Điểm tin báo chí sáng ngày 17 tháng 6 năm 2010

17/06/2010
Trong buổi sáng ngày 17/6/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Có 271 trong 474 đại biểu Quốc hội được phát phiếu thăm dò (chiếm 57,17%) đồng tình việc nên thông qua nghị quyết về chủ trương đầu tư xây dựng đường sắt cao tốc tại kỳ họp này. 192 đại biểu không đồng ý ra nghị quyết; ba đại biểu có ý kiến khác và tám đại biểu không có ý kiến. Đó là kết quả thăm dò ý kiến đại biểu Quốc hội vừa được đoàn thư ký kỳ họp thống kê.

Tuy đa số đại biểu nhất trí có nghị quyết về chủ trương đầu tư, nhưng theo kết quả kiểm phiếu thăm dò, chỉ có 148 đại biểu đồng tình với phương án mà Chính phủ đã trình; 201 đại biểu chọn theo phương án lùi thời gian khởi công và 13 đại biểu có ý kiến khác. Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Trần Đình Đàn cho biết với kết quả trên, đoàn thư ký đang chuẩn bị dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội thông qua vào ngày cuối cùng của kỳ họp (19-6). Theo đó, nghị quyết được soạn thảo theo hướng giao Chính phủ lập quy hoạch chi tiết, tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn điều kiện đảm bảo tính khả thi của tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội - TP.HCM. Trên cơ sở đó, nghiên cứu lập dự án đầu tư một trong hai tuyến: Hà Nội - Vinh, TP.HCM - Nha Trang.

Quốc hội sẽ xem xét quyết định chủ trương đầu tư một đoạn tuyến được chọn và thực hiện đầu tư vào thời điểm thích hợp trước năm 2020 bằng nhiều nguồn vốn, đa dạng phương thức đầu tư. Từ kết quả đầu tư tuyến được chọn sẽ tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm và trình Quốc hội xem xét triển khai xây dựng các bước tiếp theo.

2. Báo Thanh niên phản ánh: Sen có thể sẽ trở thành quốc hoa, theo tinh thần của cuộc hội thảo do Bộ VH-TT-DL tổ chức ngày 16.6. Theo Cục Mỹ thuật, Triển lãm và Nhiếp ảnh - cơ quan thường trực của hội thảo, ngày 21.4.2010, Bộ VH-TT-DL đã có quyết định thành lập Ban chỉ đạo và Tổ biên soạn đề án quốc hoa VN, chứng tỏ nhu cầu cần có một quốc hoa cho các sinh hoạt văn hóa, đối nội, đối ngoại. Cũng tại cuộc hội thảo, 9/10 ý kiến đều cho rằng nên có quốc hoa. Tiến sĩ (TS) Ngô Phương Lan - Cục Hợp tác quốc tế (Bộ VH-TT-DL), dẫn thông tin đã có 97 nước có quốc hoa và cho rằng việc có một loài hoa đặc trưng cho đất nước là cần thiết. Còn TS Phạm Thanh Hải - Phó chủ tịch Hội Sinh vật cảnh VN, nhận xét nếu có thì quốc hoa sẽ cùng vịnh Hạ Long, áo dài, nón lá góp phần tôn vinh hình ảnh đất nước. Ông Hải cho biết thêm, khảo sát ở một số trường đại học cho thấy 68% số người được hỏi bảo cần có quốc hoa để nâng cao niềm tự hào VN.

Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL Lê Tiến Thọ cho rằng cũng như quốc phục, việc có quốc hoa là cần thiết mặc dù để đạt được sự đồng thuận tuyệt đối là rất khó. Sau hội thảo này, Bộ VH-TT-DL sẽ còn tiếp tục tham khảo ý kiến các nhà khoa học, các nhà văn hóa để chọn ra một loại hoa chính thức để lấy ý kiến dư luận, trình Chính phủ, thậm chí cả Quốc hội để được thông qua một cách chính thức. Nếu mọi chuyện trôi chảy thì đề án này sẽ hoàn thành vào cuối năm nay.

Báo cũng phản ánh: Đông đảo bạn đọc khắp nơi bày tỏ sự đồng tình và bức xúc sau loạt bài Nhà cao tầng “đuổi” xe ra đường đăng trên Thanh Niên ngày 14, 15 và 16.6. Những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, nhà cao tầng, cao ốc văn phòng mọc lên như nấm tại TP đông dân nhất nước. Điều đáng nói, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng quy định chỗ đậu xe cho các cao ốc đã có từ 2004, trong đó ghi rõ: "Khi xây dựng cao ốc phải bố trí chỗ để xe; theo cách tính thông thường thì cứ 100m2 sàn xây dựng, chủ đầu tư phải thiết kế 25m2 làm chỗ đậu xe". Chiếu theo quy định này, nhiều chủ đầu tư cao ốc kêu ầm lên: “Thử đi tìm xem có bao nhiêu cao ốc ở TP thực hiện đúng quy định. Thiếu chỗ đậu xe là tình trạng chung của toàn TP, chứ không riêng gì cao ốc chúng tôi”. Chính vì vậy mà hằng ngày người dân TP phải khổ sở bởi hàng ngàn xe gắn máy, ô tô của các tòa nhà phải ra đậu tràn lan ngoài đường, gây ách tắc giao thông.

Dư luận đặt câu hỏi:“Vì sao đã có quy chuẩn quy định về chỗ đậu xe nhưng sao chủ đầu tư cao ốc vẫn vi phạm?”. Sở Quy hoạch và Kiến trúc cho rằng trách nhiệm chính là do Sở Xây dựng cấp phép. Nhưng Sở Xây dựng lại nói:“Chúng tôi chỉ kiểm tra trong quá trình tòa nhà đang xây dựng, còn việc hậu kiểm thuộc về chính quyền địa phương”. Và rồi đến lượt chính quyền địa phương bảo: “Trình độ chuyên môn của cán bộ xây dựng và lực lượng mỏng sao kiểm tra cho xuể”…

Trước tình hình này, UBND TP.HCM đã chỉ đạo các sở, ngành lập đoàn kiểm tra các nhà cao tầng, từ đó có biện pháp chấn chỉnh. Tuy nhiên, để giải quyết tình trạng trên, thiết nghĩ TP trước hết cần siết chặt các công trình cao ốc đang hoặc sắp xây. Trong trường hợp công trình làm sai quy định, Sở Xây dựng cần phải yêu cầu các chủ đầu tư có biện pháp đảm bảo đủ diện tích để xe trước khi đưa vào sử dụng. Kiên quyết không cho phép đưa vào hoạt động các công trình không đáp ứng yêu cầu này. Bên cạnh đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND các quận cần xem xét lại việc cấp phép các loại hình kinh doanh thương mại, cao ốc văn phòng… tập trung đông người, theo hướng yêu cầu chủ đầu tư phải bảo đảm chỗ để xe. Mặt khác, TP cũng cần đẩy nhanh tiến độ các dự án bãi đậu xe ngầm, vốn đang thực hiện rất chậm chạp…

Hiện nay, không chỉ TP.HCM, tại các đô thị lớn trên cả nước đang diễn ra quá trình xây dựng cao ốc văn phòng rất rầm rộ, nếu các cơ quan quản lý không kịp thời kiểm soát và chấn chỉnh thì vài năm nữa, nhiều con đường sẽ bị biến thành bãi đậu xe, đó thật sự là nỗi lo lắng của người dân.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 14-6, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Đổi mới công tác tiếp công dân. Đề án nêu rõ: Việc tiếp công dân là nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quan trọng trong chương trình, kế hoạch công tác của cơ quan, tổ chức.

Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước phải trực tiếp tiếp công dân định kỳ theo quy định, không kể việc tiếp công dân theo yêu cầu, nhiệm vụ đột xuất. Trong trường hợp có lý do chính đáng thì phân công cấp phó tiếp và phải thông báo công khai cho công dân biết. Sau khi tiếp công dân phải trả lời kết quả giải quyết cho công dân. Trường hợp có khiếu nại, tố cáo đông người, gay gắt, phức tạp thì đích thân chủ tịch UBND và thủ trưởng cơ quan phải tiếp dân, giải quyết, không được để phát sinh thành điểm nóng.

4. Báo Dân trí phản ánh: Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Văn Khôi vừa có buổi làm việc với Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng và các cơ quan liên quan nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án đường Văn Cao - Hồ Tây. Buổi làm việc diễn ra ngày hôm qua 15/6, tập trung vào 2 vấn đề chính đó là phương án khảo cổ trong phạm vi dự án và tháo gỡ công tác GPMB, tái định cư cho các hộ dân của dự án. Dự án đường Văn Cao - Hồ Tây là dự án trọng điểm của thành phố đang được gấp rút thi công. Tuy nhiên từ giữa tháng 5 vừa qua, 1 số hạng mục của dự án đã phải dừng lại để phục vụ cho công tác khảo cổ sau khi các nhà khoa học khẳng định dự án này là một phần của thành cổ.

Tại cuộc họp, sau khi nghe báo cáo của Viện Khảo cổ học, Ban quản lý danh thắng, Ban QLDA Giao thông đô thị, Phó Chủ tịch UBND TP Nguyễn Văn Khôi và Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng đã thống nhất không tiến hành khảo cổ ở vị trí 2 trụ và 1 mố như đã xác định từ trước để chuyển sang vị trí khác ở phía Bắc dự án (đoạn gần nhà máy bia Hà Nội). Như vậy vừa đáp ứng được yêu cầu khảo cổ, vừa bảo đảm tiến độ dự án.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Trang web báo Nông nghiệp Việt Nam có bài Kiểm lâm Bắc Kạn đổ cho Tư pháp. Bài báo phản ánh: Ngày 9/6, NNVN đăng bài “Mập mờ đấu giá gỗ quí rừng Đin Đeng”, theo đó ông Lường Tiến Đồng, PGĐ Sở Tư pháp Bắc Kạn cho rằng việc đẻ ra Nội qui đấu giá chính là cách để Hạt Kiểm lâm Bạch Thông loại bớt đối thủ tham gia đấu giá 63,90 m3 gỗ quí hiếm nhóm IIA (gỗ nghiến). Tuy nhiên, khi NNVN trao đổi với ông Lâm Quang Oanh, Phó Chi cục trưởng Kiểm lâm tỉnh Bắc Kạn thì sự việc lại ngược một trăm phần trăm.

Ông có thể cho biết vì sao việc đấu giá gỗ quí rừng Đin Đeng lần một ngày 9/1 lại bị huỷ kết quả?

Nội dung cụ thể buổi đấu giá đó tôi không nắm được, do tôi không làm trực tiếp. Tất nhiên Hạt Kiểm lâm Bạch Thông đã có báo cáo lên Chi cục theo qui định hàng tuần, hàng tháng các vụ việc trong đó có việc đấu giá bị huỷ. Lực lượng kiểm lâm đã bàn giao tang vật và tài sản sang Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá TTDVBĐG (Sở Tư pháp) thì TTDVBĐG phải chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh.

Cả 2 lần đấu giá gỗ quí rừng Đin Đeng đều mập mờ? Vậy đến khi nào Kiểm lâm mới có kết quả và bàn giao tài sản cho khách hàng?

Quan điểm của Chi cục Kiểm lâm khi đã giao tang vật để bán đấu giá thì TTDVBĐG phải chịu trách nhiệm, thẩm quyền về đấu giá thế nào và diễn biến ra sao là quyền của TTDVBĐG, còn Hạt Kiểm lâm chỉ là cơ quan phối hợp. Khi nào có kết quả chính thức từ TTDVBĐG, Kiểm lâm sẽ bàn giao tài sản ngay. Buổi đấu giá lần 2 ngày 19/4 đã có kết quả, nhưng gần 2 tháng qua (từ ngày 19/4 đến 14/6), Kiểm lâm vẫn chưa thể bàn giao được số gỗ quí tại rừng Đin Đeng vì còn một số ý kiến trái chiều.

Theo ông thì cơ quan nào đã xây dựng “Nội qui” để loại các đối thủ cạnh tranh?

Về đấu giá gỗ tang vật, chúng tôi (lực lượng kiểm lâm) chưa có nội qui gì cả, Kiểm lâm chỉ làm theo qui định pháp luật cho phép, còn việc xây dựng nội qui và đấu giá thế nào vẫn là do cơ quan đấu giá, chứ cơ quan Kiểm lâm không có nội qui nào để loại đối thủ. Chi cục Kiểm lâm tỉnh cũng không chỉ đạo Hạt Kiểm lâm huyện Bạch Thông làm nội qui riêng cho số gỗ này, mà chỉ có trách nhiệm bảo vệ tài sản và phối hợp thực hiện. Nội qui ban hành ra sao và tổ chức đấu giá thế nào đều do TTDVBĐG.

Bài báo ngày 9/6 “Bắc Kạn: Mập mờ đấu giá gỗ quí rừng Đin Đeng”. Bài báo phản ánh: Gần đây, dư luận tỉnh Bắc Kạn nóng lên sau vụ đấu giá lại lần thứ 2, đối với 63,90m3 gỗ quí hiếm (gỗ nghiến tròn, thuộc nhóm IIA) tại khu rừng núi đá Đin Đeng, xã Sỹ Bình, huyện Bạch Thông. PV NNVN đã lặn lội hàng trăm km vào rừng sâu núi thẳm Đin Đeng để tìm hiểu sự việc.

Sau khi được UBND huyện Bạch Thông giao quản lý và tổ chức bán đấu giá tài sản (là tang vật vụ án phá rừng) bao gồm 63,90m3 gỗ nghiến tại khu rừng Đin Đeng (đây là khu rừng núi đá có nhiều gỗ quí hiếm của tỉnh), Hạt Kiểm lâm Bạch Thông đã ký hợp đồng uỷ quyền cho Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá (TTDVBĐG) thuộc Sở Tư pháp tỉnh Bắc Kạn tổ chức bán đấu giá số gỗ này. Tuy nhiên, một điều bất bình thường là để bán được số gỗ “như ý”, Hạt Kiểm lâm Bạch Thông đã soạn hẳn một “Nội qui đấu giá” gồm 5 Điều cụ thể, trong đó Điều 1 đã ấn chỉ rõ “người tham gia đấu giá phải là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn được tham gia đấu giá nếu đủ điều kiện”.

Cũng tương tự như vậy, tại Điều 2 còn thêm những qui định bắt buộc và vô lý hơn ở chỗ “các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có giấy phép đăng ký kinh doanh ngành nghề chế biến lâm sản trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn có nhu cầu mua gỗ, có phương án khai thác được UBND huyện Bạch Thông và Hạt Kiểm lâm Bạch Thông chấp thuận trước khi tham gia đấu giá, việc khai thác chỉ sử dụng người tại địa phương”. Như vậy, khách hàng muốn tham gia đấu giá hãy cứ “vắt chân lên cổ” mà chạy cũng không thể kịp xây dựng phương án khai thác hoàn hảo, cũng như đi xin những chữ ký xác nhận, để đủ điều kiện tham gia đấu giá. Cũng từ nội qui đấu giá “nội bộ” này của Hạt Kiểm lâm Bạch Thông, những cá nhân, doanh nghiệp trong tỉnh Bắc Kạn chỉ cần có phương án khai thác được duyệt, thì chẳng cần đấu giá đã loại được các đối thủ mạnh ở ngoài tỉnh.

Hơn nữa, từ lúc thông tin rộng rãi về việc bán đấu giá, đến khi tiến hành đấu giá chỉ có mấy ngày, người nào có trong tay phương án được duyệt, ắt phải thông thạo về huyện Bạch Thông lắm. Cũng chính từ việc tự làm khó mình, mà phương án khai thác của cả 3 nhà tham gia đấu giá lại lần 2 vào ngày 19/4/2010, chỉ được huyện Bạch Thông chấp thuận…bằng miệng. Khi đã nhận hồ sơ từ Hạt Kiểm lâm huyện Bạch Thông, TTDVBĐG- Sở Tư pháp Bắc Kạn đã tổ chức đấu giá lần đầu vào ngày 9/1/2010, nhưng không hiểu vì sao không đạt kết quả, nên phải đấu giá lại lần 2 vào ngày 19/4/2010. Có một điều lạ, cả người bán và người mua gỗ lần 2 này đều chấp nhận “ước lượng” số gỗ khoảng 63,90m3, bởi trong Điều 5 của “Nội qui đấu giá” số gỗ này cũng để “cửa thoát” cho các bên rất rõ “Trường hợp khi giao gỗ tròn tại hiện trường cho người trúng đấu giá không đủ như đã chào bán đấu giá thì bên A có trách nhiệm trả lại số tiền tương đương số tài sản giao thiếu nhân với giá đã trúng giá. Trường hợp tài sản thu hồi vượt định mức so với kết quả trúng đấu giá thì người mua tài sản phải nộp tiền bổ sung tương đương số tài sản vượt nhân với giá đã trúng đấu giá”.

Với kiểu đấu giá mập mờ như vậy, người nào trúng vụ đấu giá nơi rừng sâu núi đỏ thế này, muốn làm thế nào cho đủ hay vượt là tuỳ thuộc vào "tài năng" của họ. Vì trong thực tế, người mua cũng chẳng hề biết rõ số lượng, chất lượng gỗ đang nằm ở góc nào trên rừng Đin Đeng, còn lực lượng kiểm lâm cũng chẳng dám chắc gần hai năm qua số gỗ này có bị bốc hơi ít nào không? Nhưng theo cách hiểu thông thường của người dân, đã là gỗ tang vật vụ án thì phải có hồ sơ đo đếm cẩn thận, niêm phong theo qui định, đằng này cứ để chúng “thi gan cùng tuế nguyệt”, rồi hư hỏng, mất mát cũng chẳng ai hay mới là điều khó hiểu.

2. Thời báo kinh tế Sài Gòn có bài Đáng lẽ mở đường nhưng lại đi sau. Bài báo phản ánh: Xem xét các dự án luật chuẩn bị trình Quốc hội tại kỳ họp đầu năm 2010, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã thống nhất: hoãn trình Quốc hội hai dự án sửa đổi Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn; chưa thông qua biểu thuế suất Thuế Tài nguyên; rút nhà ở ra khỏi đối tượng chịu Thuế Nhà đất. Chính phủ cũng xin hoãn trình ba dự án: Luật Thủ đô, Luật Biển Việt Nam và Luật Đầu tư công. Tuy vậy tại kỳ họp này, Quốc hội vẫn còn phải thông qua tới 10 dự án luật. Thực tế cho thấy cải cách lập pháp đang tiến hành khẩn trương, trong đó điểm mới là UBTVQH và Chính phủ đã trọng chất lượng dự án luật hơn tiến độ.

Tiến trình đổi mới ở nước ta bắt đầu từ kinh tế, qua các biện pháp được gọi là “cởi trói”. Chỉ nhờ vậy mà trong một thời gian ngắn, khu vực dân doanh đã được tái sinh và nhanh chóng mở rộng. Kinh tế thị trường hình thành. Nhịp độ tăng trưởng cao. Khủng hoảng bị đẩy lùi. Đời sống dần ổn định. Nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn, tăng trưởng đã chững lại. Thực tế đó cho thấy đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra tuy đáp ứng đúng bức xúc của cuộc sống, song tác dụng của các biện pháp “cởi trói” cũng sớm đạt đỉnh, bởi nó không vượt qua được lực cản là cơ chế quản lý tập trung quan liêu của Nhà nước. Muốn tiếp tục phát triển, phải đổi mới cơ chế này. Đó là bối cảnh xuất hiện ba cuộc cải cách, cả hành chính, tư pháp lẫn lập pháp nhằm xóa bỏ cơ chế quản lý chủ yếu dựa vào chỉ tiêu kế hoạch, chỉ thị, mệnh lệnh, xây dựng cơ chế quản lý mới chủ yếu dựa vào pháp luật. Nói khác đi là xây dựng Nhà nước pháp quyền song hành với kinh tế thị trường. Thế nhưng ba cuộc cải cách này lại không phải được đề ra đồng thời và thực hiện đồng bộ. Thực tế đó cho thấy: đổi mới kinh tế đã khó, đổi mới hoạt động của Nhà nước (một phần của đổi mới chính trị) còn khó hơn. Song, khó nhất vẫn là đổi mới tư duy.

Nhiều người đến nay vẫn còn ngại đề cập đến đổi mới chính trị, còn coi đấy là vấn đề nhạy cảm. Nếu coi kinh tế và chính trị là một thể thống nhất, thì đã đổi mới kinh tế tất phải đổi mới chính trị tương ứng. Vấn đề là ở chỗ xác định cho rõ nội dung đổi mới chính trị đang bàn ở đây là đổi mới hoạt động của Nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền thông qua quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp. Nội dung ban đầu của cải cách hành chính được hiểu rất rộng, gồm ba mặt: cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy hành chính (gồm cả cán bộ), cải cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, do trong triển khai xuất hiện nhiều vướng mắc không thể vượt qua, nên đã phải bổ sung cải cách tư pháp, rồi cuối cùng thêm cải cách lập pháp. Thực tế đó cho thấy đổi mới hoạt động của Nhà nước phải tiến hành đồng bộ, từ lập pháp đến hành pháp và tư pháp. Đã đến lúc cần nhấn rất mạnh vai trò mở đường của cải cách lập pháp, từ đó đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm trong khoảng 10 năm, khi nước ta cơ bản đã trở thành một nước công nghiệp thì cũng cơ bản xây dựng xong một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với nền kinh tế thị trường đã phát triển khá. Hoàn chỉnh ở đây cần được hiểu cả về mặt số lượng và chất lượng.

Về mặt số lượng, hệ thống pháp luật nước ta hiện nay tuy chưa thể nói là đã đủ, song cũng không còn quá thiếu. Cho nên vấn đề tiếp tục chế định những luật còn thiếu vẫn rất quan trọng, song vấn đề cần đặc biệt quan tâm lại là chất lượng văn bản pháp luật vẫn còn thấp, tập trung trong hai điểm đã được nêu ra từ lâu. a) Tuổi thọ của luật ngắn. Do đó hiệu suất lập pháp thấp, vì công sức Quốc hội bị phân tán vào việc sửa đổi luật, nhưng quan trọng hơn là tác động điều chỉnh của luật tới xã hội bị hạn chế. Hệ thống pháp luật thiếu ổn định. b) Nhiều luật còn dừng ở mức luật khung, không thể trực tiếp thi hành nếu thiếu các văn bản hướng dẫn dưới luật. Nhiều vướng mắc đã phát sinh trong triển khai do văn bản dưới luật ban hành chậm, nhiều trường hợp không đúng luật, có khi còn mâu thuẫn nhau. Tác động của pháp luật đối với cuộc sống cũng như quyền lập pháp của Quốc hội bị hạn chế.

Cần thấy rằng chất lượng văn bản pháp luật còn thấp chủ yếu không phải do trình độ của các nhà làm luật thấp, mà là ở tư duy chậm đổi mới. Trước hết nhiều người chưa thấy được mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thời kinh tế thị trường không còn như thời tập trung quan liêu. Trong kinh tế thị trường, Nhà nước quản lý bằng pháp luật và pháp luật cần dành cho các chủ thể dân sự quyền tự do rộng rãi, phạm vi quản lý của Nhà nước thu gọn rất nhiều. Có một định đề cần chấp nhận: trong kinh doanh, quan chức không thể giỏi hơn doanh nhân. Tuy nhiên nhiều quan chức lại quen bao biện, quen hành xử theo nguyên tắc “không quản được thì cấm”. Vì thế luật khó “mở” đến mức cần có, không theo kịp sự biến đổi nhanh chóng của cuộc sống.

Đối với pháp luật, chỉ có thể thi hành, không thể nói đến vận dụng như đối với nghị quyết. Cho nên lời văn trong luật phải đủ rõ để phân định đúng sai khi xử lý vi phạm, không phải là khuyến cáo đạo đức. Có một thực tế không hay đã hình thành: các điều khoản luật chung chung thường dễ được thông qua. Cho nên để theo kịp tiến độ, nhiều vấn đề “gai góc” thường không được ghi vào luật, mà chuyển sang văn bản dưới luật. Luật tuy dễ được thông qua, nhưng khó cho thi hành. Cần đảo lại: luật khó thông qua, nhưng lại dễ thi hành. Tất nhiên các điều khoản chính sách có tầm quan trọng quyết định, nhưng các điều khoản kỹ thuật lại là phương tiện chuyển tải chính sách. Cho nên khi quyết định chính sách phải cân nhắc tới khả năng chuyển tải của kỹ thuật. Đó là điều kiện bảo đảm tính khả thi của luật.

Có người cho rằng chất lượng văn bản luật thấp là do trình độ chuyên môn của đại biểu Quốc hội còn thấp. Ý kiến này không hẳn đúng. Nếu chúng ta quan niệm đại biểu Quốc hội là chính khách, thì chức năng của họ là quyết định chính sách, còn những vấn đề kỹ thuật là công việc của chuyên gia. Trong quá trình soạn thảo dự án luật, đề xuất chính sách tuy khó, nhưng khó hơn lại là thiết kế các điều khoản kỹ thuật sao cho thực hiện được ý tưởng chính sách, nhưng lại khả thi. Các chuyên gia phải làm những thiết kế này và phải giải trình trước Quốc hội kèm theo các vấn đề chính sách. Quy trình làm luật hiện nay dường như chỉ coi trọng mặt chính sách. Quốc hội thường chỉ đòi hỏi giải trình về chính sách, không đòi hỏi giải trình về kỹ thuật. Chính sách và kỹ thuật bị tách rời ngay từ trong quá trình soạn thảo và thông qua luật. Vì thế mới xuất hiện những trường hợp bất khả thi. Luật có cũng như không, có khi còn bị lạm dụng. Cho nên phải coi trọng cả hai mặt chính sách và kỹ thuật ngay từ quá trình soạn thảo và nhất là khi thông qua luật. Các đại biểu không thể bấm nút thông qua khi các chính sách được cho là đúng nhưng lại không giải trình được những điều khoản kỹ thuật có khả năng chuyển tải chính sách đó.