I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 7-6, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo UBND tỉnh Đồng Nai khẩn trương thực hiện việc thẩm tra, xác minh thiệt hại của người dân trên địa bàn trong vụ Vedan. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến nay Đồng Nai chưa chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện việc thống kê thiệt hại này. Thực tế, người dân tự kê khai và Sở Tài nguyên và Môi trường thống kê số tiền thiệt hại. Theo báo cáo cuối tháng 5 của Đồng Nai, con số này trên 1.600 tỉ đồng/5.000 hộ dân.
Ngày 8-6, trao đổi vớil Pháp Luật TP.HCM, ông Nguyễn Văn Phụng, Chủ tịch Hội Nông dân TP.HCM, cho biết quan điểm của Hội Nông dân TP là hoàn toàn không chấp nhận số tiền 7 tỉ đồng mà Vedan hỗ trợ cho nông dân huyện Cần Giờ bị thiệt hại. Hội Nông dân cùng các cơ quan chức năng và luật sư Nguyễn Văn Hậu (Đoàn Luật sư TP.HCM, tư vấn vụ việc này) sẽ gặp đại diện Công ty Vedan để thương lượng lần cuối cùng, nếu không đạt được con số thỏa thuận sẽ chuẩn bị các thủ tục khởi kiện Công ty Vedan ra tòa. Trong khi đó, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng cho biết sẽ giao cho một cơ quan đại diện tiến hành các thủ tục khởi kiện vì không chấp nhận số tiền 10 tỉ đồng mà Vedan hỗ trợ.
2. Thông tấn xã Việt Nam phản ánh: Liên quan đến vụ án Trần Ngọc Sương và đồng phạm bị xét xử về tội “lập quỹ trái phép,” chiều 8/6, Tòa án Nhân dân Tối cao đã có thông tin chính thức về vụ việc này. Theo Quyết định tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 27/5/2010, Tòa Hình sự-Tòa án Nhân dân Tối cao quyết định hủy bản án hình sự phúc thẩm ngày 19/11/2009 của Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ và bản án hình sự sơ thẩm ngày 15/8/2009 của Tòa án Nhân dân huyện Cờ Đỏ để điều tra lại; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.
Quyết định giám đốc thẩm nêu rõ tại phiên tòa sơ thẩm, kiểm sát viên đã tách các hành vi của Trần Ngọc Sương đối với khoản tiền 850 triệu đồng trong số tiền Sương bị truy tố về tội “Lập quỹ trái phép” và hơn 301 triệu đồng là số tiền Sương sử dụng trong quỹ trái phép với mục đích trả tiền mua đất cho cá nhân để điều tra về tội “tham ô tài sản” và được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận đề nghị này. Tòa án Nhân dân Tối cao nhận định việc tách các hành vi nêu trên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì theo quy định tại Điều 171, Bộ luật tố tụng hình sự, việc tách các hành vi phạm tội chỉ được thực hiện trong giai đoạn điều tra. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện vi phạm nêu trên để khắc phục là thiếu sót. Mặt khác, nếu coi việc tách các hành vi nêu trên là rút một phần quyết định truy tố thì theo quy định tại Điều 195 và Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự, tại phiên tòa, kiểm sát viên có thể rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn.
Nhưng trên thực tế, sau khi tách các hành vi trên, Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Cờ Đỏ vẫn khởi tố Trần Ngọc Sương về tội “tham ô tài sản” (là tội nặng hơn so với tội “lập quỹ trái phép”) đối với các hành vi đã tách. Như vậy, một hành vi vi phạm của Trần Ngọc Sương đã bị khởi tố 2 lần là không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
3. Báo Lao động phản ánh: Ngày 8.6, Bộ Tài chính cho biết đã ban hành công văn số 178 /TB-BTC về việc điều hành giá và ngừng sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng, dầu. Theo đó, sau khi trao đổi, thống nhất với Bộ Công Thương, Bộ Tài chính yêu cầu các DN kinh doanh xăng, dầu đầu mối thực hiện các công việc sau: Ngừng sử dụng từ Quỹ Bình ổn giá xăng dầu đối với mặt hàng xăng, dầu diesel, dầu hoả kể từ 0 giờ ngày 9.6. Giảm giá bán các chủng loại xăng, dầu (các mức giá giảm đã bao gồm thuế giá trị gia tăng) như sau: Giảm giá bán lẻ mặt hàng xăng 500 đồng/lít; giảm giá bán lẻ mặt hàng dầu diesel 200 đồng/lít; giảm giá bán lẻ mặt hàng dầu hoả 300 đồng/lít; giảm giá bán buôn mặt hàng dầu madút 500 đồng/kg. Mức giảm giá bán các mặt hàng xăng, dầu này được áp dụng từ 22 giờ ngày 8.6.
Cũng từ 18 giờ 00 ngày 8.6, TCty Xăng dầu VN (Petrolimex) sẽ áp dụng chương trình giá bán lẻ ưu đãi đợt 5; theo đó, khách hàng mua xăng, diesel, dầu hoả và thanh toán bằng thẻ Flexicard tại cửa hàng xăng dầu Petrolimex trên toàn quốc sẽ được giảm giá với mức thấp hơn giá bán lẻ niêm yết là 100 đồng/lít (đã bao gồm thuế GTGT).
4. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 7-6, Tổ chức phi chính phủ quốc tế Action Aid Việt Nam và Tổ chức Oxfam (Anh) tại Việt Nam đã công bố bản khuyến nghị gửi cho hội nghị giữa kỳ Nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) được tổ chức trong 2 ngày (9 và 10-6) tại tỉnh Kiên Giang.
Theo đó, báo cáo này cho thấy việc duy trì kết quả giảm nghèo ấn tượng thời gian qua đang đối mặt với nhiều thách thức và tình trạng đói nghèo, mù chữ vẫn là vấn đề lớn. Do đó, các khoản đầu tư mới cần được tập trung tới các vùng nhiều khó khăn, các vấn đề về bất bình đẳng giới, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tổng thể ở vùng nông thôn. Báo cáo là kết quả theo dõi đói nghèo vòng ba được tiến hành tại 10 cộng đồng dân cư trên toàn quốc do Action Aid và Oxfam cùng phối hợp thực hiện.
5. Báo điện tử VnMedia có bài Không thông qua dự án đường sắt cao tốc là IQ thấp?. Bài báo phản ánh: Phiên thảo luận ngày 8/6 về dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam đã kết thúc bằng nhiều ý kiến ấn tượng. Nhiều đại biểu “hoan hô” vì đường sắt qua tỉnh nhà. Ấn tượng nhất là phần “tranh cãi” về… chỉ số IQ giữa các đại biểu Quốc hội. Phiên thảo luận của Quốc hội (ngày 8/6) về dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam đã kết thúc bằng 39 ý kiến trái chiều. Nhiều đại biểu Quốc hội tán thành với chủ trương đầu tư dự án xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội-TP HCM vì tầm quan trọng góp phần giảm ùn tắc giao thông, thúc đẩy phát triển giao thương giữa các vùng, miền trong cả nước. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến “phản pháo” xoay quanh tính khả thi của dự án.
“Mở màn” liên quan tới chỉ số IQ, đại biểu Trần Tiến Cảnh (Hà Nam) cho rằng, Báo cáo giải trình bổ sung dự án này rất đầy đủ, kỹ càng, giải đáp được nhiều băn khoăn của các vị đại biểu Quốc hội. Ông bổ sung, “thế giới có Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Thụy Điển, Hà Lan, Anh, Hàn Quốc, Bỉ đã có đường sắt cao tốc, Brazin, Nga, Indonesia đang triển khai. Tôi thấy những nơi có chỉ số IQ cao thì họ có đường sắt cao tốc, Việt Nam ta cũng có chỉ số IQ cao. Gần ta Trung Quốc họ làm nhiều đường sắt cao tốc. Việt Nam hội đủ các yếu tố về sự cần thiết, về địa hình, nhu cầu đi lại 2 miền rất lớn và sự phát triển kinh tế của đất nước”. “Phản pháo” bằng một trong những câu ấn tượng khi không tán thành “siêu” dự án là ý kiến của đại biểu Nguyễn Minh Thuyết (tỉnh Lạng Sơn).
Một trong những vấn đề ông phản đối là tính hiệu quả kinh tế của Dự án ,“ Tôi rất ngạc nhiên, đề xuất phương án là khai thác quỹ đất quanh khu ga, khai thác các dịch vụ ngoài vận tải để tăng tỷ lệ nội hoàn tài chính từ 2,4% hoặc 3%, tức là thấp hơn mức gửi tiết kiệm lên 8,3%. Đó là một bài toán tính quẩn, mình làm đường cao tốc cuối cùng mình lại phải dựa vào quỹ đất, dựa vào dịch vụ để tăng tỷ lệ nội hoàn tài chính lên, như vậy là thế nào?.”. “Tàu chỉ đỗ 3 phút, 5 phút thôi thì dịch vụ gì có thể hoạt động ở đó. Tổng cục đường sắt là cơ quan chủ đầu tư đã mời 21 đại biểu Quốc hội của 21 tỉnh thành đi tham quan đường sắt cao tốc của Trung Quốc. Chúng tôi rất mong các vị đại biểu đó nói rõ hơn Trung Quốc khai thác dịch vụ và quỹ đất này như thế nào?” ông Thuyết đặt câu hỏi. Và cuối cùng đại biểu Thuyết “chốt” rằng, “ có một số đại biểu ví von là dự án đường sắt này sẽ "đánh thức nàng tiên ngủ trong rừng". Tôi thấy ví von rất lãng mạn, nhưng tôi rất hồi hộp xem câu đầu tiên mà nàng tiên lúc mở mắt ra nói gì? Chắc là sẽ hỏi: Anh ơi, tiền đâu? Như thế rất nguy hiểm. Tôi xin nói thật với Quốc hội là chỉ số IQ của tôi hơi thấp, cho nên chắc chắn tôi không tán thành dự án này”. Và đại biểu Nguyễn Bá Thanh (Đà Nẵng) lên tiếng “Tôi cho rằng, ủng hộ hay không ủng hộ thì cũng chỉ vì sự phát triển đi lên của đất nước mà thôi, do đó chúng ta hết sức bình tĩnh để lắng nghe ý kiến của nhau, không khéo việc thảo luận, ông tán thành thì coi như chỉ số IQ cao, ông không tán thành coi như chỉ số IQ thấp, đâm ra không hay”.
Trao đổi ngoài lề phiên thảo luận với VnMedia, đại biểu đại diện một tỉnh miền Trung cho rằng, dự án được một số đại biểu lựa chọn vì còn tính địa phương. Nếu Quốc hội nhất quyết “nhấn nút” thì người ủng hộ đều muốn làm phần đường sắt chạy qua tỉnh mình trước. Đầu Hà Nội cũng muốn, miền Trung cũng quan trọng, mà đầu Tp. HCM cũng nói rất cần. Trong phiên thảo luận, nhiều ý kiến cũng ủng hộ dự án với các lý do thuyết phục. Tuy nhiên một trong những lý do ít người nhắc đến, có chăng chỉ là vấn đề ngoài lề đó là đại biểu “hoan hô” vì đường sắt chạy qua …tỉnh nhà. Đại biểu Nguyễn Bá Thanh (Đà Nẵng), nhất trí chủ trương dự án này bằng việc “tán thành cho làm trước hai đoạn Hà Nội - Vinh và Tp.HCM - Nha Trang, nhưng nên rút ngắn thời gian hoàn thành dự án. Đường sắt cao tốc chỉ phát huy tác dụng khi nào thông tuyến, khi nào đi ngang Đà Nẵng thì lúc đó mới có hiệu quả”.
Đại biểu Nguyễn Đăng Trừng (TP.HCM) cũng ủng hộ mạnh mẽ dự án, bởi một trong những lý do, nước ta còn nghèo, đã là nước nghèo nên vay để phát triển. Dư nợ quốc gia của ta vẫn trong vòng an toàn, các tổ chức cho vay vẫn đang và tiếp tục cho nước ta vay. Cũng theo đại biểu Trừng, hai đầu đất nước như hai cái phễu hút khách, khi đường sắt đi vào thì lượng khách sẽ tăng cao. Năm 2020, GDP bình quần đầu người của Việt Nam dự đoán khoảng 3.000 USD thì càng tăng nhu cầu. Nên thông qua trong kỳ họp này, các thế hệ mai sau sẽ cảm ơn vì đã thông qua.
Đại biểu Lê Văn Cuông, tỉnh Thanh Hóa, nơi có tuyến đường sắt chạy qua, cũng ủng hộ bởi, “siêu” dự án này bởi có tính nhìn xa. Kinh nghiệm ở những nước ngoài thì khi có đường sát cao tốc thì số người đi máy bay tuyến ngắn giảm. Cũng theo ông Cuông, chỉ nên làm từng đoạn…150 km. Theo ý kiến của nhiều đại biểu, dự án này vẫn cần có thêm thời gian để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Bên cạnh đó còn nhiều câu hỏi của các đại biểu cần được giải đáp thỏa đáng. Đại biểu Dương Trung Quốc (tỉnh Đồng Nai) cho rằng, dự án cần có thêm thời gian nghiên cứu và cần lấy thêm ý kiến của nhân dân.
Ông đặt câu hỏi, không hiểu tại sao đến năm 2020 nước ta đã thành nước phát triển mà vẫn phải vay ODA? Phân bố GDP ở đâu? Người nghèo có nâng được mức sống không, có đi được tàu cao tốc không? . Tại sao không chờ sang năm, sẽ có Quốc hội mới quyết định, Chính phủ mới thực thi. Tuy nhiên nếu Quốc hội vẫn “nhấn nút” thông qua thì theo ông, nên làm trước đoạn TP.HCM-Nha Trang. Đồng quan điểm trên, đại biểu Vũ Hoàng Hà (tỉnh Bình Định) cho rằng, đồng tình là tương lai nên có dự án này, nhưng từ nay đến 2020 thì chưa nên. Nếu nâng cấp đường bộ, đường thủy, mở thêm đường hàng không thì sẽ giải quyết được các nhu cầu đi lại. Không nên trong một kỳ quốc hội mà quyết quá nhiều công trình trọng điểm lên tới 200 tỷ USD. Đến nay Nhật Bản chưa quyết định cho Việt Nam vay thì Quốc hội quyết xong lấy tiền vào đâu. Ông cũng đặt câu hỏi, tại sao đưa ra 4 phương án, trong đó 3 phương án đầu thì Chính phủ nói là Quốc hội không nên chọn?. Sau khi phiên thảo luận kết thúc, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ họp trước ngày 14/6 và sẽ có những ý kiến về dự án này trước khi thông qua trong kỳ họp này.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Trang web báo Nhân dân ngày 08/6/2010 có bài Giám định viên pháp y: Bị "bỏ rơi" đến bao giờ?. Bài báo phản ánh: Cuối tháng 5, một số báo chí đăng tải thông tin liên quan đến cái chết của Trưởng VPCC Việt Tín Nguyễn Minh Hải, theo đó, “Công an huyện Thanh Trì - TP Hà Nội cho biết, Viện Pháp y Trung ương đã có kết luận chính thức về nguyên nhân tử vong của ông Nguyễn Minh Hải là do ngạt nước. Theo nhận định của cơ quan công an, nhiều khả năng ông Hải đã tự tử…” Điều đáng nói là một vấn đề thực sự đáng quan tâm được “vỡ” ra sau vụ này – đó là sự quản lý nhà nước đối với hoạt động của giám định pháp y. Đó chính là khẳng định của Tiến sĩ Vũ Dương – Viện trưởng Viện Pháp y quốc gia sau khi công an huyện Thanh Trì thông tin, bản kết luận giám định cái chết của Trưởng Văn phòng công chứng Việt Tín là do Bệnh viện Việt Đức thực hiện. Và công an huyện Thanh Trì, Hà Nội không hề cung cấp bất kỳ một kết luận giám định nào cho báo chí cũng như không có nhận định nào về nguyên nhân cái chết của Trưởng VPCC Việt Tín.
Theo ông Dương, Viện Pháp y trung ương (thường được gọi tắt là Viện Pháp Y) đã không còn tồn tại từ năm 2006 theo quyết định số 451/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ông Dương cho hay, năm 2002, Bộ trưởng Bộ Y tế lúc đó là GS Đỗ Nguyên Phương đã ra Quyết định số 1119 bổ nhiệm 52 giám định viên (GĐV) trong đó có một số bác sỹ khoa giải phẫu bệnh thuộc bệnh viện Việt Đức và một số ở khoa Y pháp thuộc Đại học Y Hà Nội. Sau khi Viện Pháp y quốc gia ra đời, căn cứ theo Nghị định 67/2005/NĐ-CP hướng dẫn Pháp lệnh giám định tư pháp, các GĐV pháp y trước đây nhất thiết phải qua quy trình bổ nhiệm lại và được Bộ Tư pháp cấp thẻ. Việc rà soát, bổ nhiệm lại GĐV đã được thực hiện nhưng trong danh sách đó không có tên những GĐV của Bệnh viện Việt Đức.
Ông Vũ Dương bức xúc, “Bệnh viên Việt Đức rõ ràng đã sai vì họ không được bổ nhiệm lại, mà vẫn xưng là GĐV pháp y, rồi lấy dấu của bệnh viện Việt Đức đóng vào bản kết luận giám định pháp y là sai tiếp. Chúng tôi đã trực tiếp gặp anh Quyết – Giám đốc bệnh viện để nói về vấn đề này. Chúng tôi cũng có báo cả lên Bộ Tư pháp rồi nhưng không hiểu sao không có gì thay đổi”. Viện trưởng Viện Pháp y quốc gia cũng phân vân không hiểu, thường thì hồ sơ giám định phải lưu trữ 30 năm, không hiểu những người giám định của bệnh viện có làm được hay không và họ lấy tư cách gì để làm việc với thân nhân người giám định hay cơ quan tố tụng. ‘Một bản kết luận giám định thường có nhiều bên “soi” như cơ quan trưng cầu, viện kiểm sát, tòa án, công an, bị đơn, nguyên đơn.Tôi không hiểu tại sao cái quy trình một con voi chui ngược qua lỗ kim cứ tồn tại dai dẳng”, ông Dương nói.
Các lãnh đạo của Viện Pháp y quốc gia lo ngại, các kết luận giám định cúa GĐV được sử dụng làm căn cứ tại tòa trong quá trình tố tụng, nhưng nếu các kết luận này không do cơ quan có thẩm quyền theo quyết định của chính phủ đóng dấu, chuyên viên được bổ nhiệm đúng luật hiện hành, các giám định viên “từ trên trời rơi xuống” thì ai sẽ là đối tượng hứng chịu hậu quả sai sót nếu có? Khi thông tin trong bản kết luận giám định không bảo đảm tính chuẩn xác, khoa học và tính pháp lý thì sự công bằng của bản án cũng dễ bị ảnh hưởng. Hiện bệnh viện Việt Đức có hơn 10 GĐV thực hiện việc mổ tử thi theo trưng cầu của công an và căn cứ để cơ quan công an căn cứ ra Quyết định trưng cầu chính là Quyết định bổ nhiệm số 1191 từ thời Viện Pháp y trung ương. Pháp lệnh Giám định tư pháp đã có hiệu lực thi hành từ lâu cùng với văn bản hướng dẫn là Nghị định số 67 nhưng các giám định viên được bổ nhiệm căn cứ vào Nghị định số 117 từ trước, liệu có đảm bảo tính pháp lý hay không?
Trao đổi với phóng viên NDĐT, Tiến sĩ- Bác sĩ Lưu Sỹ Hùng- Trưởng bộ môn Y pháp Đại học Y Hà Nội cho biết, ông chính là người trực tiếp làm vụ VPCC Việt Tín sau khi có yêu cầu giám định pháp y từ phía công an huyện Thanh Trì. “Thường thì khi có các vụ việc khó, phức tạp trong việc xác định giữa bệnh và chấn thương thì cơ quan điều tra thường mời chúng tôi giám định. Vụ việc của Trưởng VPCC Việt Tín cũng vậy. Để đưa ra một kết luận giám định không hề đơn giản vì nó đòi hỏi tính chuẩn xác, để phục vụ hoạt động tố tụng.” Bệnh viện Việt Đức cũng khẳng định, hiện chưa có bất cứ văn bản pháp lý nào thay thế Quyết định 1119 cũng như chưa có văn bản nào bãi nhiệm những người đã được Bộ Y tế và Bộ Tư pháp phê chuẩn trước đó. Còn theo điều 5 của Pháp lệnh về Giám định tư pháp, “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giám định tư pháp...”. Bác sỹ Đào Thế Tân- Nguyên phó Trưởng bộ môn Y pháp Đại học Y Hà Nội, người từng tham gia là thành viên tổ biên tập Pháp lệnh về Giám định tư pháp cho biết, việc bổ nhiệm GĐV pháp y có thể tiến hành theo hai cách, một là GĐV chuyên trách, hai là GĐV không chuyên trách. Khi có những vụ việc phức tạp, đòi hỏi chuyên môn sâu thì theo yêu cầu của các cơ quan hành pháp như Công an, TANDTC, VKSNDTC, những người được trưng cầu để giám định hoàn toàn có đủ quyền giống như các GĐV chuyên trách. “Bệnh viện Việt Đức thực hiện chức năng pháp y từ khi hoà bình lập lại đến nay. Chúng tôi làm rất tốt và không hề có sai sót. Do đó không thể nói như một số báo là “giám định chui” được. Chúng tôi căn cứ theo quyết định bổ nhiệm mà làm vì chưa có quyết định bãi miễn. Nếu luật quy định phải rà soát, bổ nhiệm lại thì cơ quan quản lý nhà nước, ở đây cụ thể là Viện pháp y quốc gia phải có văn bản thông báo về quy trình. Nếu bị bãi miễn thì cũng cần có lý do cụ thể. Nhưng tính đến thời điểm này, chúng tôi chưa nhận được bất cứ văn bản nào như thế cả”, ông Tân khẳng định.
Trên thực tế, một số GĐV pháp y thuộc bệnh viện Chợ Rẫy trong bản danh sách 52 người theo Quyết định 1119/QĐ-TTg đã được rà soát và bổ nhiệm lại theo đúng tinh thần của Nghị định 67. Vậy vấn đề nằm ở chỗ, tại sao quy trình rà soát đó lại “bỏ quên” những GĐV pháp y còn lại trong khi các GĐV pháp y được bổ nhiệm đều là các giáo sư đầu ngành, uy tín ở nhiều lĩnh vực? Theo ông Phạm Kim Bình - Trưởng khoa giải phẫu bệnh- Phó trưởng bộ môn y pháp Đại học Y Hà Nội, các cơ quan trưng cầu giám định thường phải căn cứ vào văn bản pháp lý để làm việc chứ không phải là dễ dàng đưa ra quyết định trưng cầu. “Sau vụ việc này, chúng tôi rất muốn các cơ quan quản lý nhà nước, cả Bộ Y tế và Bộ Tư pháp cùng nhìn nhận lại. Nếu đã bổ nhiệm thì chúng tôi làm việc, nếu không bổ nhiệm nữa hay bãi nhiệm thì cũng cần có quyết định với quy trình thủ tục rõ ràng. Điều quan trọng là chúng tôi cần quy trình minh bạch để làm việc. Hiện chúng tôi vẫn đang làm việc hết mình theo đúng lương y nghề nghiệp”.
Qua vụ giám định pháp y về nguyên nhân cái chết của ông Nguyễn Minh Hải, Trưởng VPCC Việt Tín, vấn đề quản lý nhà nước đối với giám định pháp y thực sự cần được các cơ quan chức năng đánh giá lại nghiêm túc để đội ngũ những GĐV pháp y, vốn được coi là “của quý hiếm” an tâm làm việc, phục vụ cộng đồng, tránh cảm giác “bị bỏ rơi lâu rồi, chẳng ai để ý đến".
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài BỘ XÂY DỰNG TRẢ LỜI VỀ VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CHO DỰ ÁN TRONG KHU ĐÔ THỊ MỚI: Không có mâu thuẫn trong các quy định. Bài báo phản ánh: Ngày 8-6, Bộ Xây dựng cho biết đã có văn bản trả lời Bộ Tư pháp xung quanh việc huy động vốn của khách hàng trong khu đô thị mới. Trước đó, Bộ Tư pháp đã có ý kiến về “tính hợp pháp” của Công văn 03/2010 (hướng dẫn thực hiện Thông tư 04/2006 của Bộ Xây dựng) do Cục Phát triển đô thị - Bộ Xây dựng ban hành.
Theo Bộ Xây dựng, về việc huy động vốn, Thông tư 04/2006 hướng dẫn: thời điểm đầu tiên chủ đầu tư dự án khu đô thị mới được phép huy động vốn là khi chủ đầu tư đã giải phóng mặt bằng và bắt đầu triển khai xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật theo giai đoạn đầu tư được xác định trong quyết định cho phép đầu tư. Hướng dẫn này phù hợp với Nghị định 02/2006 nhằm ngăn ngừa chủ đầu tư khi chưa đầu tư dự án đã huy động vốn của khách hàng, đồng thời cũng phù hợp với quy định của Luật Kinh doanh bất động sản (BĐS). Cạnh đó, Nghị định 02 và Thông tư 04 chỉ điều chỉnh việc huy động vốn của chủ đầu tư dự án khu đô thị mới (chủ đầu tư cấp 1), không điều chỉnh việc huy động vốn của các chủ đầu tư thứ phát. Đối với dự án nhà ở, việc huy động vốn của chủ đầu tư được thực hiện theo quy định của Luật Nhà ở (chỉ được huy động vốn sau khi đã xây xong móng của tòa nhà). Mặt khác, do dự án khu đô thị mới cũng có sản phẩm là nhà ở và có nhiều trường hợp chủ đầu tư cấp 1 trực tiếp đầu tư kinh doanh nhà ở nên dẫn đến sự hiểu lầm về việc huy động vốn của chủ đầu tư cấp 1 và chủ đầu tư thứ phát.
Bộ Xây dựng cho rằng kết quả kiểm tra, rà soát cho thấy giữa các văn bản quy phạm về đầu tư xây dựng khu đô thị mới, nhà ở và kinh doanh BĐS không có mâu thuẫn trong các quy định về việc huy động vốn. Tuy nhiên, do các dự án khu đô thị mới, dự án đầu tư kinh doanh BĐS và dự án nhà ở có nhiều tính chất đặc thù và có phần liên quan với nhau nên Bộ Xây dựng thấy rằng cần tiếp tục làm rõ hơn về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của từng văn bản. Điều này nhằm đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cũng như để tránh sự hiểu và áp dụng không thống nhất trong thực tiễn. Theo Bộ Xây dựng, đối tượng điều chỉnh của Nghị định 02 là dự án khu đô thị mới có nhiều tính chất đặc thù, không giống với dự án nhà ở theo Luật Nhà ở. Dự án khu đô thị mới có quy mô lớn, thường từ 50 ha trở lên, trong dự án có rất nhiều loại công trình và dự án khác nhau (từ khu dân cư đến hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, công viên, cây xanh và các dịch vụ đô thị khác). Chủ đầu tư của dự án khu đô thị mới được gọi là chủ đầu tư cấp 1, còn các chủ đầu tư tham gia đầu tư từng phần trong phạm vi dự án được gọi là chủ đầu tư thứ phát. Do đối tượng điều chỉnh khác nhau nên Nghị định 02, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh BĐS không có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo.
Tuy nhiên, do sản phẩm cuối cùng của dự án khu đô thị mới cũng là nhà ở nên dễ dẫn đến sự hiểu lầm, đồng nhất đối tượng điều chỉnh của Nghị định 02 và Luật Nhà ở. Chính phủ đã giao Bộ Xây dựng chủ trì nghiên cứu, soạn thảo Luật Quản lý và phát triển đô thị để giải quyết các vấn đề mà thực tế đang đặt ra. Bộ Xây dựng nhận xét trong Công văn 03 có một số nội dung giải thích thêm về thiết kế nhà ở và khả năng tài chính của Công ty TNHH Gamuda Land Việt Nam dẫn đến sự hiểu lầm về phạm vi đối tượng của Nghị định 02 và Thông tư 04. Bộ Xây dựng đã chỉ đạo Cục Phát triển đô thị trực tiếp làm việc với Công ty TNHH Gamuda Land Việt Nam và có thể có văn bản tiếp tục giải thích, hướng dẫn chủ đầu tư triển khai dự án theo đúng quy định.
3. Báo điện tử Chính phủ có bài Chưa dứt tình trạng nợ đọng văn bản. Bài báo phản ánh: Sau 5 tháng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt việc giải quyết nợ đọng văn bản, kết quả công tác soạn thảo và trình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực vẫn chưa có nhiều chuyển biến. Để giải quyết tình trạng văn bản quy định chi tiết chậm được ban hành so với hiệu lực quy định trong luật, bảo đảm sự đồng bộ và tính hiệu quả của hệ thống pháp luật cũng như sự phối hợp trong hoạt động xây dựng pháp luật giữa Chính phủ và Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều biện pháp thực hiện Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 05/12/2009 về trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong việc tập trung chỉ đạo đẩy nhanh việc soạn thảo và trình ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2010.
Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành coi đây là nhiệm vụ trọng tâm cần được tập trung chỉ đạo để hoàn thành việc soạn thảo, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 73 văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực còn nợ đọng trong quý I/ 2010. 73 văn bản sẽ này quy định chi tiết thi hành 16 luật, pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 1/1/2010 trở về trước. Sau đó, các Bộ trình Thủ tướng không ban hành 5 văn bản, xin lùi 3 văn bản đến 2011, như vậy số văn bản còn lại phải ban hành là 65 văn bản. Và sau 5 tháng Chính phủ chấn chỉnh và chỉ đạo quyết liệt việc này, kết quả thực hiện công tác soạn thảo và trình ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực pháp luật vẫn chưa có nhiều chuyển biến. Tính đến hết tháng 5/2010, mới ban hành được 15 văn bản, đạt 23% trong số 65 nằm trong danh sách nợ đọng. Còn 30 văn bản đang trong quá trình xử lý hoặc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và phải còn đến 20 văn bản chưa trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Một số Bộ nợ đọng nhiều văn bản như: Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Tài chính.
Việc chỉnh lý và hoàn thiện dự thảo còn chậm trễ, có nguyên nhân là do cơ quan chủ trì soạn thảo chưa tích cực đôn đốc việc thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục, hồ sơ dự thảo còn thiếu tài liệu so với quy định làm kéo dài thời gian xử lý văn bản trong giai đoạn tiếp thu, chỉnh lý và trình lại văn bản của các Bộ, ngành. Việc tiến độ ban hành văn bản chậm là do quá trình tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo văn bản theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, các Phó Thủ tướng hoặc ý kiến của Thành viên Chính phủ ở các Bộ, cơ quan rất chậm trễ. Theo Quy chế làm việc Chính phủ, thời hạn này là 10 ngày nhưng thực tế thường kéo dài tới cả tháng, thậm chí có trường hợp hai, ba tháng sau các bộ mới trình lại. Song nguyên nhân chính của tình trạng này là do một số cơ quan soạn thảo chuẩn bị chưa kỹ lưỡng, phương pháp soạn thảo văn bản chưa được đổi mới, các quy định mới trùng lặp với các quy định của luật, công tác phối hợp về chính sách giữa các Bộ, ngành chưa được quan tâm đúng mức, thường chỉ lấy ý kiến bằng văn bản mà ít có sự chủ động trao đổi, cùng nghiên cứu để thống nhất về quan điểm, nội dung chính sách trong quá trình soạn thảo. Trong khi đây lại là những vấn đề thường có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, cơ quan soạn thảo và các Bộ, cơ quan không thống nhất được về quan điểm, nên một số văn bản đến giai đoạn chỉnh lý trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ vẫn còn ý kiến khác nhau giữa các Bộ, cơ quan liên quan đến chủ trương, chính sách và sự khác biệt về lợi ích trong các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội, các khó khăn này cũng chưa được kịp thời xin ý kiến Thủ tướng để có hướng xử lý dứt điểm, bảo đảm chất lượng và tiến độ ban hành văn bản.
Trước tình trạng nói trên, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 năm 2010, Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ khẩn trương đôn đốc việc ban hành 50 văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh còn nợ đọng và khoảng 30 văn bản quy định chi tiết cần ban hành để phù hợp với hiệu lực của 7 luật có hiệu lực từ ngày 1/7/2010. Để thực hiện chỉ đạo này của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành cần rất tích cực đẩy nhanh tiến độ soạn thảo từng văn bản, tháo gỡ vướng mắc trong quá trình soạn thảo, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan có ý kiến đóng góp, thẩm định, thẩm tra văn bản để đạt được sự thống nhất cao, vừa bảo đảm được tiến độ, vừa bảo đảm chất lượng và tính khả thi của văn bản khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành.