khiếu nại. Theo thi hành án, lý ra ban bồi thường phải thực hiện ngay việc chuyển tiền theo quyết định cưỡng chế vì không vướng gì về mặt thủ tục pháp lý. Việc ban bồi thường kéo dài thời gian làm cho công tác thi hành án bị ách tắc không đáng có…
5. Báo điện tử Vnexpress có bài Một cô dâu Việt bị giết khi vừa đến Hàn Quốc. Bài báo phản ánh: Một cô dâu Việt 20 tuổi bị người chồng có vấn đề về tâm thần sát hại chỉ một tuần sau khi đặt chân đến Hàn Quốc. Cảnh sát tỉnh Busan cho biết thi thể người người phụ nữ này được tìm thấy trong nhà hôm 7/7. Người chồng của cô tên là Jang, 47 tuổi, bị bắt và bị nghi ngờ đánh đập và đâm chết vợ. Jang khai rằng anh ta giết vợ theo lời xúi giục của ma.
Đôi vợ chồng này gặp nhau hôm 7/2 qua một công ty mai mối. Cô gái quyết định cưới Jang ngày hôm sau bất chấp khoảng cách tuổi tác, Korea Times cho hay. Sau khi kết hôn, người phụ nữ này ở lại Việt Nam để hoàn tất giấy tờ và sang Hàn Quốc hôm 1/7. Cô không hề biết một từ tiếng Hàn nào và cũng không biết người chồng có tiền sử bệnh tâm thần. Jang phải nằm viện 5 ngày trước khi sang Việt Nam đón vợ và từng tấn công bố mẹ ruột của anh ta cách đây 5 năm.
Bà mẹ Jang nói rằng anh ta bị trầm cảm từ lúc 40 tuổi vì không lấy được vợ. "Nó không dùng thuốc nữa sau khi kết hôn vì sợ vợ biết. Tôi gặp con dâu có một lần và đã từng hy vọng chúng có thể hạnh phúc bên nhau trọn đời", bà nói.