Trong buổi sáng ngày 18/01/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Người dân chưa hết xôn xao về việc đổi 50 triệu thẻ BHYT theo luật mới. Gần hơn là chuyện 3 triệu chủ thuê bao di động trả trước bị trùng dữ liệu CMND, hộ chiếu hết vía vì tuyên bố “cắt liên lạc” và “chuyển công an điều tra”. Trước đó là việc hàng triệu người lao động lo lắng mất 10% thu nhập do chưa được cấp mã số thuế cá nhân…
Không chuyên gia hành chính nào có thể khẳng định sắp tới sẽ chấm dứt cảnh cả xã hội xếp hàng làm thủ tục như vậy. Bởi thực tế là tất cả các ngành (nhất là công an) đang phải ban hành các quy định về quản lý căn cứ trên khá nhiều dữ liệu khả biến! Các dữ liệu về nơi ở, nơi làm việc, nơi đóng bảo hiểm, nơi thanh toán… luôn biến động. Nếu các công cụ quản lý được thiết kế theo nó thì dĩ nhiên sự lạc hậu, chồng chéo, sai lệch… luôn diễn ra, dẫn tới việc chuyển đổi không bao giờ ngừng lại.
Các nước phát triển có giải pháp khá đơn giản. Mỗi người ngay từ khi sinh ra đã được cấp một MÃ SỐ CÁ NHÂN, bao gồm những dữ liệu bất biến như người cha, người mẹ, nơi sinh, nhóm máu… Mã số này được các ngành liên quan sử dụng làm căn cứ để thiết kế các công cụ quản lý như quản lý thuế, mở tài khoản, cấp bằng lái xe, mở sổ an sinh xã hội, làm hộ chiếu v.v…
Ở Việt Nam chưa có một ngành nào đảm nhiệm việc cấp mã số cá nhân như thế. Chính vì không có một mã chuẩn nhưng do nhu cầu thực tế, các ngành vẫn cần công cụ quản lý nên mạnh ai nấy cấp dẫn tới hiện tượng các công cụ này thay đổi liên tục như trên. Thậm chí ngay cách thức quản lý nhân khẩu của ngành công an cũng bộc lộ hạn chế khi một người có thể có nhiều số CMND (do chuyển vùng), nhiều số hộ chiếu (do hết hạn) dẫn tới lúng túng cho các ngành khác khi lấy các số liệu này làm chuẩn.
Bất cập này đã bị phát hiện, song bế tắc về giải pháp khi ngành này không thừa nhận cơ sở dữ liệu của ngành kia, dẫn tới hiện tượng chiếc ví tiền của người dân giờ đây chứa đầy các loại thẻ mà giao dịch thì vẫn bất cập.
Mẫu giấy khai sinh mà Bộ Tư pháp đang quản lý tại sao không đánh số sê-ri như tiền và coi con số đó là CHUẨN đối với một con người để mà từ đó có một sự khởi đầu?
Báo cũng phản ánh: Một dự án bất động sản triển khai cần vốn từ vài trăm đến hàng ngàn tỉ đồng. Số tiền lớn này lâu nay doanh nghiệp xoay xở bằng vốn tự có, vay ngân hàng, huy động tiền góp mua nhà của khách hàng... Tuy nhiên, các hình thức xoay đồng vốn như trên vẫn không đảm bảo để một dự án triển khai thông suốt. Chính vì thế gần đây nhiều doanh nghiệp bất động sản đua nhau tìm vốn từ kênh chứng khoán.
Ông Bùi Tiến Thắng, Phó Tổng Giám đốc Công ty Bất động sản Sacomreal, cho biết gần như tất cả khách hàng mua trái phiếu dự án Phú Mỹ do doanh nghiệp phát hành năm 2008 đến nay đều sử dụng quyền ưu tiên để đăng ký mua căn hộ. Đây là thông tin đáng mừng cho doanh nghiệp, vì bước sang tháng 1-2010 mà khách hàng vẫn sử dụng quyền ưu tiên từ việc mua trái phiếu trên để tiếp tục mua căn hộ Belleza (tên mới của dự án căn hộ Phú Mỹ). Mừng ở đây là việc Sacomreal đã hút vốn cho các dự án bất động sản bằng phương thức chứng khoán hóa thành công. Lúc đó nhiều người nghi ngờ tính hiệu quả của công cụ tài chính này. Bởi lẽ nhiều khách hàng bỏ tiền mua trái phiếu Sacomreal khi ấy thực chất là mong được nhận quyền ưu tiên mua căn hộ Phú Mỹ với giá chiết khấu giảm 8%. Việc hút vốn cho các dự án bất động sản từ chứng khoán không chỉ Sacomreal mà gần đây rất nhiều doanh nghiệp khác áp dụng và cũng mang lại thành công lớn.
Mới đây, trong tháng 11-2009, Công ty Cổ phần Vincom phát hành 100 triệu USD trái phiếu chuyển đổi ra thị trường quốc tế để hút vốn cho các dự án bất động sản ở Hà Nội cũng thành công rực rỡ. Ông Lê Khắc Hiệp, Chủ tịch HĐQT Vincom, cho biết trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp là một sản phẩm tài chính phức tạp, do nó có đặc tính của trái phiếu lẫn cổ phiếu. Do trái phiếu chuyển đổi của Vincom có thể đổi sang cổ phần phổ thông và giá quy đổi được tính trên cơ sở giá đóng cửa của cổ phiếu Vincom niêm yết tại sàn TP.HCM.
Nhiều doanh nghiệp bất động sản bước đầu đã hút vốn được từ các sản phẩm chứng khoán nhưng cho đến nay hành lang pháp lý để khai thông luồng vốn từ chứng khoán cho nhà đất vẫn loay hoay. Tại hội thảo tìm giải pháp phát triển bền vững thị trường bất động sản Việt Nam do Hiệp hội Bất động sản TP.HCM tổ chức cuối tháng 12 vừa qua, ông Hồ Hữu Hạnh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP.HCM, chỉ ra “tử huyệt” của việc tắc vốn cho bất động sản nêu trên là ở chỗ thị trường này thiếu các sản phẩm tài chính phái sinh.
Việc ách tắc này cũng được Tiến sĩ Nguyễn Sơn, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường Ủy ban Chứng khoán chỉ ra. Ông Sơn cho biết đến nay, kênh nhà đất vẫn chưa có các sản phẩm tài chính kiểu như chứng khoán hóa các khoản vay bất động sản để niêm yết lên sàn, chứng khoán hóa bất động sản... Theo ông Sơn, hiện kênh chứng khoán chưa là bà đỡ tìm nguồn vốn cho thị trường nhà đất. Và việc thị trường bất động sản không có các sản phẩm tài chính phái sinh là vì còn thiếu hành lang pháp lý để vận hành. Từ chỗ trống cơ chế nên nhiều doanh nghiệp bất động sản hiện đang khát vốn. Thậm chí nhiều doanh nghiệp rất muốn phát hành trái phiếu kèm quyền mua bất động sản nhưng lại sợ trái luật.
Liên quan đến việc huy động vốn cho dự án bất động sản, Điều 39 Luật Nhà ở chỉ cho phép chủ đầu tư được huy động vốn khi dự án hoàn tất phần móng, còn Luật Kinh doanh bất động sản thì quy định chỉ được huy động vốn khi dự án triển khai hạ tầng kỹ thuật… “Còn việc phát hành trái phiếu kèm quyền mua bất động sản cho khách hàng hiện lại là đầu tư vốn. Và việc làm này đúng sai thế nào cơ quan quản lý vẫn còn bỏ ngỏ” - một doanh nghiệp bộc bạch.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Tròn 2 tháng sau khi Bộ Xây dựng có Công văn số 2544/BXD-QLN về việc thực hiện các quy định quản lý sử dụng nhà chung cư. Theo đó, các căn hộ chung cư sử dụng sai mục đích như chuyển đổi thành văn phòng, cơ sở sản xuất, kinh doanh là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, quy định này chưa được chính quyền các quận, huyện trên địa bàn Hà Nội quan tâm thực hiện vì… thiếu hướng dẫn và chế tài xử lý.
Theo khảo sát của PV báo Hànộimới, hiện nay các khu chung cư Trung Hòa, Nhân Chính, Yên Hòa, Trung Yên, Đền Lừ, Mỹ Đình, Linh Đàm - nơi tập trung nhiều công ty thuê làm trụ sở - vẫn chưa hề được ban quản lý khu nhà "hỏi thăm". Cũng hiếm có văn phòng nào chuyển đi sau khi Bộ Xây dựng ban hành lệnh công văn nêu trên. Hiện không ít hộ dân ở Khu đô thị (KĐT) Yên Hòa, Trung Hòa tỏ ra bất bình trước việc Ban quản lý tòa nhà phớt lờ yêu cầu của Bộ Xây dựng. Bà Nguyễn Thị Vui, sống ở phòng 703, tòa nhà F5, KĐT Yên Hòa, quận Cầu Giấy cho biết, ngay trong tầng 7, tòa F5 có một công ty thuê phòng 702 để kinh doanh gì thì không rõ vì biển hiệu toàn thấy tiếng nước ngoài. Công ty này bật máy chủ suốt từ sáng đến tối, gây tiếng ồn to, ảnh hưởng đến các hộ dân xung quanh nhưng không thấy Ban quản lý Công ty Xây dựng dân dụng (Sở Xây dựng) xử lý. Vì thế, nhiều gia đình nghi ngờ tính khả thi của việc cấm.
Những người dân sống ở khu nhà này cũng phàn nàn về tình trạng các công ty đến thuê làm văn phòng làm gia tăng sức ép lên hạ tầng cơ sở. "Thang máy lúc nào cũng đông, ồn ào, người ra vào tấp nập, người dân phải cảnh giác hơn, chịu phiền phức hơn và dễ bị căng thẳng hơn. Rồi chuyện nhiều lúc không có chỗ để xe máy đã khiến không ít người có cảm giác mình là công dân hạng 3"... anh Nguyễn Ngọc Tiến nói.
Về vấn đề này, luật gia Nguyễn Ngọc Thiều cho rằng, ông và một số "thầy cãi" cũng đã ngồi lại thử phân tích, nhưng thấy rất khó thực hiện. Để buộc các văn phòng, cơ sở kinh doanh, sản xuất trong các căn hộ chung cư thuê chỗ mới đâu phải đơn giản về mặt pháp lý. Vấn đề này còn liên quan đến hàng loạt các văn bản pháp quy khác, chẳng hạn Luật Doanh nghiệp (DN), nếu DN không sai phạm thì chẳng có lý do gì đóng cửa họ được cả... Còn nếu lấy lý do họ sử dụng sai mục đích căn hộ để ra quyết định buộc họ phải ngừng kinh doanh hoặc chuyển văn phòng đi chỗ khác, trong trường hợp họ không chấp hành thì phải cưỡng chế dưới hình thức nào cũng chưa được hướng dẫn. Hơn nữa, với tình trạng biến căn hộ thành cơ sở kinh doanh phổ biến như hiện nay thì không biết đến bao giờ mới chấn chỉnh cho xong. Trong khi đó văn bản của Bộ Xây dựng gửi 6 tỉnh, thành ngày 19-11- 2009 cũng không ghi cấm ngay hay đề ra một thời hạn cụ thể nào nên cũng mới có tình trạng các địa phương không chú trọng khâu hậu kiểm.
Là người chuyên thẩm định, rà soát các văn bản pháp luật, TS Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp cũng thẳng thắn nói, nội dung công văn số 2544/BXD-QLN có câu "một số căn hộ chung cư được chủ sở hữu chuyển đổi mục đích sử dụng từ nhà ở sang làm văn phòng, cơ sở sản xuất, kinh doanh là trái mục đích sử dụng". Nhưng "trái mục đích sử dụng" do văn bản nào quy định thì công văn lại không nêu được. Chính vì không giải thích rõ ràng nên những nơi nhận công văn là UBND các tỉnh TP: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An, Thanh Hóa "bí" khi tuyên truyền thực hiện... Theo ông Sơn, nếu sử dụng làm văn phòng ở nơi ít người qua lại, không gây ảnh hưởng hay tiếng ồn gì cả thì không cần thiết bắt đóng cửa. Với các cơ sở sản xuất, kinh doanh gây mất trật tự trị an, mất ổn định cuộc sống bình thường của người dân, dứt khoát phải đưa ra ngoài nhà chung cư. Song nếu sản xuất, kinh doanh nhỏ, chủ yếu phục vụ tại chỗ và được người dân đồng tình và thấy có lợi thì cũng không cần phải "bắt" người ta đóng cửa. Vấn đề là chính quyền địa phương phải vào cuộc, trước hết phải tuyên truyền, vận động, giúp người dân và ban quản lý tòa nhà phân biệt được trường hợp nào làm ảnh hưởng đến quyền sử dụng của những chủ sở hữu bất động sản liền kề để yêu cầu người ta ra hoặc có thể xử phạt đối với những hành vi đó. Nếu vẫn không được, việc xử lý đóng cửa, ngừng hoạt động là hoàn toàn đúng. Không chỉ vì nhu cầu một vài DN mà bỏ qua việc bảo đảm an toàn cho cả cộng đồng cư dân trong các tòa nhà.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Cục Quản lý nhà và Thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) vừa công bố, tổng diện tích nhà ở toàn quốc hiện đạt 1.080 triệu m². Tính bình quân diện tích nhà ở của cả nước năm 2009 là 12,5m²/người, tăng 0,5m²/người so với năm 2008.
Cùng với việc phát triển về nhà ở xã hội, các tỉnh, thành phố cũng tạo điều kiện, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các khu đô thị, các chung cư phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương để đáp ứng nhu cầu về nhà ở của người dân.
Hiện tại, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký đầu tư vào lĩnh vực bất động sản vẫn tiếp tục chiếm tỷ lệ cao. Vì vậy, trong năm 2010 ngành xây dựng sẽ tiếp tục thực hiện các chính sách xã hội hóa lĩnh vực nhà ở, phát triển đa dạng và phong phú các loại hình nhà ở nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và điều kiện thu nhập của mọi tầng lớp dân cư. Năm 2010, ngành xây dựng cũng đề ra mục tiêu đạt bình quân 14m² nhà ở/người.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Trang web của Thông tấn xã Việt Nam phản ánh: Trong hai ngày 14 và 15/1, tại Đà Nẵng, Cục Con nuôi (Bộ Tư pháp) đã tổ chức Hội thảo quốc tế với chủ đề “Bảo đảm quyền trẻ em và thực hiện việc nuôi con nuôi quốc tế tại Việt Nam”. Hội thảo là diễn đàn để các chuyên gia trong và ngoài nước chia sẻ kinh nghiệm trong việc bảo đảm quyền trẻ em, thông qua việc nuôi con nuôi quốc tế.
Theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Việt Nam hiện có khoảng 1.478.567 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó 85.193 trẻ em mồ côi không nơi nương tựa; 1.316.227 trẻ em khuyết tật, tàn tật; 21.903 trẻ em lang thang; 10.328 trẻ em bị nhiễm chất độc hóa học... Nhà nước đã thực hiện nhiều hình thức chăm sóc cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như gia đình nhận nuôi dưỡng, gia đình với bố mẹ nuôi mới (làng SOS, mô hình xã hội), nhận đỡ đầu, trợ cấp xã hội cho trẻ em sống tại cộng đồng và chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ xã hội. Hàng tháng, trên 90.500 trẻ em nhận được trợ cấp từ Nhà nước về kinh phí, y tế và giáo dục; 55,3% tổng số trẻ em mồ côi được cộng đồng và Nhà nước chăm sóc; hàng ngàn trẻ em đã được phẫu thuật sứt môi và hở hàm ếch, phẫu thuật mắt, tim bẩm sinh... Hệ thống dịch vụ phục hồi và tái hòa nhập cho trẻ đang được điều chỉnh để đảm bảo cho trẻ em có cơ hội hòa nhập với cộng đồng một cách tốt nhất. Thời gian tới, Nhà nước tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ tăng cường năng lực, điều kiện chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, gia đình cũng như nhận con nuôi trong nước. Theo các chuyên gia, việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài chỉ là giải pháp cuối cùng. Là nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em từ tháng 2/1990 và việc chuẩn bị gia nhập Công ước Lahay năm 1993 về Bảo vệ trẻ em và Hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, Việt Nam sẽ có một bước tiến lớn trong việc cải thiện quyền của trẻ em tại Việt Nam. Theo bà Jennifer Degeling, Thư ký Hội nghị Lahay về Tư pháp quốc tế, mục tiêu cao nhất của Công ước Lahay là bảo vệ lợi ích của trẻ em, đồng thời cũng là bảo vệ lợi ích của các bên khác trong việc nuôi con nuôi – cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Khi công ước được thiết lập sẽ tạo được một hệ thống hợp tác giữa các nước ký kết, đảm bảo việc tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em được công nhận trong luật pháp quốc tế và đẩy mạnh trách nhiệm chung của các nước vì việc nuôi con nuôi hợp đạo lý.
Ở Việt Nam hiện có 91/378 cơ sở nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được phép cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Trong quá trình toàn cầu hóa, vấn đề nhận con nuôi nước ngoài đã đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Để hạn chế tối đa tình trạng buôn bán trẻ em vì mục đích con nuôi, ông Nguyễn Công Khanh, Phó Cục trưởng Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp, cho biết một trong những nội dung cơ bản của Dự thảo Luật Con nuôi trình Quốc hội vào tháng 5/2010 là đưa ra quy định nghiêm cấm xử phạt đối với những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến mục đích, ý nghĩa nhân đạo của việc nuôi con nuôi như lợi dụng việc nuôi con để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục, mua bán trẻ em… Quá trình xây dựng và điều chỉnh về con nuôi của Việt Nam đi theo hướng tách bạch quyền nuôi dưỡng, quyền tiếp nhận viện trợ nhân đạo cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và quyền cho con nuôi. 2. Báo Hà Nội mới có bài Tổng kết 9 năm thực hiện pháp lệnh Thủ đô: Luật Thủ đô phải tạo điều kiện cho Hà Nội phát triển bứt phá. Bài báo phản ánh: Ngày 16-1, Bộ Tư pháp và UBND TP Hà Nội phối hợp tổ chức hội nghị tổng kết 9 năm thực hiện Pháp lệnh Thủ đô và thảo luận về dự thảo lần 3 Luật Thủ đô. Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị, Phó Chủ tịch Quốc hội (QH) Uông Chu Lưu, Phó Bí thư Thành ủy Tưởng Phi Chiến, Phó Chủ tịch UBND TP Vũ Hồng Khanh, Chủ tịch UB MTTQ TP Phạm Xuân Hằng cùng các thành viên Ban soạn thảo Luật Thủ đô, lãnh đạo các sở, ban, ngành, quận, huyện, thị xã thuộc TP tới dự và thảo luận. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường (Trưởng ban soạn thảo) và Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thế Thảo (Phó Trưởng ban Thường trực Ban soạn thảo) chủ trì hội nghị.
Báo cáo tổng kết 9 năm thực hiện Pháp lệnh Thủ đô đánh giá cao hiệu quả của văn bản này và đã tập trung phân tích về những hạn chế, khó khăn, vướng mắc liên quan. Trong đó, khó khăn lớn nhất là pháp lệnh chưa đủ "tầm", nên đã không tạo điều kiện cho Hà Nội thực hiện những biện pháp quản lý, tổ chức phù hợp với điều kiện mang tính đặc thù của mình. Những điều này đã được phân tích chi tiết trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Các đại biểu tham dự hội nghị đã bày tỏ sự đồng tình và thống nhất về tầm quan trọng, cũng là đòi hỏi tất yếu phải xây dựng Luật Thủ đô để tạo cơ sở pháp lý xứng đáng cho Thủ đô phát triển bền vững, xứng tầm và thực sự là "trái tim của cả nước".
Ban soạn thảo Luật Thủ đô sau khi được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập đã triển khai rất nhiều công việc cần thiết để xây dựng dự thảo luật. Nổi bật là đã phân tích, nghiên cứu, học tập các nước trên thế giới, đặc biệt là tình hình thực tế tại Hà Nội. Dự thảo lần 3 của Luật Thủ đô đưa ra lấy ý kiến tại hội nghị đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh Thủ đô, đồng thời có bổ sung, làm rõ nhiều vấn đề. Dự thảo luật gồm 7 chương, 59 điều. Điểm nổi bật là trong dự thảo, vấn đề văn hóa - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được đặt ra đầu tiên trước nhóm các vấn đề kinh tế. Ở mỗi mục như khoa học - công nghệ đều chia làm 3 phần: phần quy định chung, phần trách nhiệm của các cơ quan TP Hà Nội và phần trách nhiệm của các bộ, ngành TƯ. Dự thảo luật lần 3 đã làm nổi bật một số vấn đề có thể coi là "trao cơ chế đặc thù cho Hà Nội" như cho phép TP giữ lại 50% các khoản thu ngân sách và 100% số thu tăng so với dự toán TƯ giao; được phép ban hành một số quy định thưởng phạt, thi tuyển công chức, chế độ lương, nhập cư… khác với các địa phương khác. Song song với đó, dự thảo cũng làm rõ các quy định trách nhiệm liên quan. Điều dễ nhận thấy là đi kèm với cơ chế, chính sách đặc thù, có phần thuận lợi cho phát triển, quản lý, các cơ quan TP sẽ được giám sát chặt chẽ hơn, chịu trách nhiệm cao hơn.
Phát biểu tại hội nghị, Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu cho biết, ông đã rất trăn trở và mong muốn xây dựng được văn bản quy phạm pháp luật để tạo điều kiện cho Hà Nội phát triển nhanh, bền vững trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước ngày càng cao hiện nay. Hà Nội có rất nhiều tiềm năng và thế mạnh, từ văn hóa đến lịch sử, nhất là sau khi mở rộng. Nên Luật Thủ đô cần được xây dựng nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho Hà Nội phát huy được tốt nhất tiềm năng và thế mạnh để phát triển bứt phá. Việc soạn thảo cũng phải xác định rõ, Hà Nội là Thủ đô, trách nhiệm của TP là chính, nhưng các bộ, ngành, các tỉnh, thành cả nước cũng phải có trách nhiệm đóng góp, xây dựng Thủ đô. Do đó, cần thiết phải lấy ý kiến các bộ, ngành, các tỉnh, thành khác để tạo sự đồng thuận.
Đồng tình với quan điểm của Phó Chủ tịch QH, Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị khẳng định, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô rất vui mừng khi QH đưa Luật Thủ đô vào chương trình xây dựng pháp luật năm 2010. Nhưng để luật thực sự đi vào cuộc sống, đem lại lợi ích chung cho Thủ đô, cho cả nước, chất lượng tiếp tục phải là ưu tiên hàng đầu, cho dù thời gian không còn dài. Đồng chí lưu ý việc xây dựng những quy định mang tính đặc thù của Luật Thủ đô, khác với quy định chung, phải được thuyết minh sâu sắc, lập luận chặt chẽ, khoa học; phải phân định rõ ràng giữa cái chung và cái riêng, không tuyệt đối hóa, cũng không cường điệu hóa; quan trọng nhất là bảo đảm tính khả thi cao. Bí thư Thành ủy dẫn chứng một số việc cho thấy Thủ đô rất cần có cơ chế đặc thù, chẳng hạn quy định về tiêu chuẩn môi trường phải cao hơn: Ở các tỉnh khác, chặt 10 cây xanh có khi không bị phạt, nhưng ở Hà Nội, chỉ cần bẻ cành là phải bị phạt rồi… Đồng chí nhấn mạnh, quan điểm soạn thảo Luật Thủ đô cần quán triệt là tất cả vì cái chung, để xây dựng Thủ đô, "trái tim của cả nước", đô thị đầu não quốc gia, văn minh và hiện đại.
3. Báo An ninh Thủ đô phản ánh: (ANTĐ) - UBND TP Hà Nội vừa ban hành Kế hoạch kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn năm 2010.
Thủ trưởng các sở, ban, ngành chủ động rà soát các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) thuộc phạm vi quản lý. HĐND, UBND quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn tổ chức tự kiểm tra văn bản do mình ban hành và gửi kết quả về Sở Tư pháp để tổng hợp, báo cáo UBND TP. Thành phố sẽ lập Đoàn kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về công tác kiểm tra văn bản và công tác ban hành văn bản QPPL tại 13 quận, huyện, thị xã.
Trong 6 tháng đầu năm 2010, sẽ kiểm tra, rà soát tại các Sở Công thương, LĐ-TB&XH. 6 tháng cuối năm, sẽ kiểm tra tại các Sở TN-MT, Y tế, Xây dựng và GT-VT. Hà Nội cũng đặt kế hoạch rà soát các văn bản QPPL do HĐND, UBND TP Hà Nội (trước mở rộng) và tỉnh Hà Tây (trước đây) đã ban hành trước ngày 1-8-2008 đang còn hiệu lực thi hành.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Mua nhà sáu năm chưa được ở. Bài báo phản ánh: Người chiếm đoạt nhà có dấu hiệu phạm tội xâm phạm chỗ ở của công dân. Người bị thiệt hại trong trường hợp này là ông Lữ Linh Châu, ngụ TP Quy Nhơn, Bình Định.
Tháng 7-2004, ông Châu đã mua trúng đấu giá căn nhà 15A đường Tây Sơn, phường Quang Trung, TP Quy Nhơn do Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh bán để thi hành án. Tháng 3-2005, Đội Thi hành án dân sự (THADS)TP Quy Nhơn (nay là Chi cục THADS TP Quy Nhơn) đã cưỡng chế người phải thi hành án để giao nhà cho ông Châu. Nhưng vào khoảng 19 giờ cùng ngày, người phải thi hành án đã cắt khóa cửa sắt, chiếm đoạt nhà và ở cho đến nay.
Theo trình bày của ông Châu, ngay sau khi phát hiện vụ việc, ông đã báo ngay cho cơ quan chức năng nhưng không được giải quyết. Câu trả lời mà ông Châu nhận được chỉ là: “Các ngành chức năng chưa thống nhất điều luật làm căn cứ để xử lý trường hợp nói trên. Hiện Công an TP Quy Nhơn đang xem xét để tìm cách giải quyết, khi nào có kết quả thì UBND TP Quy Nhơn sẽ thông báo”.
Bà Trần Thị Bích Hợp, Chi cục trưởng Chi cục THADS TP Quy Nhơn, nói: Theo điểm 4 Điều 8 Nghị định 58/2009 của Chính phủ, tài sản đã được giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó đã ký nhận vào biên bản giao nhận tài sản nhưng sau đó bị đương sự chiếm lại thì cơ quan THADS không có trách nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản.
Về phía Cục THADS tỉnh, vào giữa năm 2009, cơ quan này có báo cáo đề xuất như sau: Người phải thi hành án rất ngoan cố, quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội đến cùng, tạo tiền lệ xấu trong công tác THADS trên địa bàn tỉnh. Do đó, đương sự cần bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, Công an TP Quy Nhơn vẫn chưa có ý kiến hồi đáp.
Về phía UBND TP Quy Nhơn, ông Dương Hiệp Hòa, Phó Chánh văn phòng UBND TP Quy Nhơn, cho biết: “Chúng tôi đã tổ chức nhiều cuộc họp với các đơn vị liên quan nhưng chưa tìm ra cơ sở để có thể xử lý hành chính hành vi chiếm dụng nhà trái phép. Chúng tôi đã chỉ đạo Công an TP điều tra, nghiên cứu để có thể đưa vụ việc ra xử lý hình sự”.
Báo cũng có bài Tỉnh chần chừ không thi hành án. Bài báo phản ánh: Tháng 12-2004, UBND huyện Phụng Hiệp (nay là thị xã Ngã Bảy, Hậu Giang) đã ra quyết định thu hồi hơn 6.000 m2 đất của ông Tống Văn Mười để thực hiện một dự án xây dựng khu trung tâm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở địa phương. Tháng 9-2005, UBND tỉnh Hậu Giang đã ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường thiệt hại. Dù thực tế bị thu hồi hơn 6.000 m2 đất nhưng theo quyết định này thì ông Mười chỉ được bồi thường 300 m2 đất với giá gần 40 triệu đồng. Sau đó, UBND tỉnh ban hành thêm hai quyết định phê duyệt phương án bổ sung kinh phí bồi thường thiệt hại và hỗ trợ thêm cho ông Mười 68 triệu đồng.
Không đồng ý, ông Mười khiếu nại. Tháng 2-2009, UBND tỉnh Hậu Giang ra quyết định giải quyết khiếu nại, bác yêu cầu đòi bồi thường tổng cộng hơn 6.000 m2 đất của ông Mười, đồng thời sửa đổi việc bồi thường 300 m2 đất trên sang bồi thường cho cha của ông. Song song đó, UBND tỉnh giải quyết cho ông Mười một nền tái định cư nhưng thu hồi 68 triệu đồng tiền đã hỗ trợ cho ông. Ông Mười khởi kiện UBND tỉnh. Đầu tháng 7-2009, TAND tỉnh Hậu Giang xử sơ thẩm đã nhận định UBND tỉnh ra quyết định phê duyệt bồi thường cho ông Mười 300 m2 đất là chưa phù hợp. Khi ông Mười khiếu nại thì UBND tỉnh ra quyết định giải quyết với nội dung sửa đổi việc bồi thường 300 m2 đất từ ông Mười sang cho cha của ông là không có căn cứ.
Hơn nữa, diện tích đất thực tế sử dụng của ông Mười không phù hợp với diện tích đất bị thu hồi. Chưa hết, trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất của ông Mười đã chưa được thực hiện đúng quy định của Luật Đất đai... Cuối cùng, tòa đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Mười, hủy một phần quyết định tháng 9-2005 của UBND tỉnh Hậu Giang về việc phê duyệt phương án bồi thường đất cho ông Mười.
Sau khi bản án hành chính sơ thẩm này có hiệu lực pháp luật, ông Mười đã nhiều lần làm đơn gửi đến UBND tỉnh Hậu Giang yêu cầu được thi hành án nhưng từ đó đến nay vẫn chưa hề được giải quyết. Ông kể nhiều lần nóng lòng quá, ông trực tiếp lên UBND tỉnh hỏi thì cũng chỉ nhận được những lời hứa hẹn chung chung là “chúng tôi đang xem xét”. Pháp luật về thi hành án đã quy định rõ ràng là chủ tịch UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án ở địa phương.
Như vậy, liệu lãnh đạo UBND tỉnh Hậu Giang đã thực thi đúng trách nhiệm khi không tôn trọng một bản án đã có hiệu lực pháp luật của tòa, gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của đương sự?
5. Báo Tuổi trẻ có bài Luật Bảo hiểm y tế và người nghèo. Bài báo phản ánh: Luật bảo hiểm y tế mới chính thức thực hiện được hơn nửa tháng nhưng đã xuất hiện nhiều lúng túng không dễ giải quyết xung quanh nó. Trong đó, “cùng chi trả” cho người nghèo như thế nào vẫn là một bài toán chưa biết bao giờ mới có lời giải.
Theo quy định của Luật bảo hiểm y tế mới, người già neo đơn, trẻ em trên 6 tuổi bị bỏ rơi, mồ côi, người nghèo, người dân tộc thiểu số đang sống ở vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nằm trong diện phải cùng chi trả 5% viện phí. Khỏi nói tính bất khả thi của quy định này, bởi khi luật chưa chính thức đi vào thực hiện, sở y tế và bảo hiểm xã hội các địa phương đã kêu trời về chuyện nhóm người già neo đơn, trẻ em bị bỏ rơi lấy đâu ra tiền để cùng chi trả mỗi khi đi khám chữa bệnh. Nếu yêu cầu trung tâm bảo trợ xã hội đang nuôi dưỡng họ chi trả thì đến nay cũng chưa có quy định để trung tâm lo 5% cho người già neo đơn, trẻ em bị bỏ rơi.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên, Bộ Tài chính, Bộ Y tế đã thống nhất phần cùng chi trả cho người già neo đơn, trẻ em bị bỏ rơi đang sống trong các trung tâm bảo trợ xã hội do ngân sách đảm nhận. Nghĩa là việc quy định yêu cầu họ cùng chi trả chỉ làm rắc rối thêm ở phần nguồn thu viện phí, gồm 95% do Quỹ bảo hiểm y tế chi trả, 5% do ngân sách nhà nước, nhưng cũng chưa rõ ngân sách sẽ trích qua trung tâm bảo trợ xã hội hay tách bạch trả cho bệnh viện khi có quyết toán chi phí khám chữa bệnh của từng trường hợp.
Với nhóm người nghèo, người dân tộc thiểu số, Nhà nước đã phải dành ngân sách mua thẻ bảo hiểm y tế cho họ, nay phải chi trả 5% viện phí khám chữa bệnh thì quả cũng là không tưởng với người nghèo mắc bệnh mãn tính, bệnh có chi phí điều trị lớn, thời gian kéo dài. Lại một lần nữa, hướng ra được đề nghị là ngân sách nhà nước. TP.HCM là địa phương đi đầu khi Sở Y tế đã có văn bản gửi UBND TP, đề nghị ngân sách hỗ trợ 5-15% viện phí cho người nghèo, người cận nghèo đang phải chạy thận nhân tạo.
Nhìn vào chính sách bảo hiểm y tế từ năm 2006 trở lại đây, điều dễ thấy nhất là sự trái chiều của chính sách. Lúc mở hết cỡ, thanh toán 100% chi phí cho nhiều nhóm người bệnh, ai có bệnh mới mua bảo hiểm y tế tự nguyện cũng được thanh toán. Lúc lại muốn mua bảo hiểm y tế tự nguyện phải mua cả gia đình hoặc người nghèo, người sống trong trung tâm bảo trợ xã hội cũng phải cùng chi trả phí khám chữa bệnh.
Theo đại diện Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, Luật bảo hiểm y tế quy định cùng chi trả cho nhiều nhóm đối tượng nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng Quỹ bảo hiểm y tế, chống bội chi, đó cũng là cách để chính sách xã hội hiệu quả khi thực hiện. Tuy nhiên, chính sách xã hội chỉ bền vững khi nó khả thi và phù hợp với khả năng của dân chúng, nếu không sẽ làm phát sinh các vấn đề xã hội khó giải quyết như chuyện kêu cứu của nhiều người nghèo suy thận mãn, đái tháo đường, ung thư, bệnh về máu... không có khả năng cùng chi trả viện phí. Trao đổi với báo giới trước các rắc rối kể trên, Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội VN đều cho rằng các địa phương phải lo cho người nghèo của mình. Đúng là như vậy, nhưng những địa phương nghèo khó như Lai Châu, Điện Biên, Bắc Kạn... sẽ lấy đâu ra tiền để lo cho người nghèo? Luật muốn hiệu quả phải rõ ràng từng chi tiết nhỏ, nhưng Luật bảo hiểm y tế lại thiếu những quy định chi tiết này.