I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Điện tử Doanhnhan360.com.vn có bài Luật Trọng tài thương mại: Chưa thể “mở” hết. Bài báo phản ánh: Thẩm quyền của trọng tài được “mở” đến mức nào vẫn là vấn đề gây nhiều băn khoăn khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận về dự án Luật Trọng tài thương mại, sáng 18/1.
Đây cũng là nội dung còn có tới ba loại ý kiến khác nhau khi Quốc hội xem xét dự luật này tại kỳ họp thứ sáu vừa qua. Thường trực Ủy ban Tư pháp và cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật đều tán thành với loại ý kiến thứ nhất.
Đó là, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có liên quan đến hoạt động thương mại và tranh chấp giữa các bên phát sinh không từ hoạt động thương mại nhưng được quy định ở luật khác.
Để đạt được sự đồng thuận này, theo Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam Phạm Quốc Anh thì hai cơ quan, “đã tranh luận rất nhiều”.
Còn theo Ủy ban Tư pháp, quy định như vậy là tương đối rộng, khắc phục được hạn chế về phạm vi thẩm quyền quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Hơn nữa, ở nước ta, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chưa phổ biến và chưa được nhiều người biết đến. Hơn 6 năm qua mới có 280 vụ việc được giải quyết bằng trọng tài, 3/7 trung tâm trọng tài đã được thành lập chưa giải quyết bất kỳ một vụ việc nào. Khả năng và uy tín chuyên môn của một số trọng tài viên chưa đáp ứng được yêu cầu. Đây cũng là lý do chính khiến nhiều ý kiến đồng tình chỉ “mở” thẩm quyền của trọng tài như đã nói trên và cần phải có quy định cụ thể về tiêu chuẩn của trọng tài viên.
Đại diện Ban soạn thảo dự luật cũng giãi bày, muốn mở rộng hơn thẩm quyền của trọng tài nhưng uy tín của trọng tài còn hạn chế. “Phạm vi như vậy là đã mở, không thể mở hết cỡ. Nếu mở hơn ra Quốc hội cũng khó mà thông qua được. Vấn đề then chốt nhất vẫn là nâng cao chất lượng trọng tài viên”. Chủ tịch Hội Luât gia Phạm Quốc Anh phát biểu.
Ngoài nội dung trên, thẩm quyền của hội đồng trọng tài thu thập chứng cứ và tòa án hỗ trợ hội đồng trọng tài thu thập chứng cứ cũng là vấn đề được tập trung thảo luận. Trên thực tế có nhiều vụ tranh chấp hội đồng trọng tài cũng không thể yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức khác (không phải là các bên đương sự tranh chấp) đang giữ các chứng cứ phải giao nộp, cung cấp cho hội đồng trọng tài. Vì vậy cần quy định tòa án hỗ trợ hội đồng trọng tài thu thập chứng cứ trong trường hợp này, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Thu Ba nói.
Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc đề nghị quy định chặt chẽ điều kiện hủy yêu cầu phán quyết trọng tài, để phương thức giải quyết tranh chấp qua trọng tài có thể phát huy được tác dụng.
2. Báo Điện tử Tuanvietnam.net có bài Dồn nhà cao tầng vào nội thành: Sức ép từ đâu? Bài báo phản ánh: UBND TP Hà Nội vừa có văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét việc cho hơn 200 dự án công trình xây dựng nhà cao tầng tại 4 quận nội thành được tiếp tục xây dựng.
Ngày 9/12/2009, Văn phòng Chính phủ đã có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ số 348/TB-VPCP: "...Yêu cầu UBND TP Hà Nội chỉ đạo dừng ngay việc phá các nhà biệt thự cũ và xây dựng các tòa nhà cao tầng tại khu vực trung tâm. Đối với các khu chung cư cũ, khi cải tạo cần thực hiện chủ trương bảo đảm nghiêm ngặt các yêu cầu quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng đô thị như: Mật độ xây dựng, tỷ lệ đất dành cho giao thông, cây xanh... để từng bước hoàn thiện văn minh đô thị hiện đại." Ngay sau đó, UBND TP Hà Nội đã có văn bản yêu cầu dừng các dự án xây nhà cao tầng trong nội thành. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau, UBND TP lại có văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ nới lỏng "lệnh cấm" với lý do trước thời điểm ngày 9/12/2009, nhiều dự án đang thực hiện, "nếu dừng lại không cho triển khai thực hiện sẽ gây lãng phí, thiệt hại không nhỏ về tài chính và phát sinh phức tạp xã hội...". Tháng 6/2010 Hà Nội rà soát trong 4 quận nội thành cũ (khoảng 3.400ha), có 223 dự án nhà cao tầng đang triển khai đã bị đình lại, cụ thể quận Đống Đa (91 dự án), Ba Đình (60 dự án), Hai Bà Trưng (53 dự án) và Hoàn Kiếm (19 dự án). Ngày 11/6/2010, trong văn bản 4280, gửi Thủ tướng Chính phủ, UBND TP Hà Nội đề xuất cách giải quyết đối với 223 dự án trên theo 3 loại khác nhau: Loại một có 60 dự án, kiến nghị cho tiếp tục triển khai ngay do phù hợp quy hoạch, đã hoàn tất đầy đủ các thủ tục về tài chính, đất đai, quy hoạch - kiến trúc, đầu tư... được đánh giá là mang tính bức thiết trong phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Loại hai có 120 dự án, kiến nghị cho hoàn thiện hồ sơ pháp lý và tiếp tục triển khai phù hợp quy hoạch và đang hoàn thành thủ tục đầu tư xây dựng. Loại ba là các dự án còn lại, tiếp tục xem xét rà soát, đảm bảo định hướng phân vùng kiểm soát phát triển không gian khu vực đô thị trung tâm.
Trong văn bản cũng đề xuất định hướng không gian: cao tầng từ phía ngoài vào trong, phát triển (các công trình cao tầng) theo các trục giao thông lớn vành đai và xuyên tâm, các nút giao thông, các điểm nhấn... Như vậy công trình cao tầng trong 4 quận nội thành cũ có thể xem xét, cấp phép xây dựng không dừng lại ở con số vài trăm. Các công trình cao tầng xây dựng trong khu nội thành Hà Nội cũ, vốn được quy hoạch cho số dân và các công trình hạ tầng kỹ thuật hạn chế gia tăng áp lực mọi mặt đã được khẳng định trong nhiều năm nay. Lịch sử phát triển đô thị Hà Nội, nhiều sơ đồ quy hoạch lập tại các giai đoạn khác nhau nhưng đều có nội dung thống nhất là hạn chế xây dựng công trình cao tầng tại khu vực 4 quận nội thành.
Bản Quy hoạch chung Hà Nội được phê duyệt tại quyết định 108/1998/1998/QĐ-TTg (có hiệu lực cho đến nay) đã nêu rõ đây là khu vực hạn chế phát triển với giải pháp cụ thể là hạn chế chiều cao với các công trình xây dựng mới trong khu phố cũ... Thực tế Hà Nội trong vài năm qua đã chứng minh việc xây dựng tràn lan các công trình cao tầng trong nội thành cũ (nhà ở, văn phòng hay dịch vụ ..) đã gây quá tải khả năng đáp ứng hạ tầng kỹ thuật như giao thông, cấp điện, thoát nước, thiếu hụt hạ tầng xã hội: trường học, nhà trẻ, bệnh viện, cây xanh, nghỉ ngơi vui chơi công cộng...
Bản Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến 2030 tầm nhìn 2050 (gọi tắt là QH -2030) đang hoàn thiện giai đoạn cuối, theo kế hoạch sẽ trình duyệt trong 1-2 tháng tới cũng nhấn mạnh nội dung hạn chế tiếp tục chất tải lên khu vực trung tâm đô thị (hiện có 1,2 triệu người) , đưa các giải pháp nhằm khống chế số dân còn lại 0,8 triệu. Đặc biệt tại quận Đống Đa, nơi mật độ 36.700 người/km2, cao gấp 60 lần Ba Vì (600 người/km2). Thậm chí cao hơn gấp 5 lần Hồng Kông (6.500người/km2) - nơi mật độ dân số cao nhất nhì thế giới! - Vậy mà Hà Nội vẫn tiếp tục kiến nghị cho tiến hành tiếp các thủ tục cho 91 công trình cao tầng tại quận này. Cũng như tại 3 quận còn lại, đề xuất của Hà Nội đẩy các vấn nạn thiếu hụt hạ tầng kỹ thuật và xã hội đô thị vốn đã trầm trọng đến chỗ bế tắc.
Câu hỏi đặt ra là tại sao trong thời điểm còn ít ngày tới bản QH-2030 sẽ được chính thức phê duyệt , tại sao Hà Nội lại đề xuất phương án không phù hợp với giải pháp tái cấu trúc khu vực 4 quận nội thành cũ của bản QH -2030 và các nghiên cứu trước đó? Lý do các công trình này có vị trí ".... bức thiết trong phát triển kinh tế xã hội của Thành phố" và "nếu dừng lại không cho triển khai thực hiện sẽ gây lãng phí, thiệt hại không nhỏ về tài chính và phát sinh phức tạp xã hội...". Thì thực chất các dự án cao tầng nội đô mà hầu hết có chức năng kinh doanh bất sản sẽ đóng góp cụ thể những hạng mục nào nhằm cải thiện nâng cấp hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho khu nội đô , nâng cao"....tỷ lệ đất dành cho giao thông, cây xanh... để từng bước hoàn thiện văn minh đô thị hiện đại." như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong Thông báo số 348/TB-VPCP.
3. Báo Pháp luật và xã hội có bài Phòng chống tai nạn thương tích ở trẻ em: Cần một chiến lược tổng thể. Bài báo phản ánh: Mỗi năm trên thế giới có khoảng 83.000 trẻ em tử vong do tai nạn thương tích (TNTT), khoảng gần 2.000 trẻ tử vong mỗi ngày. Tại Việt Nam, chỉ riêng trong năm 2009 có khoảng 75.000 trường hợp trẻ bị TNTT.
Hơn lúc nào hết, vấn đề phòng chống TNTT cần trở thành mục tiêu quốc gia để phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ em.
Một thực tế cho thấy, TNTT là một trong những nguyên nhân làm nghèo đất nước và cản trở sự phát triển của trẻ. Theo ước tính của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB): Nền kinh tế Việt Nam hàng năm mất khoảng 30.000 tỷ đồng để chi phí cho các dịch vụ cấp cứu, điều trị, phục hồi chức năng, mất khả năng lao động do cả tử vong và cả bệnh tật gây ra. Thêm nữa, các mục tiêu thiên niên kỷ về giảm 2/3 tỷ lệ trẻ tử vong vào năm 2015 sẽ không đạt được nếu Việt Nam không giảm được số trẻ tử vong do TNTT. Từ năm 2003 đến năm 2010, với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đặc biệt là Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Việt Nam đã đầu tư kinh phí khoảng 2 triệu USD cho công tác phòng chống TNTT ở trẻ em tuy nhiên tình hình TNTT vẫn gia tăng ở hầu hết các loại hình.
Tại hội nghị tư vấn cao cấp về phòng chống TNTT cho trẻ em Việt Nam, các nhà lãnh đạo Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH, tổ chức Y tế thế giới (WHO) ở Việt Nam, UNICEF tại Việt Nam đều khẳng định: Để phòng chống TNTT cho trẻ em ở Việt Nam, nhất thiết cần một chương trình tổng thể.
Ông Đàm Hữu Đắc, Thứ trưởng Bộ LĐTB&XH khẳng định: Trong chương trình phòng chống TNTT cho trẻ em thì trách nhiệm của Nhà nước phải là cơ bản. Các Bộ, ngành liên quan đều đưa ra các chiến lược cụ thể để cùng giảm thiểu TNTT cho trẻ em.
Ông Trịnh Quân Huấn, Thứ trưởng Bộ Y tế đề xuất giải pháp: Chương trình quốc gia về công tác phòng chống TNTT cho trẻ em cần đặt ra những mục đích và mục tiêu khả khi có thể đạt được và có thể đo lường được, chương trình cũng cần điều phối và chỉ đạo bởi một ban chỉ đạo chức năng liên ngành đại diện các Bộ, ban, ngành.
4. Báo Lao động có bài Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn. Bài báo phản ánh: Trong kỳ đại hội Đảng bộ cấp cơ sở vừa qua tại một địa phương ở Hà Nội để chuẩn bị cho Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11, có việc bầu BCH Đảng bộ nhiệm kỳ 2010-2015.
Trong lý lịch trích ngang của các ứng cử viên được lựa chọn bầu vào cấp uỷ mới đều có phần nói về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn. Cụ thể như sau: Nếu ai qua đào tạo đại học, cao đẳng hoặc trung cấp chuyên nghiệp… đều được ghi trình độ học vấn là lớp 10/10 (nay là 12/12) hoặc lớp 7/10 (nay là 9/12), trình độ chuyên môn được ghi là: Đại học sư phạm, đại học luật, cao đẳng kế toán v.v… Ghi như trên là không chính xác và sự không chính xác này còn thấy diễn ra ở các bản khai lý lịch cán bộ của nhiều địa phương hiện nay, điều này cần được đính chính và được hiểu một cách thống nhất.
Một người đã học qua bất kỳ một trường đại học nào thì không thể nói người đó chỉ có trình độ học vấn là lớp 10/10 (hoặc lớp 12/12), còn kiến thức đại học của họ chỉ được hiểu và được ghi trong mục trình độ chuyên môn (của một chuyên ngành nào đó). Nếu hiểu như thế thì chẳng lẽ người tốt nghiệp THPT không học lên đại học với người tốt nghiệp THPT rồi tiếp tục học lên và tốt nghiệp đại học đều có trình độ học vấn như nhau sao?
Chúng ta đều biết, trong hệ thống giáo dục quốc dân nước ta hiện nay bao gồm các bậc học (cấp học) từ giáo dục mầm non đến tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học, sau hoặc trên đại học để đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Vì vậy, một người đã học qua một bậc học (cấp học) nào thì phải được ghi có trình độ học vấn ở bậc học (cấp học) đó. Còn trình độ chuyên môn của họ thì được ghi chuyên ngành mà họ được đào tạo.
Thí dụ: Một người tốt nghiệp đại học bách khoa ngành điện thì ghi trình độ học vấn là đại học, còn trình độ chuyên môn là kỹ sư điện. Cũng như vậy, một người tốt nghiệp đại học sư phạm ngành toán thì ghi trình độ học vấn là đại học, còn trình độ chuyên môn là giáo viên toán THPT (phổ biến), nếu ở lại trường đại học làm giảng viên thì ghi trình độ chuyện môn là giảng viên đại học toán. Xét theo hệ thống giáo dục quốc dân thì thế, còn nếu xét theo nội dung học tập của từng người thì càng thấy không thể nói trình độ học vấn của mỗi người chỉ giới hạn trong kiến thức được học trong bậc học phổ thông (lớp 10/10 hay 12/12 trở xuống). Bởi vì khi họ học lên đại học, cao đẳng, thậm chí chỉ trung học chuyên nghiệp, thì họ còn được học thêm nhiều kiến thức nâng cao về các môn khoa học cơ bản như toán, lý, hoá, văn, sử, địa… tuỳ theo từng ngành học, ngoài những kiến thức chuyên ngành.
Hơn nữa khái niệm học vấn như giải thích của “Từ điển Tiếng Việt” (Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, 1992) thì rất rõ ràng là bao gồm “những hiểu biết nhờ học tập mà có”, vậy tại sao những hiểu biết nhờ học tập đại học mà có lại không được coi là trình độ học vấn?
Nhân đây cũng xin nói thêm về khái niệm trình độ văn hoá mà trước đây trong các bản khai lý lịch thường được hiểu là đã học qua hoặc tốt nghiệp lớp mấy ở bậc học phổ thông. Hiểu trình độ văn hoá như vậy là không chính xác, bởi văn hoá là một khái niệm rất rộng mà bài viết này không có tham vọng đề cập tới. Khái niệm trình độ văn hoá được thay thế bằng khái niệm trình độ học vấn là chính xác hơn.
5. Báo An ninh thủ đô có bài Những thủ đoạn gian dối khi làm chứng minh nhân dân. Bài báo phản ánh: Giấy chứng minh nhân dân là một loại giấy tờ rất quan trọng không chỉ đối với công dân mà còn đối với cơ quan Nhà nước trong thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính và an ninh trật tự.
Giấy CMND có được cấp đúng, cấp chính xác cho công dân hay không phụ thuộc vào việc thực hiện đúng các quy định trong Nghị định 05 của Chính phủ, vào các thủ tục, quy trình bắt buộc trong việc giải quyết cấp CMND của các cơ quan chức năng. Từ thực tiễn công tác, trong thời gian qua, lực lượng công an các đơn vị, địa phương trên toàn quốc đặc biệt là tại Hà Nội, TP.HCM, Nam Định, Nghệ An... đã phát hiện rất nhiều thủ đoạn gian dối của các đối tượng khi làm các thủ tục xin cấp CMND.
Các hành vi này nổi lên là việc khai man lý lịch, tráo người làm CMND để đi du học, xuất khẩu lao động, xin việc hoặc nhằm các mục đích phạm tội khác. Điển hình là vụ Vũ Hồng Hạnh (SN 1984), thường trú tại xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định có nhiều anh em ruột đang định cư tại Cộng hòa Czech. Năm 2003, Hạnh được bảo lãnh sang lao động tại Cộng hòa Czech nhưng do vi phạm pháp luật nước sở tại nên bị trục xuất về nước năm 2007.
Do muốn quay lại Cộng hòa Czech làm việc nhưng với giấy tờ của mình thì không được nhập cảnh lại nên Hạnh đã nghĩ ra cách tráo người làm CMND. Hạnh đã đặt vấn đề với Trần Văn Tuyên, cán bộ tư pháp xã Kim Thái. Biết anh Nguyễn Văn Hoàn ở xã Kim Thái có cùng năm sinh với Hạnh, Tuyên đã hướng dẫn Hạnh làm đơn xin cấp CMND với lai lịch của anh Hoàn nhưng dán ảnh của Hạnh.
Tuyên trực tiếp ký, đóng dấu xác nhận và giáp lai vào đơn xin cấp CMND và giao sổ hộ khẩu của gia đình anh Nguyễn Văn Hoàn cho Hạnh tới Công an huyện Vụ Bản làm thủ tục cấp CMND mới với lý do báo mất. Do có đủ giấy tờ nên Hạnh đã được Công an huyện Vụ Bản cấp giấy CMND mới số 163103511 mang tên Nguyễn Văn Hoàn, nơi đăng ký NKTT tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định nhưng với ảnh và vân tay ngón trỏ của Hạnh. Có được CMND này, đầu năm 2010, Hạnh đã làm thủ tục xin được xuất cảnh sang Cộng hòa Czech nhưng đã bị Công an tỉnh Nam Định phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Công an huyện Vụ Bản đã thu hồi CMND số 163103511 mang tên Nguyễn Văn Hoàn và phạt hành chính với Vũ Hồng Hạnh, đồng thời có hình thức xử lý đối với hành vi tiếp tay để tráo người làm CMND của Trần Văn Tuyên.
Ngoài ra, nhiều đối tượng còn sử dụng thủ đoạn nhờ người quen hoặc thuê người khác giả báo mất CMND rồi sau đó làm thủ tục xin cấp mới CMND. Đối tượng này sẽ lấy CMND mới đó, bóc ảnh có đóng dấu giáp lai chìm của cơ quan công an ra rồi dán ảnh của mình vào, sau đó ép lại plastic để sử dụng CMND này đi lừa đảo, tống tiền, cầm đồ hoặc trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật khi bị truy nã hoặc khi đã có tiền án, tiền sự.
Điển hình là ngày 5-4-2010, Cục Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát - Bộ Công an nhận được yêu cầu tra cứu số 780 của Công an tỉnh Nghệ An để nghị xác minh người có tên Hồ Hữu Chinh (SN 1981) tại Quỳnh Lưu, Nghệ An, kèm theo bản sao CMND và danh chỉ bản của đối tượng.
Kết quả tra cứu trên các hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử và thủ công, các chiến sỹ công an đã phát hiện đối tượng không phải là Hồ Hữu Chinh như đã khai trong CMND mà chính là đối tượng Phạm Văn Bính ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Đối tượng này đã từng có 3 tiền án, tiền sự và đã khai man họ tên, lý lịch, làm giả CMND để nhằm mục đích hoạt động vi phạm pháp luật tiếp theo.
Theo Cục Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát thì ngoài việc lực lượng công an thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ các quy định của Chính phủ và ngành về thủ tục cấp CMND thì các cán bộ chính quyền cơ sở và nhân dân cũng cần nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tự giác, tránh không để các đối tượng xấu lợi dụng dẫn đến việc vô tình hoặc cố ý tiếp tay cho các hành vi gian dối khi làm CMND. Ngoài ra, các hành vi gian dối trong lĩnh vực này cần phải được phát hiện và xử lý với chế tài nghiêm khắc hơn nữa để tạo sự răn đe.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cần nêu cao tinh thần cảnh giác và có hiểu biết cơ bản về việc nhận biết CMND bị làm giả, khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm cần kiên quyết đấu tranh và kịp thời báo cho cơ quan công an và lực lượng chức năng để xử lý triệt để. Trong thời gian tới, Bộ Công an sẽ tiếp tục đẩy nhanh việc thực hiện Đề án Cấp chứng minh nhân dân mới đã được Chính phủ phê duyệt, tạo sự thuận tiện cho người dân khi sử dụng và giảm thiểu khả năng gian dối của các đối tượng xấu.
Việc cập nhật, kết nối, khai thác, xử lý thông tin, cơ sở dữ liệu từ chứng minh nhân dân của công dân sẽ được hiện đại hóa, điện tử hóa để có thể cho kết quả chính xác nhất khi cấp lý lịch tư pháp cho công dân, theo yêu cầu tra cứu của cơ quan chức năng... và kịp thời phát hiện, xử lý được các hành vi gian dối khi làm CMND. Lực lượng công an cũng sẽ rà soát, bổ sung quy trình, thủ tục cấp mới, cấp đổi, cấp lại CMND bảo đảm chặt chẽ, không để kẻ gian lợi dụng, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các trường hợp tráo người làm CMND, làm giả CMND nhằm phục vụ tốt công tác quản lý công dân và quản lý xã hội về ANTT.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật và xã hội có bài Lợi dụng chứng thực ủy quyền để bán “đất giấy”! Bài báo phản ánh: Để có tiền, Minh photo một loạt giấy ủy quyền rồi giả mạo chữ ký của những người được cấp đất ở thôn Thuần Nghệ với nội dung ủy quyền cho Minh trong giao dịch mua bán, mang lên UBND phường Quang Trung chứng thực.
Dự án xây dựng khu Đô thị mới ở thôn Thuần Nghệ, phường Quang Trung đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng. Theo chủ trương của TP, những hộ dân bị thu hồi từ 30% đất nông nghiệp trở lên sẽ được cấp một suất đất ở diện tích 50m2. Qua rà soát, thôn Thuần Nghệ có 36 hộ được hưởng chính sách này. Chu Hoàng Minh (SN 1956, trú ở ngõ 1, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) vốn là cán bộ địa chính phường Quang Trung (thị xã Sơn Tây) nên nắm được chủ trương cấp đất dịch vụ trên. Để có tiền, Minh photo một loạt giấy ủy quyền rồi giả mạo chữ ký của những người được cấp đất ở thôn Thuần Nghệ với nội dung ủy quyền cho Minh trong giao dịch mua bán, mang lên UBND phường Quang Trung chứng thực.
Với mớ giấy tờ giả mạo ấy, Minh đã lừa đảo bán được khoảng 20 suất đất dịch vụ (hầu hết cho người dân ở Sơn Tây). Vụ việc vỡ lỡ khi hàng chục hộ dân ở thôn Thuần Nghệ gửi đơn lên UBND phường cho hay nhận được thông tin, đất dịch vụ mà gia đình họ được cấp tự nhiên bị mang bán mà họ không hề hay biết? Lúc này, Minh đã thu được gần 10 tỷ đồng để nướng vào cá độ bóng đá. Cả người có đất và người mua đều thành bị hại!
Câu hỏi được đặt ra là Minh làm thế nào để có được giấy ủy quyền hợp pháp có đóng dấu UBND của phường Quang Trung? Bởi theo đúng qui định, thủ tục làm ủy quyền rất chặt chẽ. Để có được giấy ủy quyền thì hai bên (bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền) phải cùng ký trước mặt người làm chứng thực tại trụ sở UBND phường. Lẽ nào, để bán khoảng 20 suất đất, Minh đã “thuê” 20 người “đóng vai” chủ các mảnh đất, cũng với chừng ấy giấy tờ cần thiết như chứng minh nhân dân, giấy tờ về đất đai, đăng ký kết hôn... của chủ sở hữu, đến UBND phường Quang Trung để ký giấy ủy quyền cho Minh được bán đất của họ?
Ông Lê Văn Thắng - Chủ tịch UBND phường Quang Trung cho biết, công tác tư pháp và chứng thực được giao cho bà Chu Thị Loan - Phó Chủ tịch phụ trách. Theo phân công, chỉ ông Thắng hoặc bà Loan được ký chứng thực. Tuy nhiên, 20 giấy ủy quyền dởm của Minh tuy đúng mẫu giấy ủy quyền của phường, nhưng không được làm theo đúng trình tự, thủ tục chứng thực và cũng không do ông Thắng hay bà Loan ký mà một phó chủ tịch khác của phường (ông H.M.H) đã ký. Sổ lưu và hồ sơ lưu mảng chứng thực của phường Quang Trung không hề có số giấy ủy quyền nói trên!
Đáng bàn, ký chứng thực ủy quyền nhưng không có người ủy quyền (CQĐT cho hay Minh đã giả mạo chữ ký của những người được cấp đất), chỉ có chữ ký của người nhận ủy quyền (Minh) mà vẫn được chấp nhận. Ông Thắng cho hay, giải trình về điều này, vị phó chủ tịch phường đã ký số giấy tờ trên cho rằng do “tin cán bộ, tin chuyên môn” nên đã ký? Sự “tin” dễ dãi của vị lãnh đạo phường này đã tiếp tay cho Minh lừa đảo, khiến nhiều người mua phải đất ảo.
Ông Lê Văn Thắng cũng cho rằng, nếu việc chứng thực được làm đúng qui trình (Bộ phận “một cửa” nhận hồ sơ, chuyển cho cán bộ chuyên môn (tư pháp) thẩm định, nếu hợp lệ thì chuyển cho ông Thắng hoặc bà Loan ký), thì đã không có chuyện đáng tiếc trên xảy ra.
Trong vụ việc này, rõ ràng là những người mua “đất giấy” thiệt. Chữ ký ủy quyền giả mạo người có đất - chủ sở hữu cũng là nạn nhân nên đương nhiên giao dịch mua bán giữa Minh và người mua vô hiệu. Hậu quả pháp lý của một hợp đồng vô hiệu là các bên hoàn lại cho nhau những gì đã nhận. Những người đã mua đất sẽ được xác định là bị hại trong vụ án hình sự và Minh phải bồi thường. Tuy nhiên, Minh đã bị tạm giam và số tiền gần 10 tỷ đồng có được đã ném vào cá độ, nên chuyện bồi thường là “hãy đợi đấy”.
2. Báo Phunu.online phản ánh Để đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý (TGPL) của trẻ em. Bài báo phản ánh: ngày 1/7, Sở Tư pháp TP.HCM cho biết, Trung tâm TGPL Nhà nước thuộc Sở này đã chính thức đưa đường dây nóng vào hoạt động. Theo đó, mọi thắc mắc về pháp lý đối với trẻ em trên địa bàn TP sẽ được Trung tâm TGPL Nhà nước tiếp nhận bởi số điện thoại 08.35079534.
Việc có đường dây nóng này sẽ tạo thêm kênh tiếp nhận thông tin, đồng thời tăng cường các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi xảy ra những sự việc liên quan đến vấn đề pháp lý; bảo vệ các em thoát khỏi những trường hợp bị ngược đãi, hành hạ, lạm dụng tình dục…
Báo Người Lao động có bài Khai trương Văn phòng Thừa phát lại quận 5 - TPHCM. Bài báo phản ánh: Văn phòng Thừa phát lại quận 5 - TPHCM đã khai trương ngày 3-7 tại số 40 Huỳnh Mẫn Đạt
Văn phòng Thừa phát lại quận 5 hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân và là 1 trong 5 văn phòng đầu tiên của VN được thực hiện thí điểm thừa phát lại, với các chức năng: Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; lập vi bằng (văn bản xác nhận để làm chứng, chứng minh, chứng cứ theo quy định của pháp luật) theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của tòa án theo yêu cầu của đương sự.
3. Báo Nhân dân có bài Tháo gỡ vướng mắc trong công tác thi hành án. Bài báo phản ánh: Mặc dù có những cải tiến, nhưng công tác thi hành án dân sự ở các địa phương vẫn còn nhiều bất cập. Số lượng vụ án có hiệu lực pháp luật chưa được đưa ra thi hành ngày càng nhiều; tỷ lệ án tồn đọng cao.
Bạn đọc Lương Thanh Châu (TP Hồ Chí Minh): Quy trình xử lý một vụ án gồm các khâu liên hoàn: điều tra, xét xử, thi hành án. Trong đó, thi hành án là hoạt động cuối cùng đóng vai trò quan trọng. Nếu một vụ án đã được đưa ra xét xử bảo đảm khách quan, đúng pháp luật, nhưng lại không đưa ra thi hành trên thực tế, thì bản án đó chỉ có giá trị trên giấy. Không ít trường hợp, bản án đã tuyên được dư luận đồng tình, song nhiều năm sau vẫn chưa được tổ chức thi hành hoặc việc thi hành không dứt điểm. Có vụ, người được bảo vệ quyền lợi đã qua đời mà bản án vẫn còn dang dở. Trình tự tổ chức thi hành án, quy trình xét miễn, giảm lệ phí thi hành án còn những thủ tục rườm rà. Một hoạt động kém hiệu quả của cơ quan thi hành án là chậm trễ trong việc thẩm tra, xác minh tài sản của đương sự để bảo đảm thi hành án. Nhiều vụ việc, do cơ quan thi hành án không kịp thời nắm bắt tình hình tài sản của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự giấu giếm, tẩu tán tài sản, gây khó khăn khi làm thủ tục kê biên, phong tỏa, định giá, cưỡng chế tài sản. Hoạt động ủy thác thi hành án cũng không được cơ quan thi hành án các địa phương thực hiện nghiêm.
Bạn đọc Trần Hồng Quang (Quảng Ngãi): Việc khiếu nại về đất đai của gia đình bà Nguyễn Thị Xanh, ở phường Trần Phú (TP Quảng Ngãi, Quảng Ngãi) kéo dài gần chục năm nay. Bản án hành chính số 01/2002/HCST ngày 30-10-2002 của Tòa án Nhân dân TP Quảng Ngãi xét xử vụ việc này, tuyên hủy quyết định của UBND TP Quảng Ngãi khi giải quyết việc thực hiện dự án xây dựng hệ thống mương thoát nước; trong đó có liên quan vấn đề thu hồi, đền bù phần diện tích đất gia đình bà Xanh sử dụng. Theo phản ánh của bà Xanh, cho đến nay, phán quyết của cơ quan tòa án nêu trên vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương đưa ra thi hành dứt điểm, cho nên bà Xanh tiếp tục khiếu nại.
Bạn đọc Lê Tuyết Mai (Cần Thơ): Ngày 25-11-2002, Tòa án Nhân dân huyện Châu Thành (Tiền Giang) xét xử vụ việc tranh chấp tài sản vay nợ giữa hai chị Phạm Thị Tú Em và Phạm Thị Tú Chi với anh Nguyễn Phước Thông. Theo đó, bản án của tòa án buộc anh Nguyễn Phước Thông phải trả nợ chị Chi, chị Em 20 lượng vàng. Thế nhưng, từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến nay, gần tám năm trôi qua, chị Chi, chị Em liên tục có đơn yêu cầu thi hành án, song vụ việc vẫn chưa được giải quyết.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Một người hai giấy kết hôn. Bài báo phản ánh: Một vụ tranh chấp di sản thừa kế đang bị bế tắc bởi nguyên đơn có cùng lúc… hai giấy đăng ký kết hôn với hai người chồng.
Tháng 2-2010, bà H. đã nộp đơn khởi kiện đến TAND quận 11 (TP.HCM) để tranh chấp tài sản thừa kế với các anh em bên gia đình chồng.
Trong đơn, bà H. trình bày: Năm 2001, bà lập gia đình với ông L., có đăng ký kết hôn tại phường 13. Bốn năm sau, họ sinh được một bé gái. Năm 2009, chồng bà bị bệnh qua đời, bà ở vậy trong căn nhà của chồng (do cha mẹ chồng đã mất để lại) và chăm sóc một người anh chồng bị bệnh tâm thần.
Thế rồi các anh chị của chồng bà ở gần đó liên tục kéo đến gây chuyện, đòi đuổi bà ra khỏi nhà. Có lần xung đột căng thẳng, bà phải nhờ công an đến giải quyết. Nay bà không dám về nhà nữa vì mỗi lần về đều bị anh chị của chồng chửi rủa. Bà yêu cầu tòa xác định phần thừa kế của bà trong căn nhà này với các anh chị bên chồng để có điều kiện tạo lập cuộc sống mới.
Làm việc với tòa, phía gia đình bên chồng bà H. không đồng ý với yêu cầu trên. Theo họ, người mẹ trước khi mất đã dặn không được bán căn nhà này, để lại làm nhà thờ tổ và làm chỗ ở cho người anh bị tâm thần.
Phía bị đơn còn yêu cầu tòa xem xét bé gái con bà H. có đúng là con của em trai họ hay không. Bởi giấy khai sinh của bé ghi sinh năm 2005, không có tên cha trong khi đến năm 2006 em trai họ mới kết hôn với bà H., không phải từ năm 2001 như bà H. nói. Họ còn cho rằng lúc còn sống, em trai họ cũng không thừa nhận đứa con này…
Vụ kiện sẽ không có gì phức tạp nếu như trong quá trình giải quyết án, TAND quận 11 không bất ngờ nhận được đơn của một người tên K., viết rằng việc kết hôn của bà H. với ông L. là trái pháp luật và yêu cầu tòa hủy.
Theo ông K., ông và bà H. đã đăng ký kết hôn vào năm 1998 tại xã Ka Đô, Đơn Dương (Lâm Đồng). Hai người có một con chung năm 2000. Khi con trai vừa tròn ba tháng tuổi, do bất đồng với gia đình chồng, bà H. đã ẵm con bỏ đi. Cho đến nay, ông và bà H. chưa hề ra tòa ly hôn nên về mặt pháp lý, họ vẫn là vợ chồng hợp pháp.
Tòa mời bà H. đến tìm hiểu. Bà H. thừa nhận có việc kết hôn với ông K., sau đó bỏ nhà đi. Một tháng sau, bà quay về thì ông K. đã cưới vợ khác. Vì thế, bà có làm giấy tay với nội dung cắt đứt quan hệ vợ chồng với ông K., có chính quyền xã chứng nhận. Sau đó bà vào TP.HCM sinh sống. Về mặt pháp lý, đúng là giữa bà và ông K. tuy chưa ra tòa làm thủ tục ly hôn nhưng thực tế thì đã có giấy xác nhận của chính quyền địa phương. Từ đó bà mới có được giấy chứng nhận độc thân để lập gia đình mới...
Trước tình tiết mới này, TAND quận 11 yêu cầu ông K. về địa phương trích lục giấy đăng ký kết hôn giữa ông và bà H. rồi làm đơn gửi kèm chứng cứ yêu cầu hủy đăng ký kết hôn trái phép. Nhưng cũng bất ngờ y như lúc xuất hiện, tung ra lá đơn xong, ông K. lại… biệt tăm biệt tích nên tòa lúng túng, chưa biết sẽ giải quyết vụ tranh chấp di sản của bà H. ra sao.
Cụ thể, nếu tòa xem xét luôn yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật của ông K. trong vụ kiện thì không có cơ sở bởi ngoài một lá đơn, ông K. không hề nộp cho tòa các chứng cứ khác. Bản thân ông không tiến hành các thủ tục khởi kiện đúng quy định, lại không đến tòa.
Tuy nhiên, nếu tòa tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp di sản một cách bình thường, coi như ông K. không hề liên quan gì thì cũng không ổn bởi sự thật, theo trình bày của ông K. và xác nhận của bà H. thì đúng là giữa họ đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Như vậy làm sao tòa dám công nhận quan hệ hôn nhân của bà H. với ông L. - người chồng sau, từ đó tính đến yêu cầu phân chia di sản.