Điểm tin báo chí sáng ngày 08 tháng 7 năm 2010

08/07/2010
Trong buổi sáng ngày 08/7/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo điện tử Nhân dân có bài Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh lên đường thăm chính thức Liên bang Nga. Bài báo phản ánh: Sáng 8-7, Tổng Bí thư Ban Chấp hành T.Ư Ðảng Cộng sản Việt Nam Nông Ðức Mạnh đã rời Hà Nội đi thăm hữu nghị chính thức Liên bang Nga, theo lời mời của Tổng thống Liên bang Nga Ð. Mét-vê-đép.

Cùng đi với đồng chí Tổng Bí thư có các đồng chí: Phạm Gia Khiêm, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao; Ngô Văn Dụ, Bí thư T.Ư Ðảng, Chánh Văn phòng T.Ư; Hoàng Bình Quân, Ủy viên T.Ư Ðảng, Trưởng Ban Ðối ngoại T.Ư; Hoàng Văn Phong, Ủy viên T.Ư Ðảng, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ; Vũ Huy Hoàng, Ủy viên T.Ư Ðảng, Bộ trưởng Công thương; Thượng tướng Nguyễn Văn Ðược, Ủy viên T.Ư Ðảng, Thứ trưởng Quốc phòng; Ðinh La Thăng, Ủy viên T.Ư Ðảng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam; Cao Tiến Phiếm, Trợ lý Tổng Bí thư; Bùi Ðình Dĩnh, Ðại sứ Việt Nam tại Liên bang Nga.

2. Báo pháp luật và xã hội có bài Những khuyến nghị về chống rửa tiền. Bài báo phản ánh: Sự phát triển của thị trường bất động sản của Việt Nam hiện vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ, bằng chứng là những biến động tăng hoặc giảm hết sức bất bình thường.

Đầu tháng 7- 2010, Văn phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hiệp quốc (UNODC) và Cục Phòng chống rửa tiền đã tiến hành tổ chức tập huấn kinh nghiệm phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản cho nhiều doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh bất động sản của Việt Nam.

Tại Việt Nam, theo sự đánh giá của các chuyên gia thì thị trường bất động sản hoạt động rất sôi động và hứa hẹn nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường này hiện vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ, bằng chứng là những biến động tăng hoặc giảm hết sức bất bình thường.

Yếu tố đầu tiên trong các khuyến nghị tại buổi tập huấn là về đánh giá nhận định khách hàng và lưu giữ hồ sơ, theo đó các chế định tài chính không được giữ các tài khoản vô danh hoặc các tài khoản rõ ràng là mang tên giả, phải sử dụng một số biện pháp đánh giá khách hàng, lấy thông tin về mục đích và bản chất của quan hệ kinh doanh…

Các định chế tài chính của các quốc gia cần duy trì ít nhất trong 5 năm, tất cả các hồ sơ cần thiết về các giao dịch cả trong nước và quốc tế, cho phép các định chế này tuân thủ nhanh chóng các yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan có thẩm quyền. Các hồ sơ này cần phải đầy đủ để cho phép tái lập lại từng giao dịch cá nhân (kể cả số lượng và loại tiền liên quan) nhằm cung cấp bằng chứng cho việc truy tố hoạt động tội phạm khi cần thiết. Các chế định tài chính cần phải lưu giữ các hồ sơ về dữ liệu khách hàng (bản sao lưu về tài liệu nhận dạng chính thức như hộ chiếu, CMND…).

Báo cũng có bài 90% dự án bất động sản Việt Nam có vấn đề về mặt pháp lý. Bài báo phản ánh: Thông tin thị trường được mỗi nơi công bố một kiểu, người tham gia thị trường như lọt vào ma trận, đến những chuyên gia am hiểu thị trường cũng lúng túng. Theo giải thích của các Cty nghiên cứu thị trường, hiện nay hầu hết những thông tin về các dự án BĐS tại Việt Nam rất ít được các doanh nghiệp công bố, mà chủ yếu là giao dịch ngầm trên thị trường, bán theo kiểu trao tay.

Ông Adam Bury, Trưởng phòng Nghiên cứu thị trường và Tư vấn CBRE Việt Nam, cũng phải thừa nhận rằng, hiện nhiều giao dịch trên thị trường BĐS thường là giao dịch ngầm, trong khi việc thống kê chỉ dựa trên những dự án công bố. “Một số dự án mua đi bán lại nhưng không thể biết rõ thông tin”, ông Adam Bury cho biết.

Rõ ràng hiện nay chỉ số minh bạch của thị trường BĐS Việt Nam vẫn rất thấp. Điều này khiến thị trường không thể phát triển được, khi nhà đầu tư, người dân chưa thật an tâm về những thông tin do các chủ đầu tư cung cấp. Thị trường BĐS Việt Nam hiện nay có chỉ số minh bạch thấp nhất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Ông Boaz Boon, Phó chủ tịch cấp cao phụ trách nghiên cứu của Tập đoàn CapitaLand (Singapore), đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư khi vạch ra cơ cấu chiến lược đầu tư một dự án, họ thường nhìn vào chỉ số minh bạch BĐS. Những thông tin từ các doanh nghiệp địa ốc đưa ra thường gây nhầm lẫn, thậm chí đánh lừa người mua, khiến họ gần như lọt vào ma trận thông tin khi muốn mua nhà đất.

Giám đốc bộ phận nghiên cứu thị trường Savills Việt Nam cho biết, hiện nay thị trường BĐS đang bị nhiễu thông tin. Điều này không chỉ gây hại cho các nhà đầu tư, mà ngay cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này nhiều khi cũng “bối rối” trước các thông tin này.

Để giúp minh bạch hóa thị trường, Bộ Xây dựng đã đưa ra giải pháp bắt buộc các Cty khi bán nhà đất phải thông qua các sàn giao dịch BĐS. Tuy nhiên, động thái này gần như không thể phát huy tác dụng, khi hầu hết các sàn giao dịch lập lên chỉ để có hình thức.

Ông Phùng Văn Năng, Tổng giám đốc Cty cổ phần BĐS Nam Việt, cho rằng hiện có rất nhiều sản phẩm căn hộ, đất nền được tung ra thị trường, nhưng những sản phẩm được cấp giấy chứng nhận qua sàn chỉ là 10-15%. Bộ Xây dựng cũng cho biết những sản phẩm BĐS qua sàn chỉ chiếm khoảng 20-30%.

Giám đốc kinh doanh một Cty địa ốc giấu tên nói rằng, hiện có đến 90% các dự án có vấn đề về pháp lý, nhưng họ thường không công bố những khiếm khuyết này. Hiện nay, các Cty khi làm dự án đều vay tiền ngân hàng hoặc huy động nên phải trả lãi. Trong khi đó, để một dự án hoàn thành các thủ tục pháp lý, ít nhất phải mất từ 1-2 năm. “Trước gánh nặng lãi vay, nhiều doanh nghiệp không thể chờ đợi quá lâu nên đã liều xây dựng dự án khi chưa hoàn thành giấy phép, thậm chí đã mang nhà - đất đi bán trước khi pháp lý hoàn thành”, vị này cho biết. Do đó, khi công bố dự án, những thông tin bất lợi cho dự án, cho doanh nghiệp đều bị ém nhẹm. Những điều này có thể đưa đến rủi ro rất lớn cho khách hàng

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo điện tử Nhân dân có bài Không rõ hoạt động của 200 tổ chức hành nghề luật sư. Bài báo phản ánh:  Sáng 7-7, Sở Tư pháp Hà Nội đã tổ chức giao ban công tác quản lý LS (LS) trong sáu tháng đầu năm 2010 với Ban Chủ nhiệm Đoàn LS Hà Nội. Theo ông Vương Sĩ Mạnh - Trưởng phòng Quản lý LS (Sở Tư pháp) cho hay, tính đến 30-6-2010, toàn thành phố có 539 tổ chức hành nghề LS (TCHNLS) và sáu LS hành nghề với tư cách cá nhân.

Sở Tư pháp đã cấp Giấy đăng ký hoạt động cho các TCHNLS đúng trình tự, thủ tục, đúng và sớm hơn thời hạn qui định. Thống kê chưa đầy đủ của Đoàn LS Hà Nội cho biết từ đầu năm đến nay các TCHNLS của Hà Nội đã tham gia 825 vụ án hình sự, trong đó có 423 vụ án chỉ định LS, 483 vụ án dân sự, 82 vụ án lao động... Các TCHNLS cũng tư vấn 3038 vụ, trong đó có 2019 vụ tư vấn miễn phí. Số liệu này đã phản ánh được sự đóng góp của giới LS rất lớn cho hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động của các cơ quan tố tụng nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh các LS và TCHNLS đang dần khẳng định vai trò của LS trong việc bảo vệ công lý, thì vẫn còn một số LS khi hành nghề gây khó khăn, vướng mắc cho công tác quản lý như VPLS Tạ Định trong vụ tư vấn cho một số hộ dân phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai; VPLS Việt Tín tư vấn cho một số hộ dân xã Vĩnh Ngọc, Đông Anh...

Cũng theo ông Mạnh, một số TCHNLS chưa gửi báo cáo định kỳ về Sở Tư pháp, khi được cấp đăng ký hoạt động hoặc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động không đăng báo theo qui định, mở văn phòng giao dịch nhưng không thông báo cho Sở Tư pháp... Ngoài ra, không ít TCHNLS ký hợp đồng dịch vụ pháp lý nhưng không ghi mức thù lao trong hợp đồng và đa số các TCHNLS “quên” mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho LS!

LS Hoàng Huy Được – Phó Chủ nhiệm Đoàn LS Hà Nội cũng cho hay,  trong sáu tháng đầu năm 2010, chỉ 110 tổ chức hành nghề có báo cáo  và việc không gửi báo cáo về Đoàn cũng là “bệnh” của nhiều tổ chức hành nghề.

Cũng theo LS Được, để chuẩn bị cho việc đổi thẻ LS, Đoàn đã liên hệ với các TCHNLS nhưng hiện có đến 200 tổ chức hành nghề không liên hệ, xác định được đang hành nghề như thế nào! Còn qua kiểm tra, Sở Tư pháp Hà Nội cũng phát hiện 20 tổ chức hành nghề từ năm 2009 đến nay không rõ hành nghề ở đâu vì tìm đến địa chỉ theo đăng ký hoạt động thì không tìm được hoặc không có, gửi thư bảo đảm thì bị trả lại?

Bà Trương Thị Nga - Phó Giám đốc Sở Tư pháp nhận định rằng, qua một số vụ việc cho thấy chính quyền và LS còn “xa nhau”. LS có nghĩa vụ bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế và LS không gắn bó với Nhà nước thì hành nghề thế nào? Còn chính quyền rất cần LS tư vấn, tham mưu nhưng trên thực tế lại chưa có sự phối hợp, quan tâm đúng mức. Bà Nga cho biết, Sở Tư pháp sẽ khảo sát nhu cầu tại các huyện của Hà Nội để tổ chức cho các LS tuyên truyền, tư vấn pháp lý miễn phí cho người dân.

2. Báo Dân Việt có bài Thi hành án trái khoáy. Bài báo phản ánh: Theo trình bày của bà Nguyễn Thị Phấn ngụ ấp 4, xã Nhựt Tân, huyện Tân trụ, Long An trước đây bà có vay lãi tiền của bà Nguyễn Thị Kim Hạnh (ngụ cùng địa phương) để làm ăn.

Do liên tục thua lỗ nên bà Phấn không còn khả năng chi trả và phải ra tòa. Tháng 3-2007 Thi hành án dân sự huyện này đo đạc, kê biên nhà và phần đất diện tích 90m2 của bà Phấn để bảo đảm trả nợ. Theo trình bày của bà Phấn, kết quả đo đạc “có vấn đề” vì Hội đồng đo đạc không đo từ mép đất của bà tính từ tỉnh lộ 832 đo vào mà lại đo từ trong ruột đo ra.

Dù bà Phấn có khiếu nại nhưng kết quả đo đạc vẫn không thay đổi, Hội đồng đo đạc vẫn tiến hành cắm mốc. Đến tháng 2-2009, cơ quan thi hành án tiến hành bán đấu giá khối tài sản trên và bà Hạnh là người mua được căn nhà này.

Ngày 8-4-2009, bà Phấn xin tự nguyện giao tài sản cho người mua. Đến ngày 10-4-2009, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Trụ lập biên bản công nhận việc tự nguyện này. Tuy nhiên, dù bà Phấn đã tự nguyện giao đất nhưng cơ quan Thi hành án lại không thể giao đất cho bà Hạnh.

Khảo sát tại hiện trường, chúng tôi hết sức ngạc nhiên trước tứ cận của miếng đất đã được cơ quan Thi hành án đem bán: Từ ranh phía Đông trở ra là đất của bà Phấn, từ ranh phía Tây đo ra (mặt tiền tỉnh lộ 832) bà Phấn còn 1m đất, từ ranh phía Nam đo ra bà Phấn còn 0,3m đất, từ ranh phía Bắc đo ra bà Phấn còn 1m đất. Như vậy, toàn bộ diện tích đất giao cho bà Hạnh nằm lọt thỏm giữa đất của bà Phấn!

Ngày 3-6-2010, ông Lê Văn Chuộng – Chi cục trưởng Thi hành án dân sự huyện Tân Trụ ra quyết định… thu hồi một phần biên bản tự nguyện giao nhà và quyền sử dụng đất do chính cơ quan này lập ngày 10-4-2009. Theo ông Chuộng, vị trí thửa đất đã giao không đúng với vị trí mà Thi hành án dân sự huyện Tân Trụ đã kê biên và bán đấu giá! Do đó, sau khi đo đạc lại thì cơ quan này sẽ… trả lại cho bà phần đất thừa phía sau.

Tuy nhiên, bà Phấn vẫn chỉ đồng ý giao đất theo đúng kết quả đấu giá, đúng với các kết quả đo đạc do chính các cơ quan có thẩm quyền xác lập. Không “vận động” được bà Phấn, ngày 16-6 vừa qua, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Trụ đã tiến hành cưỡng chế, buộc bà giao 1m đất phía trước nhưng bà Phấn không chấp hành. Đoàn cưỡng chế đã đập bỏ phần nhà phía sau của bà Hạnh và buộc bà Phấn phải nhận lại. Hàng trăm người dân sống gần đó biết rõ vụ việc đã phản ứng quyết liệt nên việc cưỡng chế không thể tiến hành. Trao đổi với NTNN, ông Nguyễn Văn Gấu - Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An cho biết, cơ quan này đã rút toàn bộ hồ sơ vụ việc để xem xét, hiện vẫn chưa biết sẽ giải quyết vụ này như thế nào.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Kiện bảo hiểm xã hội: Khó nhiều đường. Bài báo phản ánh: Mới đây, Bảo hiểm xã hội (BHXH) TP.HCM đã có buổi làm việc với lãnh đạo TAND TP.HCM. Nhiều vấn đề xung quanh chuyện giải quyết các vụ kiện của cơ quan BHXH đối với các doanh nghiệp chây ỳ đóng BHXH, bảo hiểm y tế đã được đặt ra.

Theo BHXH TP.HCM, thời gian qua, ngành tòa án đã hỗ trợ cơ quan BHXH rất nhiều trong các vụ kiện đòi bảo hiểm. Tất cả đơn kiện của cơ quan BHXH đều được các tòa thụ lý, không còn tình trạng tòa chỉ lên, tòa chỉ xuống. Tuy nhiên, tốc độ giải quyết các vụ án của ngành tòa án TP.HCM vẫn còn chậm. Từ đầu năm đến nay, BHXH các quận, huyện đã khởi kiện mới 20 vụ nhưng ngành tòa án chưa đưa ra xét xử vụ nào. Theo thống kê, cộng với các vụ còn tồn từ năm trước, tổng cộng hiện còn 27 vụ kiện chưa giải quyết (TAND TP.HCM sáu vụ; các tòa quận, huyện 21 vụ).

Lãnh đạo BHXH TP.HCM cho rằng việc tòa chậm đưa các vụ kiện đòi BHXH, bảo hiểm y tế ra xét xử đã dẫn đến một thực tế là chủ doanh nghiệp bỏ trốn trước khi tòa xử. Trong năm nay, giám đốc của hai doanh nghiệp nước ngoài nợ tiền bảo hiểm là Công ty Il Shin Cap Việt Nam (đóng tại huyện Bình Chánh) và Công ty LD Trung tâm TT giải trí Legend (đóng tại quận 5) đã bỏ trốn về nước, không liên lạc được. Trong hai vụ này, cơ quan BHXH đều phát đơn kiện từ tháng 8-2009 nhưng đến tháng 5-2010, TAND huyện Bình Chánh mới xét xử vụ án, còn TAND quận 5 thì ngày 7-6 đã ra quyết định đình chỉ vụ án.

Trước đây, trong buổi làm việc với Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM về tình hình các doanh nghiệp vi phạm Luật BHXH hồi cuối tháng 8-2009, Giám đốc BHXH TP.HCM Cao Văn Sang cho rằng việc tòa kéo dài thời gian tố tụng đã làm số nợ của doanh nghiệp liên tục phát sinh. Do vậy đến khi tòa xét xử thì doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán, nợ càng khó đòi. Chẳng hạn trong vụ kiện Công ty Đồ chơi quốc tế Lucky, khi BHXH khởi kiện (giữa năm 2008) thì công ty chỉ nợ 800 triệu đồng. Nhưng trong hơn một năm chờ đợi tòa xác minh để xét xử, tính cả tiền nợ và tiền lãi ngân hàng của công ty đã lên hơn 2,1 tỉ đồng.

Đó là chưa kể tòa càng chậm giải quyết án thì chế độ, quyền lợi của người lao động tại các doanh nghiệp vi phạm càng bị ảnh hưởng. Đại diện TAND TP.HCM đã ghi nhận những khó khăn của ngành BHXH và hứa sẽ tiếp tục hỗ trợ hết mình vì quyền lợi của người lao động. Trước đó, chánh án TAND TP.HCM đã chỉ đạo TAND các quận, huyện ưu tiên thụ lý giải quyết tất cả vụ kiện đòi bảo hiểm dù ngành tòa án đang quá tải.

Phó Giám đốc BHXH TP.HCM Nguyễn Đăng Tiến cho biết một khó khăn khác trong các vụ kiện đòi BHXH hiện nay là quá trình thi hành án đang gặp rất nhiều khó khăn. Đầu tiên là chuyện rất nhiều doanh nghiệp không có tài sản riêng, toàn bộ máy móc, nhà xưởng đều đi thuê mướn, đến khi vỡ nợ thì “xù” luôn. Cạnh đó, nhiều vụ tòa tuyên án rồi nhưng cơ quan BHXH không có cách nào thu hồi được nợ vì phía công ty ngưng hoạt động, chủ bỏ trốn, tài sản chẳng còn bao nhiêu.

Ông Tiến ví dụ: Công ty TNHH Anjin bị TAND quận Bình Tân tuyên phải trả một lần hơn 6,5 tỉ đồng. Án tuyên xong cũng là lúc công ty đóng cửa, ngừng hoạt động và làm thủ tục xin phá sản, giám đốc thì bay về nước. Số tiền mà BHXH có thể thu được chỉ là số tài sản, máy móc còn lại của công ty nhưng thanh lý thì chẳng được bao nhiêu. Hay trường hợp khác: Công ty Kwang Nam bị TAND quận Phú Nhuận tuyên buộc phải trả một lần số nợ 7 tỉ đồng. Mới trả được hơn 1,3 tỉ đồng giám đốc công ty đã bỏ về nước. Hiện cơ quan thi hành án chỉ còn cách là cưỡng chế niêm phong tài sản. Theo ông Tiến, tính từ đầu năm đến nay đã có bốn chủ doanh nghiệp bỏ trốn về nước sau khi tòa tuyên phải trả nợ do làm ăn thua lỗ. Trong tương lai, tình trạng này còn gia tăng nên quá trình thi hành bản án, quyết định của tòa sẽ còn gặp nhiều khó khăn.

Lãnh đạo BHXH và TAND TP.HCM thống nhất cho rằng để giải quyết được chuyện này cần phải tốn thời gian và sự phối hợp giữa nhiều ngành liên quan, trong đó có cơ quan thi hành án. Trao đổi với chúng tôi, Trưởng phòng Kiểm tra BHXH TP.HCM Nguyễn Trọng Nam cho biết sắp tới BHXH TP.HCM sẽ chủ động gặp gỡ lãnh đạo Cục Thi hành án TP.HCM để nêu những vướng mắc liên quan. “Hiện chúng tôi đang tập hợp tất cả khó khăn, bất cập đang gặp phải để cùng cơ quan thi hành án tìm cách gỡ vướng” - ông Nam nói.

4. Báo Lao động có bài Chủ đầu tư thản nhiên phá vỡ hợp đồng với dân. Bài báo phản ánh: Khi bán nền Dự án Khu dân cư thương mại Bình Chuẩn (KDC Bình Chuẩn, xã Bình Chuẩn - Thuận An - Bình Dương), chủ đầu tư cam kết hạ tầng hoàn chỉnh. Nhưng đến tận bây giờ, khi người dân đã trả tiền, nhận nền nhà thì hạ tầng KDC là hàng loạt số 0: Không trường học, không trạm xá, không nước máy...

Liên quan đến việc chủ đầu tư vừa bán nền cho dân, lại đem tài sản đó đi cầm cố ngân hàng buộc thi hành án, phong toả giao dịch hơn 94.000m2 đất ở KDC Bình Chuẩn (có các nền nhà của dân), ngày 19.5.2010, Cty Trung Quý có thông báo phúc đáp đơn bức xúc của dân, nội dung: “... đã trả được nợ cho Ngân hàng Đông Á, việc phong toả tài sản đất của toà án đã được giải quyết ổn thoả, hiện nay Cty chỉ còn quan tâm đến việc nhanh chóng hoàn tất hạ tầng và ra chủ quyền cho các hộ dân”. Tuy nhiên tới tận ngày 24.6.2010, trong văn bản trả lời khiếu nại ông Thành, ông Lan v.v..., Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương khẳng định, đến thời điểm này Cục chưa nhận được văn bản nào của cấp thẩm quyền yêu cầu hoãn thi hành án, nên vẫn tiếp tục kê biên tài sản của Cty Trung Quý, nhằm tránh việc Cty tẩu tán và đảm bảo thi hành án (trong khi tài sản này Cty đã bán cho dân).

Ngày 22.6.2010 vừa qua, hộ Cao Minh Thuỷ (lô 06/B5) nhận được thông báo của Cty yêu cầu đến hạn chót là 15.7.2010 phải thanh toán nợ 20 triệu đồng, nếu không phải chịu lãi suất vay quá hạn. “Theo hợp đồng đã ký với chúng tôi thì số tiền nợ này chỉ được giao khi Cty giao sổ đỏ cho chúng tôi. Tại sao Cty lại tráo trở như vậy! Chúng tôi sẽ không chấp nhận sự ngang ngược phá vỡ hợp đồng như vậy!” - bà Thuỷ uất ức. Tại hàng loạt các hợp đồng mua - bán ký với nhiều hộ dân như ông Đồng Văn Thành (năm 2005), ông Lưu Ngọc Lan (năm 2009) v.v..., Cty Trung Quý đều cam kết: “Đất dự án khu dân cư đã được đầu tư hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh để xây dựng nhà ở theo Quyết định số 8221”. Mà theo QĐ 8221 thì hạ tầng phải hoàn chỉnh đến từng chi tiết như vỉa hè phải lát gạch con sâu, có chợ, nhà trẻ, nước máy được cấp từ Nhà máy nước Dĩ An, đấu nối hệ thống nước thải v.v...

Thực tế, đến bây giờ, vỉa hè, hoặc người dân tự lát gạch, hoặc đổ bêtông trước cửa nhà mình, còn không thì để cỏ mọc hoang. Dẫn chúng tôi ra 2 cái hố đầy nước thải ngay sát nhà dân đang bốc mùi hôi thối, ông Thành cho biết, đó chính là... hệ thống chứa nước mưa, nước thải của khu dân cư. Mọi sinh hoạt của dân đều đổ về đây, rồi tự thẩm thấu vào đất, chẳng có đấu nối nào.
Nước máy không có, buộc người dân phải dùng nước giếng khoan, mặc dù theo quy chế quản lý KDC nghiêm cấm việc khoan giếng. Điện, dân phải mua của Cty với giá gấp đôi giá Nhà nước, 1.500 đồng/kW, chứ không hề thấy đấu nối vào hệ thống điện Nhà nước. Chợ, chỉ là cái hố rộng đầy cỏ mọc xen với cọc móng và chỉ có... 1 nhà vệ sinh công cộng. Khu vực quy hoạch trường mẫu giáo, trạm y tế chỉ nằm trên giấy, khi thực địa, đã được phân lô bán nền.
Trong giải trình, Cty Trung Quý đổ lỗi do nhân viên yếu năng lực, nên nhiều cái ngoài dự toán. Thậm chí đến cái nhỏ nhất là hệ thống nước thải cũng bê bết bởi Cty bị bắt phải nộp hơn 1 tỉ đồng là khoản tiền lớn ngoài dự toán nên... Hoặc ngay cả hệ thống điện, cũng do trình độ hạn chế, Cty không lường hết công suất sử dụng điện của các hộ dân... Với năng lực như thế, không hiểu tại sao UBND tỉnh Bình Dương cũng như hàng loạt cơ quan chuyên môn lại phê duyệt cho Cty triển khai một dự án hoành tráng trên 115.000m2 tác động đến đời sống hàng trăm hộ dân như vậy.

5. Báo Hà Nội mới có bài Phân cấp việc chứng thực cho chính quyền cơ sở: Người dân chưa hết nhọc nhằn. Bài báo phản ánh: Luật Công chứng 2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007 và Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18-5-2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký mà nội dung đáng chú ý nhất là việc phân cấp chứng thực bản sao về cấp chính quyền cơ sở xã, phường, đã đi vào cuộc sống gần 3 năm nay. Được coi như một cải cách hành chính, song bên cạnh mặt tích cực như giảm tải phòng công chứng nhà nước, tạo điều kiện cho mọi người đi lại thuận tiện gần nơi mình sinh sống, việc phân cấp này vẫn còn những tồn tại, đang gây không ít phiền hà cho người dân...

Giữa tháng 6 vừa qua, chị Mai Thùy Linh (quận Ba Đình) cần chứng thực bản sao đăng ký xe ô tô. Theo hiểu biết của mình về Nghị định 79/CP, chị Linh đem bản chính đăng ký xe đến UBND phường. Việc tưởng chừng đơn giản nhưng hóa ra lại không thể nhanh được... Tại UBND phường Tràng Tiền (quận Hoàn Kiếm), cô nhân viên tiếp nhận hồ sơ cho biết không thể trả kết quả chứng thực ngay vì đang giải quyết rất nhiều hồ sơ, muốn nhanh thì đến UBND phường Phan Chu Trinh. Tại UBND phường Phan Chu trinh, dù chị Linh đã cố gắng giải thích việc mình cần chứng thực ngay bản sao đăng ký xe nhưng cô nhân viên vẫn bình thản: "Chúng em còn một tập hồ sơ đang trình ký, chị phải chờ đến chiều (!)".

Theo lời mách của một số người, phường Nguyễn Du (quận Hai Bà Trưng) có thể giải quyết chứng thực ngay, chị Linh tức tốc phóng xe đến. Vừa trình giấy đăng ký cần chứng thực, đã nghe anh cán bộ chỉ dẫn: "Cửa hàng phôtô gần đây nhất là 27 Nguyễn Bỉnh Khiêm, chị nhớ phôtô dư 1 bản để chúng em lưu hồ sơ." Sau khi đi phôtô, thêm chút thời gian chờ đợi, chị Linh cũng lấy được bản chứng thực để kịp trả đăng ký chính cho xe ô tô đi làm. Nhìn lên đồng hồ đã hết nửa ngày... Rút kinh nghiệm, lần chứng thực gần đây nhất, 9h30 ngày 24-6-2010, chị Linh quyết định tìm hẳn đến một địa bàn khác, phường Ô Chợ Dừa (quận Đống Đa). Cô nhân viên vừa ký nhận hồ sơ vừa nói: "Bây giờ chị mới đến thì không làm được, 14h chiều quay lại. Mọi người còn đi sớm từ 7h, 8h sáng, xếp số kia kìa. Một đống hồ sơ đang cần giải quyết, làm nhanh hay chậm phụ thuộc vào số bản sao nhiều hay ít, lãnh đạo ký có mặt hay không...".

Theo chị Nguyễn Thị Thu Hà, cán bộ Tư pháp phường Quang Trung: Lãnh đạo chính quyền cơ sở đã quá nhiều công việc phải giải quyết, họp hành liên miên nay kiêm nhiệm thêm việc ký văn bản chứng thực cũng là yếu tố khiến công việc này bị chậm trễ. Bên cạnh đó, sự thiếu thốn trang thiết bị phục vụ (như máy photocopy...) tại nhiều phường cũng khiến thời gian chờ đợi của người dân thêm dài. Việc không phôtô bản sao tại nơi chứng thực vừa làm mất thời gian đi lại của nhân dân, vừa kéo dài công đoạn kiểm tra, đối chiếu của cán bộ giải quyết hồ sơ chứng thực. Còn bà Thu Phương, Phó Chủ tịch phụ trách Văn xã UBND phường Ô Chợ Dừa cho biết rất thật là, hằng ngày phải "gồng mình" giải quyết lượng hồ sơ chứng thực xếp chồng đống lên bàn, nhiều khi bỏ cả cơm trưa ngồi ký văn bản. Có trường hợp người dân ở địa phương khác mang 1 tờ bản đồ A0 rộng bằng mặt bàn đến yêu cầu được chứng thực khiến cán bộ lâm vào cảnh "dở khóc dở cười" với điều kiện, hoàn cảnh làm việc của mình... Quy định người dân có thể tới bất cứ cơ quan thẩm quyền nào để yêu cầu chứng thực mà không phụ thuộc vào nơi cư trú cũng gây quá tải ở một số nơi tiện đường giao thông, cơ sở vật chất đầy đủ.

Việc ra đời các văn phòng công chứng tư cũng góp phần giải quyết các thủ tục hành chính của người dân. Hầu hết các quận trung tâm thành phố đều có ít nhất một văn phòng công chứng tư với nguồn nhân lực và trang thiết bị máy móc đáp ứng yêu cầu của ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, việc chứng thực bản sao lại đang nằm ngoài chức năng, quyền hạn của đơn vị này bởi "quy định thế".

Bà Nguyễn Thị Vân, phụ trách Văn phòng công chứng Hoàng Cầu (phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa) cho biết, quá trình công chứng các hợp đồng, giao dịch, có khách hàng muốn nhân tiện "sao y bản chính" một số văn bản nhưng văn phòng lại phải hướng dẫn họ đến UBND phường mặc dù đây là việc có thể làm được ngay. Mong muốn của bà Vân cũng như một số người phụ trách các văn phòng công chứng tư khác là "có thêm việc để làm". Luật Công chứng và Nghị định 79/2007 đã được thực thi gần 3 năm. Đã đến lúc cơ quan chức năng cần khảo sát, đánh giá về hiệu quả cũng như tồn tại trong quá trình triển khai để tiếp tục chỉnh sửa cho hoàn thiện, phù hợp với cuộc sống, tránh để người dân đi làm thủ tục hành chính ở bộ phận “một cửa” mà "nhọc" hơn đi làm đồng.