Điểm tin báo chí sáng ngày 15 tháng 6 năm 2010

15/06/2010
Trong buổi sáng ngày 15/6/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:

1. Báo Dân trí phản ánh: Dự án Rusalka (tiếng Nga có nghĩa là Nàng tiên cá) do Công ty Đầu tư và Phát triển du lịch Rus-Invest-Tur (RIT) làm chủ đầu tư trên diện tích đất ven bờ biển TP Nha Trang, Khánh Hoà, rộng 43,8 ha. Theo giấy phép kinh doanh, RIT là công ty liên doanh 100% nước ngoài của 3 pháp nhân quốc tịch Nga gồm Elaitrox, Luzhniky-DHL và DHL Cargo. Dự án được cấp phép đầu tư năm 2000 với tổng số vốn dự kiến 15 triệu USD do Nguyễn Đức Chi là Chủ tịch HĐQT, khi hoàn thành đây là sẽ là khu nghỉ dưỡng 5 sao cao cấp với hệ thống khách sạn, sân golf 9 chỗ cùng các dịch vụ hội nghị…Tuy nhiên, sau khi Nguyễn Đức Chi bị cơ quan CSĐT truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạn tài sản” trong một vụ án, toàn bộ diện tích đất cấp cho dự án Rusalka như: các dãy nhà A,B,C, nhà văn phòng, nhà làm việc, đón tiếp... đã bị kê biên để phục vụ điều tra.

Đồng thời trên cơ sở đề nghị của CQĐT (Bộ Công an), Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có quyết định rút giấy phép đầu tư đối với RIT và UBND tỉnh Khánh Hòa ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho dự án này. Vì vậy dự án Rusalka đang triển khai dở dang buộc phải dừng lại. Liên quan đến vụ án này, sau đó toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm lại tiếp tục kê biên toàn bộ dự án Rusalka (để đảm bảo cho việc thi hành án). Điều đáng nói ở đây là trong khi tài sản mà Nguyễn Đức Chi phải thi hành án là trên 2 tỉ đồng nhưng “tòa” lại kê biên toàn bộ dự án Rusalka mà RIT đã đầu tư trên 131 tỉ đồng.

Như một động thái sửa lỗi thiếu sót của cấp tòa phúc thẩm, ngày 1/4/2010 (gần 5 năm sau khi vụ án xẩy ra), Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao có quyết định giám đốc thẩm số 07/2010/HS-GĐT, theo đó huỷ bỏ việc kê biên tài sản của dự án Rusalka đồng thời đình chỉ vụ án về phần này. Tuy nhiên, trong bản án không hề đề cập đến việc ai sẽ là người có quyền tiếp nhận số tài sản hợp pháp vừa được giải tỏa ở Rusalka, bởi chủ sở hữu hợp pháp là Công ty RIT thì đã không còn tồn tại (do dự án Rusalka đã bị Bộ Kế hoạch - Đầu tư rút giấy phép và chấm dứt hoạt động từ năm 2006). Nhiều ý kiến cho rằng, việc duy trì các quyết định thu hồi nói trên xuất phát từ đề nghị của Cơ quan CSĐT nhằm phục vụ cho vụ án “lừa đảo...” nhưng nay vụ án đã được chứng minh không có hành vi “lừa đảo...” thì các quyết định đó cũng không có lý do gì để tồn tại. Chưa nói, căn cứ pháp lý của việc chấm dứt hoạt động đối với dự án Rusalka còn nhiều điều chưa ổn. Theo khoản 4, điều 65 Luật Đầu tư, dự án đầu tư có thể bị chấm dứt trong trường hợp “do vi phạm pháp luật”.

Chủ thể vi phạm pháp luật ở đây chỉ có thể được hiểu là chủ dự án đầu tư, tức Công ty RIT mà RIT thì không có hành vi vi phạm pháp luật nào cả. Hơn nữa, khoản 5, điều 42, Luật Doanh nghiệp quy định: khi nhân danh công ty để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì cá nhân đó phải chịu trách nhiệm. Như vậy, liệu có oan khi buộc RIT phải gánh chịu trách nhiệm thay cho hành vi vi phạm (nếu có) của cá nhân Nguyễn Đức Chi? Mổ xẻ trường hợp dự án Rusalka để thấy rằng việc áp dụng các biện pháp trong vụ án hình sự mà người bị truy cứu là doanh nhân, giám đốc... rất có thể sẽ làm cho doanh nghiệp của họ bị tổn thương nặng nề. Đây là vấn đề rất đáng được xem xét nhằm tránh những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp và xã hội.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Vừa qua, Viện Kinh tế và Hòa bình có trụ sở tại Australia đã công bố Chỉ số Hòa bình Toàn cầu (GPI) thường niên, theo đó Việt Nam đã tăng hạng, trong bối cảnh thế giới trở nên bất ổn hơn vì sự gia tăng số vụ giết người và bạo lực dã man. Chỉ số GPI đã được công bố đều đặn thường niên trong vòng 4 năm qua bởi Viện Nghiên cứu Kinh tế và Hòa bình, một tổ chức tư vấn chuyên nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế, thương mại và hòa bình. Xếp hạng được tiến hành bởi việc tính toán 23 yếu tố khác nhau như tình trạng bạo lực, bất ổn chính trị, chi tiêu ngân sách quốc phòng, bên cạnh một số yếu tố cho thấy sự phát triển xã hội khác như tham nhũng, tự do báo chí, tôn trọng nhân quyền và tỉ lệ người đến trường.

Theo bảng xếp hạng năm nay, Việt Nam xếp thứ 38/149 nước, tăng một bậc so với năm 2009. Với thứ hạng này, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 4 tại Đông Nam Á, chỉ sau Malaysia (22), Singapore (30) và Lào (34). Đứng đầu bảng tổng sắp năm nay là New Zealand. Đây là năm thứ hai liên tiếp, New Zealand được xếp hạng hòa bình nhất thế giới. Đứng thứ hai là Iceland với màn quay trở lại ngoạn mục sau khi tụt từ vị trí số 1 hồi năm 2008 xuống thứ 4 hồi năm ngoái. Nhật Bản xếp vị trí thứ 3/15 trong nhóm 20 quốc gia đầu bảng nằm ở Tây hoặc Trung Âu. Toàn bộ các quốc gia ở vùng Scandinavi đều nằm trong tốp 10, cho thấy rằng những nước nhỏ, ổn định và dân chủ vẫn là những nước hòa bình nhất.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: TP Hà Nội kiến nghị Thủ tướng cho phép tiếp tục triển khai các dự án nhà cao tầng phù hợp với quy hoạch, đã hoàn tất các thủ tục và bức thiết trong phát triển kinh tế, xã hội tại bốn quận trung tâm.

Các dự án còn lại sẽ được TP xem xét cụ thể. Đó là nội dung UBND TP Hà Nội vừa gửi Thủ tướng để gỡ vướng đối với “lệnh” dừng xây nhà cao tầng trong khu vực trung tâm TP. Những nhà cao tầng được xây trong bốn quận trung tâm (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng và Đống Đa) phải đảm bảo nguyên tắc không làm tăng dân số, không gây áp lực lên hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật của khu vực. Mặt khác, khuyến khích việc chuyển đổi chức năng sử dụng đất cho các nhu cầu công cộng như công viên, cây xanh, vườn hoa, bãi đỗ xe…TP không cho phép xây nhà cao tầng ở các khu vực đặc thù như trung tâm chính trị Ba Đình, khu phố cổ, khu vực Hồ Gươm và vùng phụ cận, khu vực thành cổ.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Mỏi mòn chờ kháng nghị giám đốc thẩm. Bài báo phản ánh: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nói án phúc thẩm vi phạm nghiêm trọng tố tụng, tuyên án sai luật.

Bà H. gửi đơn kiện cho biết năm 2002 bà mua hơn 8.000 m² đất của một người gần nhà ông D. ở huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa-Vũng Tàu). Tháng 4-2006, tự nhiên ông D. coi như đất đó của mình, thuê xe vào múc đất mặt đem đi nên bà kiện ông D. phải trả đất mà bà đã mua. Lý giải với tòa, ông D. bảo đất này là của cha ông mua từ năm 1989. Năm 2002, không hiểu tại sao người của bà H. mang xe vào ủi đất của ông. Ông đã báo chính quyền đến lập biên bản. Hơn nữa, trước đó ông đã tranh chấp đất này với người hàng xóm, người đã bán đất này cho bà H. Vụ việc đang được cơ quan chức năng giải quyết thì đùng một cái bà H. được cấp sổ đỏ. Việc cấp này là không đúng, đất này là của gia đình ông, ông không chấp nhận trả đất cho bà H. Sau khi nghiên cứu, tòa các cấp ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H., buộc ông D. phải trả lại đất đang tranh chấp.

Sau khi án có hiệu lực, bà H. làm đơn yêu cầu thi hành án. Ngược lại, ông D. khiếu nại gay gắt án phúc thẩm của TAND tỉnh vì cho rằng án tuyên sai. Nhận đơn, đầu năm 2009, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (Cục THADS) đã tìm hiểu, thấy có nhiều sai sót nghiêm trọng nên có nhiều công văn kiến nghị lãnh đạo VKSND, TAND Tối cao kháng nghị án phúc thẩm. Cụ thể, tòa án chỉ được thụ lý giải quyết vụ kiện tranh chấp đất đai khi tranh chấp đó đã được hòa giải tại xã, phường hoặc được người có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Thế nhưng vụ này các bên chưa được hòa giải ở cơ sở và cũng chưa có quyết định giải quyết khiếu nại nhưng tòa vẫn thụ lý, xét xử. Hơn nữa, việc chuyển nhượng đất phải theo một trình tự luật định nhưng ở đây người bán đất không có giấy tờ gì chứng minh đất này là của mình. Việc mua bán cũng chỉ bằng miệng, người mua lại nhờ người khác đứng tên giùm nhưng lại được tòa chấp nhận. Chưa hết, đất này đang có tranh chấp chưa giải quyết xong nhưng cơ quan chức năng lại cấp giấy đỏ cho phía bà H. Việc cấp giấy đỏ lại xảy ra trước khi mua bán...

Các kiến nghị của Cục THADS đã khá rõ ràng, thế nhưng đến nay Cục vẫn chưa nhận được trả lời gì từ các cơ quan có thẩm quyền. Thiết nghĩ lãnh đạo VKSND, TAND Tối cao cần nhanh chóng phản hồi đề nghị của Cục THADS để vụ việc không kéo dài thêm nữa.

Báo cũng có bài “Quy định có nhưng khó phạt”. Bài báo phản ánh: Xử phạt người vi phạm pháp luật luôn được chính quyền xác định là một trong những biện pháp chủ yếu để bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực thi nghiêm chỉnh. Nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều trường hợp chưa rõ ai phạt hoặc phạt ai.

Câu hỏi này rất dễ thấy trong việc xử phạt người vi phạm lệnh cấm hút thuốc lá nơi công cộng. Theo Quyết định 1315/2009 của Thủ tướng Chính phủ, từ 1-1-2010 nghiêm cấm hút thuốc lá ở nhiều nơi đông người như lớp học, nhà trẻ, các cơ sở y tế, thư viện, nơi làm việc trong nhà, các khu vực chung của nhà thi đấu thể thao, sân vận động có mái che v.v… Người vi phạm sẽ bị xử phạt nghiêm theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Nói vậy thôi chứ trước giờ đã có mấy ai bị xử phạt! Không phải là không có người vi phạm (vì chỉ cần rảo qua một số bến xe, bệnh viện… là có thể dễ dàng bắt gặp nhiều người tay đang cầm hoặc miệng đang phì phèo điếu thuốc). Cũng không phải do mức phạt thấp (mức phạt tiền tối đa chỉ là 100.000 đồng) khiến người ta đâm ngại các thủ tục kèm theo. Mà là không có người đi xử phạt những vi phạm như thế (?!).

Cụ thể, theo Nghị định số 45/2005, có hai vị có quyền xử phạt các vi phạm trong lĩnh vực y tế ở mức trên. Gồm có: thanh tra chuyên ngành về vệ sinh trong lĩnh vực y tế trong khi thi hành công vụ; chủ tịch UBND cấp xã. Thế nhưng như Bộ Y tế đã thống kê, cả nước chỉ có gần 300 cán bộ thanh tra y tế lại đang phải đảm nhiệm thanh, kiểm tra nhiều lĩnh vực quan trọng khác như dược, khám chữa bệnh... Tương tự, chủ tịch UBND xã cũng trăm công ngàn việc, sức đâu tiếp nhận, xử phạt lắm người hút thuốc mọi lúc mọi nơi. Rốt cuộc thì người thích hút cứ hút. Quy định cấm chủ yếu được thực hiện thông qua con đường tuyên truyền, vận động nên được chăng hay chớ.

Thắc mắc này rơi vào các hành vi lấn chiếm dụng đường phố để bày bán hàng hóa, kinh doanh dịch vụ ăn uống... Theo khoản 5a Điều 15 Nghị định 34/2010, mức phạt tiền dành cho sai phạm này rất nặng (từ 20 triệu đến 30 triệu đồng). Song rất ít người vi phạm bị xử phạt. Trong trường hợp này, lý do được đưa ra là có rất nhiều người nghèo phải chọn cách đó để mưu sinh, phạt cả chục triệu đồng làm sao họ đóng nổi. Vậy là cấm cứ cấm, quy định nghiêm việc chế tài thì cứ quy định, còn vi phạm thì cứ vi phạm! Hay trong hành vi phát tờ rơi quảng cáo (vừa gây cản trở giao thông, vừa làm mất vệ sinh đường phố) thường thấy buổi chiều ở các giao lộ. Nên xử lý người được thuê hay xử lý người thuê phát tờ rơi? Chỉ biết là lâu nay báo chí chưa ghi nhận được trường hợp nào bị xử phạt.

Hoặc trong việc xử phạt các nhà máy gây ô nhiễm môi trường. Lâu nay các cơ quan hữu quan chỉ chăm chăm xử lý hành chính doanh nghiệp gây ô nhiễm. Điều 6 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính nêu: “Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm để xác định trách nhiệm pháp lý của người đó theo quy định của pháp luật”. Việc “xác định trách nhiệm pháp lý” của cá nhân trong trường hợp này chưa được quy định rõ nên thực tế trước nay trong các trường hợp tổ chức vi phạm, hầu như không có cá nhân nào bị xử phạt. Đây chính là lý do mà theo quy định cũ của Bộ luật Hình sự, những kẻ gây ô nhiễm đã dễ dàng “thoát tội”. Vì theo luật ấy thì trong lĩnh vực môi trường, nếu không cá nhân nào bị xử phạt hành chính thì cũng có nghĩa là không ai có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nay quy định mới đã tháo gỡ ràng buộc này khi nêu rằng “người nào thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường… ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác thì bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”. Tuy nhiên, thế nào là gây ô nhiễm ở mức độ nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác thì lại chưa có hướng dẫn. Vậy nên tình hình vẫn còn tắc tị. Hết Đồng Nai với vụ Vedan, Hà Nội với Khu công nghiệp Quang Minh, Quảng Ninh với Công ty PTVE, giờ đến Hải Dương với vụ Công ty Tung Kuang... Dân bức xúc với cách chế tài chưa đủ mạnh, còn pháp luật thì cứ bị “trói tay”. Làm sao để pháp luật lẫn người thực thi phát huy hiệu lực đầy đủ để có thể mang lại nhiều hiệu quả như mong muốn?

2. Thời báo kinh tế Sài Gòn có bài Gỡ rối việc xác định thời điểm có hiệu lực. Bài báo phản ánh: Hiện nay những quy định về xác định thời điểm có hiệu lực của các hợp đồng về quyền sử dụng đất trong các văn bản có liên quan đã lộ rõ sự bất hợp lý, cần được xem xét lại. Bằng quy định tại khoản 4, điều 146, Nghị định 181/2004/NĐ-CP khẳng định: “Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất...”. Quy định này từ đó đã tạo ra nhiều vướng víu khi xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Về vấn đề này, theo chúng tôi, có hai nội dung cần được làm rõ và điều chỉnh lại trong các nội dung quy định của pháp luật.

Thứ nhất, xác định lại thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bắt buộc phải công chứng, chứng thực. Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các bên tham gia. Vì đó là thời điểm chính thức làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của họ liên quan đến hợp đồng đó. Để xác định thời điểm đó, Bộ luật Dân sự yêu cầu phải dựa vào từng loại hợp đồng. Đối với các hợp đồng mà pháp luật đòi hỏi bắt buộc phải có công chứng, chứng thực thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được tính kể từ thời điểm được công chứng, chứng thực. Hợp đồng trong các giao dịch về quyền sử dụng đất thuộc trường hợp này nên thời điểm có hiệu lực của chúng cũng được tính như vậy. Bỏ qua lý do bắt buộc phải tuân thủ Bộ luật Dân sự như một văn bản gốc, đây là cách thức mà pháp luật đất đai của chúng ta lựa chọn từ trước và cách lựa chọn đó theo chúng tôi là phù hợp.

Thứ hai, xác định thời điểm chuyển dịch quyền sử dụng đất. Trong các hợp đồng mua bán tài sản thông thường khác, giá trị nội dung quan trọng của nó là việc chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản. Vì lẽ đó, cực kỳ cần thiết khi xác định thời điểm dịch chuyển quyền sở hữu đối với tài sản từ người bán sang người mua. Cũng tương tự, trong các giao dịch về quyền sử dụng đất, pháp luật cần phải chỉ ra thời điểm dịch chuyển quyền sử dụng đất từ bên chuyển quyền sang bên nhận chuyển quyền. Thời điểm này về bản chất không phải là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cho dù trên thực tế chúng có ngẫu nhiên trùng nhau đi chăng nữa.

Trở lại với các quy định mà chúng ta đang bàn luận và giải quyết, chúng tôi cho rằng, những người soạn thảo Nghị định 181/2004/NĐ-CP đã có sự nhầm lẫn giữa hai thời điểm nêu trên. Bởi lẽ, trước hết, theo quy định hiện nay khi thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất, người sử dụng đất có nghĩa vụ tuân thủ đầy đủ các thủ tục luật định tại cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất. Thực ra, thủ tục này là thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo như quy định tại điều 46 của Luật Đất đai và điều 38 Nghị định 181/2004/NĐ-CP. Đồng thời lúc đó, quy trình trước bạ (sang tên) cũng được thực hiện. Cho nên, theo chúng tôi, thực chất thời điểm được đăng ký tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất là thời điểm chuyển dịch quyền sử dụng đất. Không những thế, khi chúng ta cho rằng, hợp đồng được thiết lập trong các giao dịch này có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thì có nghĩa là kể từ thời điểm này việc thực thi hợp đồng mới được bắt đầu, quyền và nghĩa vụ của các bên mới phát sinh. Điều này khó có thể được chấp nhận, bởi vì: Một là, trên thực tế sau khi hợp đồng được công chứng, chứng thực, các bên đã chấp nhận sự ràng buộc và bắt đầu thực hiện các hành vi cam kết. Hai là, không thể phủ nhận giá trị pháp lý của các hợp đồng trong những trường hợp này cho dù nó chưa được đưa ra đăng ký tại cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất.

Thực tiễn trên thị trường quyền sử dụng đất hiện nay, có rất nhiều hợp đồng được ký kết mà các bên thỏa thuận phương thức thanh toán nhiều lần, nhiều kỳ. Khoảng thời gian này có thể kéo dài từ một đến hai năm và các thủ tục chuyển quyền chỉ được thực hiện sau khi các kỳ hạn thanh toán theo cam kết đã được thực hiện hoàn tất. Trong trường hợp đó, liệu những khoản tiền mà bên mua đã chuyển cho bên bán có liên quan gì đến hợp đồng hay không? Nếu không, thì khi tranh chấp xảy ra việc người bán trả lại những khoản tiền đó cho người mua sẽ như thế nào? Hậu quả cho xã hội sẽ ra sao khi người bán không muốn bán và người mua không muốn mua chỉ với lý do là hợp đồng chưa phát sinh hiệu lực?

Trong đời sống pháp lý, với vị trí của một điều khoản trong một văn bản hướng dẫn thi hành, Nghị định 181/2004/NĐ-CP không thể là rào cản đối với quá trình tuân thủ các quy định của các văn bản có vị trí pháp lý cao hơn, được ban hành trước đó, đặc biệt là Bộ luật Dân sự. Và nội dung này cũng không làm thay đổi thói quen xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng của những người tham gia thiết lập trên thị trường quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, một hệ thống pháp luật nếu xuất hiện các quy định tréo ngoe như vậy không thể đảm bảo cho tính pháp điển hóa cao của hệ thống pháp luật đó, và đương nhiên nó không phải là động lực kích ứng cho quá trình phát triển thị trường quyền sử dụng đất nói riêng và thị trường bất động sản nói chung.

3. Báo Hà Nội mới có bài Kiểm soát thủ tục hành chính từ khâu soạn thảo. Bài báo phản ánh: Theo Nghị định số 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC) mà Chính phủ mới ban hành có hiệu lực từ ngày hôm qua (14-6), việc thực hiện kiểm soát TTHC phải được các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện ngay và thường xuyên, liên tục trong quá trình tổ chức thực hiện TTHC.

TTHC được quy định phải bảo đảm các nguyên tắc: Đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hiện; quyền bình đẳng của các đối tượng thực hiện TTHC; tiết kiệm thời gian và chi phí của cá nhân, tổ chức, cơ quan hành chính nhà nước; TTHC phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định trên cơ sở phân công, phân cấp rõ ràng, minh bạch, hợp lý... Tất cả các TTHC sau khi ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ hoặc bãi bỏ phải được công bố công khai đầy đủ, thường xuyên, rõ ràng, đúng địa chỉ, dễ tiếp cận, dễ khai thác, sử dụng và phải được đăng tải trên cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC.