Điểm tin báo chí sáng ngày 06 tháng 7 năm 2010

06/07/2010
Trong buổi sáng ngày 06/7/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Điện tử Chinhphu.vn phản ánh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ký các quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại có thời hạn 5 Thứ trưởng các Bộ: Giáo dục và Đào tạo, Tài chính, Nội vụ, Tư pháp và Y tế. Thủ tướng quyết định điều động, bổ nhiệm có thời hạn ông Bùi Văn Ga, Giám đốc Đại học Đà Nẵng, giữ chức Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; ông Trương Chí Trung, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn, được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Tài chính. Ông Nguyễn Thái Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Trà Vinh, được Thủ tướng Chính phủ quyết định điều động, bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng, kiêm Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Nội vụ.

Thủ tướng bổ nhiệm lại có thời hạn bà Nguyễn Thị Xuyên giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế; ông Đinh Trung Tụng giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp.

Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định về việc ông Trần Ngọc Cảnh, Ủy viên Thường trực Ban Chỉ đạo Nhà nước các dự án trọng điểm về dầu khí, nghỉ hưu theo chế độ từ ngày 1/7/2010.

Báo cũng có bài: Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xem xét, kết luận hơn 45 vụ việc. Bài báo phản ánh: Kỳ họp thứ 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương (UBKT TW) từ ngày 21/6 đến 3/7/2010 đã thảo luận, xem xét, kết luận hơn 45 vụ việc.

Dưới sự chủ trì của ông Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban, kỳ họp đã kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với 2 tổ chức đảng và 6 đảng viên, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đối với 3 tổ chức đảng.

Kỳ họp cũng đã giải quyết tố cáo đối với 2 cấp ủy và 10 cán bộ diện Trung ương quản lý, giải quyết khiếu nại 4 trường hợp, kiểm tra tài chính đối với 3 đơn vị và các công việc khác.

Kết quả kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với ông Nguyễn Trường Tô, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang cho thấy từ năm 2005 đến nay, ông Nguyễn Trường Tô đã thiếu gương mẫu trong sinh hoạt, sống buông thả, quan hệ không lành mạnh, vi phạm nghiêm trọng tư cách cấp ủy viên, đảng viên, gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh người cán bộ lãnh đạo, gây dư luận bất bình trong Đảng và xã hội.

UBKT TW đề nghị Ban Bí thư cách hết các chức vụ trong Đảng của ông Nguyễn Trường Tô và đề nghị cấp có thẩm quyền bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân và cách chức Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang. Ông Bí thư Tỉnh ủy và ông Giám đốc Công an tỉnh Hà Giang phải kiểm điểm trước Tỉnh ủy về việc biết những sai phạm của ông Tô từ năm 2005 nhưng không báo cáo tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét giải quyết.

Kết quả kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với ông Phạm Thanh Bình, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (VINASHIN) cho thấy, ông Phạm Thanh Bình đã thiếu trách nhiệm trong việc huy động, quản lý, sử dụng tiền vốn nhà nước tại Tập đoàn này, gây hậu quả nghiêm trọng khiến VINASHIN bên bờ vực phá sản.

Những sai phạm của ông Phạm Thanh Bình trong huy động, quản lý, sử dụng tiền vốn của Nhà nước là do thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái và có biểu hiện vụ lợi cá nhân, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội; các khoản nợ rất lớn, mất khả năng thanh toán, đến nay, nợ quá hạn và đến hạn không có khả năng thanh toán lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng, hơn 5.000 lao động không có việc làm; các khoản nợ lương và bảo hiểm xã hội lên đến 234 tỷ đồng.

UBKT TW quyết định thực hiện quy trình kiểm điểm, xử lý kỷ luật đối với ông Phạm Thanh Bình, đề nghị Chính phủ xem xét trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan đối với những vi phạm của VINASHIN và chỉ đạo các ngành chức năng đánh giá toàn diện, đúng thực chất đối với VINASHIN, từ đó rút kinh nghiệm đối với các tập đoàn khác. Ủy ban cũng yêu cầu các tập đoàn kinh tế khác cần chủ động tự kiểm tra, tự xem xét, đánh giá đầy đủ, chính xác kết quả sản xuất, kinh doanh báo cáo trước ngày 31/8/2010 để UBKT TW tiếp tục giám sát.

Kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Yên Bái trong lãnh đạo, chỉ đạo và xem xét, xử lý các tổ chức, cá nhân có vi phạm liên quan đến 15 vụ việc nổi cộm, bức xúc, dư luận quan tâm, UBKT TW kết luận Ban Thường vụ Tỉnh ủy Yên Bái đã buông lỏng lãnh đạo, chưa chỉ đạo xử lý dứt điểm, triệt để các vụ việc nổi cộm, để nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm, trong đó có một số cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý chưa được xem xét, xử lý kịp thời, gây dư luận bất bình.

UBKT TW yêu cầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy Yên Bái kiểm điểm, chỉ đạo xử lý dứt điểm nghiêm túc các tổ chức, cá nhân vi phạm, phục vụ tốt cho công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ tỉnh.

Kết quả kiểm tra Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Quảng Ninh về quản lý, khai thác, kinh doanh than giai đoạn 2004-2008 cho thấy, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn trên đã buông lỏng quản lý, không kịp thời đề ra các biện pháp ngăn chặn có hiệu quả, để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lợi dụng khai thác tận thu, buôn lậu than với khối lượng lớn, làm thất thoát tài nguyên, thiệt hại kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội và môi trường.

Từ năm 2008, UBND tỉnh đã có những biện pháp khắc phục tích cực, đến nay tình hình có cải thiện nhưng vẫn chưa ổn định. UBKT TW yêu cầu Bí thư Ban cán sự Đảng UBND tỉnh Quảng Ninh nhiệm kỳ 2004-2008 và các cá nhân liên quan nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với các cơ quan giúp việc, Công an, Hải quan, doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan khác.

UBKT TW xem xét, kết luận giải quyết tố cáo đối với 12 cá nhân, gồm: Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam; Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Bí thư Tỉnh ủy Tiền Giang; Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình; Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam; các đồng chí: Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị; Tổng Giám đốc; Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam (Bộ Xây dựng); các đồng chí: Bí thư Tỉnh ủy; Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh; Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau. Qua giải quyết thư tố cáo, ở mức độ khác nhau, đồng chí nào cũng có khuyết điểm, có đồng chí phải làm quy trình xử lý kỷ luật.

Ngoài ra, Ủy ban cũng đã kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với 3 cán bộ Ban Thường vụ Tỉnh ủy và UBND tỉnh Trà Vinh có liên quan đến việc giao cấp nhà, đất, kê khai tài sản; xem xét trách nhiệm đối với 4 cán bộ có liên quan đến dự án Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ. Ủy ban kết luận các cán bộ trên đều có khuyết điểm về trách nhiệm hoặc vi phạm nhưng chưa đến mức phải xử lý, thi hành kỷ luật.

2. Báo Pháp luật và xã hội có bài Chọn quốc hoa cho dân… vui! Bài báo phản ánh: Liên quan đến chuyện “quốc hoa của Việt Nam”, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, GS-TS Tô Ngọc Thanh, phát biểu:

“Chọn quốc hoa là chuyện vui cho toàn dân, không cứ chọn ở thời điểm nào. Cuộc sống có thứ này thứ kia, nếu làm cho nhân dân vui, tôi nghĩ nên làm, không phải mình bày vẽ. Đúng là không có quốc hoa thì chẳng chết ai nhưng con người luôn hướng tới chân-thiện-mỹ. Quốc hoa mà làm cho đời thêm tươi thì sao ta phải từ chối. Hơn nữa, bây giờ khác rồi, không còn sống trong thời đói kém nữa”.

Quan điểm “vui là chính” của GS-TS Tô Ngọc Thanh quả là… vui. Làm cho dân vui được thì là việc quá tốt, chính phủ nào chẳng muốn. Chỉ có một điều hơi gờn gợn là hình như sáng kiến quốc hoa ngay từ đầu đã đều do các nhà quản lý, lãnh đạo đề xướng chứ người dân có khởi xướng hay tham gia hồi nào mà vui. Như chính họa sĩ Vi Kiến Thành, Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm - nơi được Bộ VH-TT&DL giao soạn thảo đề án quốc hoa đã nói với báo chí: “Các đồng chí lãnh đạo và bên ngoại giao đều nói thực sự cần quốc hoa, quốc phục. Bên ngoại giao giục “làm thế nào chọn được quốc hoa sớm ngày nào tốt ngày đó”.

Tóm lại, sáng kiến vẫn… từ lãnh đạo mà ra, nói cách khác, vấn đề là lãnh đạo thích (cũng tương tự như ý định xây dựng năm cổng chào lớn ở Hà Nội) chứ không phải là nhu cầu của dân. Còn về phía người dân, chỉ đứng ngoài nhưng lại cứ luôn được đưa ra để làm bung xung thì vui vẻ gì, có chăng thì cũng chỉ “vui là vui gượng kẻo mà”.

Người dân cần những niềm vui thật sự. Khi nào được như thế sẽ có các sáng kiến để làm cho đời thêm tươi.

 II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Người lao động có bài Giám sát tài sản Công ty TNHH Lucky VN. Bài báo phản ánh: Ngày 5-7, LĐLĐ quận Bình Tân - TPHCM đã có công văn khẩn gửi Thường trực LĐLĐ TP, Quận ủy và UBND quận Bình Tân, báo cáo tình hình Công ty TNHH Lucky VN (100% vốn Hàn Quốc, chuyên may thú nhồi bông)

Công văn nêu rõ: Mới đây, Chi cục Thi hành án Dân sự quận Bình Tân –TPHCM đã phối hợp cưỡng chế kê biên tài sản công ty để bảo đảm thi hành án với số tiền gần 2 tỉ đồng do nợ bảo hiểm xã hội.

 Sau khi tiến hành kê biên, Chi cục Thi hành án Dân sự quận đã hướng dẫn công ty tiếp tục sản xuất để giải quyết nợ lương tháng 6 và các chế độ chính sách cho công nhân (CN). Tuy nhiên, từ ngày 26-6 đến nay, dù đã ngưng hoạt động nhưng công ty không hề thông báo, gây hoang mang lo lắng trong tập thể CN. Từ ngày 28-6 đến nay, giám đốc công ty là ông Kolk Ralph không đến làm việc. 

 Để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của CN, LĐLĐ quận Bình Tân đề nghị UBND quận chỉ đạo Công an quận, Phòng LĐ-TB-XH quận và UBND phường Tân Tạo tham gia giám sát tài sản doanh nghiệp; đồng thời làm việc với ban giám đốc nhằm giải quyết lương và các chế độ khác cho CN khi doanh nghiệp ngừng hoạt động.

2. Báo Hà Nội mới có bài: Nhiều địa phương khó thi hành án. Bài báo phản ánh: Ông Nguyễn Văn Luyện, quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự (THADS) cho biết, tính đến hết tháng 6-2010, số vụ việc tồn đọng từ khi chuyển giao công tác THADS từ tòa án sang Chính phủ quản lý còn 298.622 việc. Trong đó, số có điều kiện thi hành là 124.835 việc, số chưa có điều kiện thi hành là 173.787 việc. So với năm 2009, số án tồn đọng chuyển sang 6 tháng cuối năm 2010 có chiều hướng gia tăng.

Có nhiều nguyên nhân giải thích cho thực trạng này. Đơn cử, tại Hà Nội, không ít việc liên quan đến trả đất, giao nhà, cứ gần đến ngày tiến hành cưỡng chế thì cơ quan THA lại nhận được văn bản đề nghị hoãn thi hành 3 tháng của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, hết thời hạn đó, cơ quan có thẩm quyền cũng không nói rõ hướng xử lý để tiến hành THA tiếp.

Ở Hải Phòng, THADS Hải Phòng đang "mắc" với hơn 3.000 án ma túy thực sự không thể có điều kiện thi hành và hơn 1.400 việc không biết đối tượng THA ở đâu mà tìm. Tại TP Hồ Chí Minh, án phí trong án hình sự là một trong những loại việc tồn đọng nhiều nhất hiện nay chưa có biện pháp tháo gỡ.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Ngày 15-7, TP.HCM trả lời khiếu nại của các hộ dân khu Eden. Bài báo phản ánh: Văn phòng UBND TP.HCM vừa có văn bản thông báo về việc giải quyết phản ánh, khiếu nại của các hộ dân trong dự án tại khu tứ giác Eden (quận 1, ảnh).

Theo đó, Thường trực UBND TP.HCM đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường cùng Sở Tư pháp hoàn chỉnh dự thảo trả lời từng nội dung cụ thể đi kèm cơ sở pháp lý những phản ánh, khiếu nại của người dân. Sở Tư pháp sẽ có ý kiến thẩm định dự thảo để trình TP chậm nhất là ngày 10-7. Đến 15-7, UBND TP.HCM sẽ ký văn bản trả lời các hộ dân. UBND quận 1 có trách nhiệm thông báo với các hộ dân về quá trình giải quyết của TP, đồng thời yêu cầu các hộ dân không nên tụ tập đông người trước trụ sở UBND TP.HCM.

Theo báo cáo của Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng quận 1, tính đến ngày 5-7 đã có 89/200 hộ dân trong dự án khu Eden ký biên bản tự nguyện di dời. Ngoài ra, có 34/35 tổ chức, đơn vị đã bàn giao mặt bằng. Được biết, tổng dự toán bồi thường hỗ trợ cho 200 hộ dân là hơn 522 tỉ đồng, cho 20 tổ chức là hơn 973 tỉ đồng.

4. Báo Điện tử Giadinh.Net có bài "Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Bài báo phản ánh: Ngày 30/6/2010, Bộ Tài chính tiếp tục có Công văn số 8409/BTC-TCHQ trả lời về việc xử lý số xe ô tô hiệu Kia Morning và Daewoo Matiz nhập khẩu khai là xe tải VAN.

Trước đó, Bộ này cũng đã có nhiều công văn kết luận, xử lý vụ việc này song các doanh nghiệp nhập khẩu xe vẫn "không xuôi". Theo các doanh nghiệp, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) đã có văn bản khẳng định việc truy thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại xe tải VAN của Bộ Tài chính là không đủ cơ sở pháp lý. Công ty TNHH TM Thiên Phúc An Auto đã xin trưng cầu giám định 8 mẫu xe tại Viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) chứng nhận các loại xe công ty đã nhập đúng là xe tải VAN.

"Phản pháo" sát sàn sạt, tại Công văn 8409, Bộ Tài chính khẳng định: "Cho đến nay Bộ chưa nhận được văn bản nào của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này. Nên phản ánh của các doanh nghiệp là không đúng". Mặt khác, theo Bộ Tài chính, việc trưng cầu giám định hoàn toàn là do doanh nghiệp tự làm, trình tự thủ tục, mẫu giám định, nội dung yêu cầu giám định không phù hợp yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan. Do vậy, kết luận giám định đó, Bộ Tài chính không thể sử dụng khi xem xét giải quyết vụ việc.

Xin không bàn về tính đúng sai của một vụ việc đã từng gây tranh cãi suốt từ tháng 5/2009 đến nay. Cũng xin không bàn về chuyện lô xe kia là xe chở người hay xe tải VAN. Cái mà dư luận thấy không ổn ở đây chính là cách hành xử của các bên. Trong khi coi các kết luận của Tổng cục Hải quan (cơ quan trực thuộc) mình đúng, Bộ Tài chính lại không coi là kết luận của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an là… hợp lý?! Trong khi chấp nhận sử dụng các thông tin từ phía Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính lại không chấp nhận sử dụng kết quả giám định của Viện KHHS, Bộ Công an?!

Ai cũng biết, về mặt nguyên tắc, các kết luận của Viện KHHS, Bộ Công an hoàn toàn có thể được coi là một "phán quyết" khoa học, có thể sử dụng hoặc tham khảo khi giải quyết vụ việc. Ai cũng biết, các giám định viên là người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính đúng đắn trong các kết luận giám định mà mình đưa ra. Vậy nên, nếu cứ tiếp tục cái kiểu "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", mỗi bên đưa ra một thứ chứng lý, không ai thừa nhận ai thì chắc vụ việc này khó đi đến hồi kết.

5. Báo điện tử Diễn đàn doanh nghiệp có bài Nghị định 87/2009/NĐ-CP: “Sáng tạo” trong làm Luật?. Bài báo phản ánh: Đó là băn khoăn của giới doanh nghiệp đối với Nghị định 87/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về vận tải đa phương thức. Hàm ý chỉ cách “định nghĩa” lạ đời của Nghị định. Năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 125/2003/NĐ - CP về vận tải đa phương thức quốc tế. Điều 2 của nghị định này định nghĩa: “Vận tải đa phương thức quốc tế” (sau đây gọi tắt là vận tải đa phương thức) là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau trên cơ sở một hợp đồng vận tải đa phương thức từ nơi người kinh doanh vận tải đa phương thức tiếp nhận hàng hóa ở một nước đến một địa điểm được chỉ định giao trả hàng ở nước khác. Đây là định nghĩa có tham khảo Công ước Quốc tế về vận tải đa phương thức và ý kiến của các doanh nghiệp tại Việt Nam.

Tháng 11/2005, Việt Nam ký Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương thức. Dĩ nhiên, mục đích tham gia Hiệp định phải là nhằm tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích phát triển loại hình vận tải đa phương thức trong khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng. Tới ngày 19/10/2009, Chính phủ ban hành Nghị định 87/2009/NĐ - CP về vận tải đa phương thức, và bãi bỏ Nghị định 125. Nghị định 87/2009/NĐ - CP đã đưa ra định nghĩa mới về vận tải đa phương thức. Theo đó, vận tải đa phương thức “là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau trên cơ sở hợp đồng vận tải đa phương thức”. Từ định nghĩa này, Nghị định 87/2009/NĐ - CP tiếp tục chia thành hai loại hình vận tải đa phương thức. Trong đó, một là vận tải đa phương thức quốc tế với định nghĩa “là vận tải đa phương thức từ nơi người kinh doanh vận tải đa phương thức tiếp nhận hàng hóa ở Việt Nam đến một địa điểm được chỉ định giao trả hàng ở nước khác và ngược lại”. Và hai là: vận tải đa phương thức nội địa với định nghĩa “là vận tải đa phương thức được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”. Kèm theo là các quy định quản lý với từng loại hình vận tải ấy. Vấn đề là ở chỗ, theo Công ước vận tải đa phương thức quốc tế do Liên hiệp quốc ban hành, và Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương thức mà Việt Nam đã tham gia, thì không có loại hình vận tải đa phương thức nội địa. Theo khẳng định của Hiệp hội Giao nhận Kho vận Việt Nam (VIFFAS), hiện cũng chưa quốc gia nào trên thế giới có quy định về “vận tải đa phương thức nội địa”. Hay nói cách khác là các nhà làm luật Việt Nam đã “sáng tạo” ra loại hình vận tải này.

Tại sao lại phải “sáng tạo” ra loại hình vận tải đa phương thức nội địa, trong khi ngành dịch vụ vận tải Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với thế giới? Đó là câu hỏi đặt ra từ nội dung của Nghị định 87/2009/NĐ - CP. Theo khảo sát của VIFFAS, ước tính cả nước hiện có khoảng 1.200 doanh nghiệp đang hoạt động, kinh doanh các dịch vụ vận tải đa phương thức. Tuy nhiên, đa số đều là các doanh nghiệp nhỏ. Do vậy, dù số lượng đông, nhưng doanh nghiệp Việt hiện nắm chưa tới 30% thị phần dịch vụ vận tải đa phương thức cả nước. Thế nên, nếu “sáng tạo” ra loại hình vận tải đa phương thức nội địa, thì dường như ý định của các nhà làm luật là muốn hỗ trợ doanh nghiệp trong nước bằng cách chia tách các loại hình vận tải đa phương thức. Để từ đó ngăn sự áp đảo của các doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường trong nước, đặc biệt khi Việt Nam đã tham gia công ước quốc tế và hiệp định khu vực về vận tải đa phương thức.

Nhưng giải thích này là không thuyết phục. Vì ngày 15/3/2010, Bộ Tài chính ban hành Công văn 3055/BTC-TCT về thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với vận tải quốc tế. Theo đó, thì các hợp đồng vận tải quốc tế, bao gồm cả chặng vận tải nội địa… đều được hưởng mức thuế GTGT là 0%. Trong khi đó thì hiện tất cả các hợp đồng vận tải trong nước, kể cả theo hình thức đa phương thức, hiện đều phải chịu thuế GTGT từ 5 - 10%. Như vậy, về nguyên tắc, vận tải đa phương thức nội địa đã bị thiệt so với vận tải đa phương thức quốc tế. Mặt khác, nếu doanh nghiệp trong nước được thuê vận tải hàng hóa quốc tế chặng nội địa, thì đương nhiên thuế GTGT tại hóa đơn do doanh nghiệp vận tải trong nước xuất ra sẽ hoàn lại cho người thuê. Như vậy, không những doanh nghiệp có hợp đồng vận tải đa phương thức quốc tế đã không mất thuế GTGT, mà ngược lại còn được hoàn thuế cho những chặng vận tải thuộc nội địa. Nói cách khác là, khi ban hành Nghị định 87/2009/NĐ - CP để đáp ứng điều kiện của Công ước quốc tế và hiệp định vận tải đa phương thức khu vực, vô tình phần thiệt đã bị đẩy về phía các doanh nghiệp vận tải đa phương thức nội địa.

Đồng ý là, phải đảm bảo thực thi với cam kết, điều ước khu vực, quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Trong đó có cam kết về thuế với vận tải đa phương thức. Nhưng cũng không thể thực hiện cam kết theo kiểu “sáng tạo” ra loại hình vận tải đa phương thức nội địa, khiến cho doanh nghiệp nội càng thêm thiệt!