Trong buổi sáng ngày 11/01/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Thanh niên phản ánh: "Rất ít trẻ dưới 6 tuổi và người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) mới; cộng thêm khoảng 15% nhóm đối tượng BHYT bắt buộc đang bị ùn tắc, số chưa được cấp thẻ hiện còn khoảng 15 triệu người", ông Hoàng Kiến Thiết, Trưởng ban cấp sổ thẻ, BHXH VN cho biết.
Theo ông Thiết, nhóm BHYT bắt buộc thuộc các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp cấp chậm do danh sách nộp dồn dập cùng thời điểm (vì hầu hết thẻ hết hạn 31.12 hằng năm). Tuy nhiên, việc cấp thẻ cho nhóm đối tượng này cũng sẽ sớm hoàn thành trong tuần này trên cơ sở danh sách đã được các cơ quan sử dụng lao động chuyển sang cơ quan BHXH. Khó khăn nhất là cấp thẻ cho trẻ dưới 6 tuổi và người nghèo. Nhiều địa phương, cơ quan BHXH vẫn chưa nhận được danh sách do các sở LĐ-TB-XH thống kê.
Trước tình trạng nhiều bệnh nhân chưa có thẻ không được chấp nhận thanh toán, Bộ Y tế đã phải lập tức chỉ đạo các bệnh viện vẫn duy trì thanh toán cho bệnh nhân nếu có thẻ cũ còn hạn. Ông Hoàng Kiến Thiết cũng cho hay, tạm thời, với trường hợp chưa có thẻ, nhưng phải khám, điều trị, bệnh nhân cần liên hệ trực tiếp với những nơi vẫn cấp phát thẻ tại địa phương để nhận thẻ. Nếu không, có thể trực tiếp đến cơ quan BHXH địa phương đề nghị cấp thẻ ngay. Hoặc người tham gia BHYT lấy giấy xác nhận: có tham gia BHYT, đang chờ nhận thẻ BHYT của cơ quan BHXH địa phương để chuyển cho cơ sở y tế khi đi khám chữa bệnh. Trường hợp này, quỹ BHYT vẫn thanh toán cho bệnh nhân, đảm bảo các quyền lợi như quy định. Với trẻ dưới 6 tuổi, hiện quỹ BHYT vẫn chấp nhận chi trả theo quy định cho các cháu với việc gia đình có giấy khám chữa bệnh miễn phí, giấy khai sinh. Tuy nhiên, các giải pháp hiện có chỉ là tình thế. Quan trọng nhất là cần có sự phối hợp để tất cả các đối tượng tham gia BHYT đều có thẻ, đảm bảo quyền lợi lâu dài.
2. Báo Sài gòn tiếp thị phản ánh: Từ ngày ra đời, nghị quyết 32 (ngày 29.6.2007) trong đó có việc cấm xe thô sơ, xe ba gác đã cho thấy sự lúng túng trong triển khai: mãi đến đêm 31.12.2007, bộ trưởng bộ Giao thông vận tải mới có công điện gia hạn đến tháng 6.2008; các địa phương thì mỗi nơi hành xử mỗi kiểu, ví dụ: TP.HCM gia hạn sáu tháng, Hà Nội chỉ kiểm tra nhắc nhở, Cần Thơ tịch thu, Đà Nẵng không dời thời hạn... Sự lúng túng, chần chừ này phải chăng là do thấy tính bất hợp lý của văn bản, cộng với lòng “trắc ẩn” còn đâu đó của người thi hành công vụ. Sau nhiều lần gia hạn, TP.HCM quyết định hạn cuối cùng là ngày 1.1.2010. Sự lúng túng thật sự thể hiện ở chỗ cách đây gần hai năm hầu như vắng bóng những hướng dẫn cho người dân biết để chuẩn bị.
Trong vài thập niên gần đây, đi đôi với quá trình phát triển kinh tế, quá trình đô thị hoá bùng nổ, đã xuất hiện khái niệm “khu vực không chính thức”. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động kinh tế quy mô nhỏ, trong đó có cả người hành nghề chạy xe thô sơ, người bán hàng rong. Đặc điểm của những người này là địa điểm buôn bán không cố định, ít vốn, không có tay nghề, chưa qua đào tạo. Nhiều người trong số họ là người nhập cư từ nông thôn, phục vụ chủ yếu cho cộng đồng người có thu nhập thấp. Họ không được hưởng những chương trình phúc lợi, giáo dục, tín dụng… của Nhà nước. Nói chung, hoạt động của họ, Nhà nước không kiểm soát được.
“Khu vực không chính thức” là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển kinh tế và đô thị hoá ở các nước đang phát triển. Những điều tra gần đây cho thấy chỉ tính riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long có 15,5 triệu dân, tỷ lệ thất nghiệp có thể đạt đến con số 25%. Đây có thể là áp lực rất lớn về dân số đối với TP.HCM bởi những người này, nếu di dân lên thành phố kiếm sống thì sẽ góp phần làm tăng đáng kể “khu vực không chính thức”. Đó là một thực tế không thể né tránh, vấn đề còn lại là Nhà nước nhìn nhận “khu vực không chính thức” như thế nào (cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực) và các chính sách, giải pháp.
Những người thuộc khu vực không chính thức này là sản phẩm của lịch sử, họ cần cù nhẫn nại, chịu thương chịu khó, lương thiện… Nếu ta không có cách làm cho họ thoát nghèo thì đừng làm cho họ khó khăn thêm! An toàn giao thông là chuyện đáng làm, phải làm sao cho có bài bản, không thể theo cung cách ngẫu hứng. Có người gọi nghị quyết 32 như “đánh đùng một cái như trên trời rơi xuống”, hay một quyết định thiếu tính nhân văn.
Được biết tiến hành xây cầu Mỹ Thuận, công ty tư vấn nước ngoài có tổ chức điều tra đối với hàng quán có bao đời nay mưu sinh ở hai đầu bến phà Mỹ Thuận. Họ muốn biết khi cầu đã hoàn thành thì các hàng quán trên không còn cơ hội buôn bán sẽ chuyển đổi làm gì để mưu sinh? Điều tra không chỉ để đó mà họ có phương án hỗ trợ. Đó là cách làm của một đề án kinh tế kỹ thuật khi hoàn thành tác động đến đời sống xã hội theo các chiều khác nhau dẫu ai cũng biết rằng có cầu Mỹ Thuận là ước mơ ngàn đời của cư dân đồng bằng sông Cửu Long và nó góp phần thay đổi diện mạo kinh tế của cả vùng, tuy nhiên cũng không bỏ quên một bộ phận nhỏ cư dân sinh sống nhờ vào hai đầu bến phà.
Lẽ ra trong vai trò tham mưu cho Chính phủ ban hành nghị quyết 32, các cơ quan hữu quan phải có một nghiên cứu toàn diện về xe tự chế ba bốn bánh, ai sử dụng, tỷ lệ gây tai nạn và ùn tắc giao thông của chúng, có thể thay thế bằng phương tiện gì, bằng cách gì để người lao động có thể chuyển đổi phương tiện, vai trò của nó đối với đời sống xã hội hiện nay… Vì không nghiên cứu khảo sát, xa rời thực tế, nên những người tham mưu không nắm được xe tự chế là phương tiện sinh sống duy nhất của nhiều người, của nhiều gia đình. Chỉ tính riêng ở TP.HCM có đến 60.000 xe tự chế tương ứng là từng ấy gia đình 5 – 6 người chỉ trông nhờ vào chiếc xe tự chế thô sơ ấy và cả nước con số sẽ là bao nhiêu? Đứng ở góc độ kinh tế mà xem xét giao thông đối với nền kinh tế của đất nước như các mạch máu của một cơ thể con ngưởi. Xe thô sơ ví như các li ti huyết quản. Những chiếc xe thô sơ ấy chuyên chở nông sản tôm cá ra chợ, đến đầu mối thu mua để xuất khẩu, đến nhà máy chế biến, chở vật liệu xây dựng đến từng con hẻm và chở cả rác thải ở khắp hang cùng ngõ hẻm mà không dễ gì có phương tiện khác thay thế.
Trong hơn 60.000 người điều hành xe tự chế, chỉ có khoảng 4% người có hộ khẩu thường trú ở thành phố. Như vậy còn hơn 95% người không thuộc diện được hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề!? Họ vẫn phải sống, vẫn mưu sinh, lo miếng cơm manh áo thường nhật cho 5 – 6 miệng ăn. Vì thế họ vẫn phải chạy, chịu phạt, chịu chi lót tay người thi hành công vụ không ngay ngắn... Họ cứ chạy, cứ chạy cho đến khi nào bị giam xe... Thử hỏi không biết thành phố có bao nhiêu bãi xe đủ giam ngần ấy xe? Quả là một quyết định gây khó cả hai phía – người thi hành công vụ và người dân.
3. Báo Lao động có bài Án treo kiểu mới. Bài báo phản ánh: “Án treo” và “dự án treo” lâu nay vẫn được hiểu theo nghĩa truyền thống. Nhưng qua vụ việc của một dự án chào mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đang bị phá sản thì khái niệm cũ có lẽ đã bị thay đổi theo chiều hướng khác.
Năm 2006, nghe theo lời kêu gọi đầu tư của Hà Nội, Cty TNHH thương binh Hòa Bình đã cùng HTX Dân Chủ hợp tác xây dựng dự án khách sạn 5 sao tại 31 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội. Dự án đã được Bộ XD, TC Du lịch, UBND TP.Hà Nội đồng ý cho triển khai. Công việc đang triển khai theo các quy định của Nhà nước, Cty Hòa Bình đã bỏ ra cả trăm tỉ đồng để đền bù giải tỏa, thuê các đơn vị thiết kế, khảo sát…, thì đùng một cái, tháng 5.2007 Cơ quan Cảnh sát điều tra (CQCSĐT) - Bộ CA vào… điều tra. “Điều tra” 2 năm, đến tháng 3.2009, CQCSĐT mới khởi tố bị can và bắt tạm giam ông Phạm Huy Thưởng - nguyên Chủ nhiệm HTX Dân Chủ, có học vị tiến sĩ và là doanh nhân từ nước ngoài về đầu tư - với tội danh “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Tiếp đó, tháng 5.2009 bắt tạm giam ông Cao Văn Bình - nguyên Phó Chủ nhiệm HTX Dân Chủ, và ngày 7.7.2009 lại có lệnh bắt tạm giam bà Vũ Thị Tuyết Nhung - Chủ nhiệm HTX Dân Chủ (nhưng đến nay chưa bắt và cũng không đình chỉ điều tra) cũng với tội danh như ông Thưởng…
Theo tài liệu của HTX Dân Chủ và các cơ quan hữu quan, hoạt động của HTX không có một sai phạm gì, mà được thực hiện theo quy định của Luật HTX ngày 26.3.2003 và Điều lệ HTX Dân Chủ. HTX Dân Chủ không không có nguồn kinh phí Nhà nước cấp, không có tài sản nào của Nhà nước, của tập thể, xã hội và công dân bị chiếm đoạt. Việc trả vốn góp, bù lỗ, trả tiền cho xã viên ra khỏi HTX do đại hội xã viên quyết định (theo đúng quy định của Luật HTX). Việc ông Thưởng được đại hội xã viên quyết định trả trên 1,4 tỉ đồng tiền ông Thưởng cho HTX vay trước đó là chuyện rất bình thường.
Vụ việc kéo dài 3 năm, đã có nhiều văn bản của anh em thương binh Cty Hòa Bình và HTX kêu oan gửi đi đi các cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tiến Dũng… đã có ý kiến chỉ đạo BộCA xem xét và giải quyết. Mặc dù vậy nhưng đến hôm nay, dù đã thả ông Thưởng, ông Bình, CQCSĐT - Bộ CA vẫn không có kết luận điều tra, vẫn không đưa ra xét xử. Vụ án vẫn… treo, và lệnh bắt giam bà Nhung vẫn… treo.
Khởi tố, bắt giam và gia hạn tạm giam, rồi thả, rồi treo vụ án, treo quyết định khởi tố, bắt giam… Đó là những gì thấy được ở vụ việc này. Vụ án này treo không biết đến bao giờ, trong khi đó HTX thì tê liệt, dự án khách sạn 5 sao trở thành “dự án treo” và phá sản không thể hoàn thành để chào mừng kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội theo yêu cầu của thành phố Hà Nội. Hệ lụy nữa là 3 người vướng vào vòng tố tụng, không tự minh oan được, cái án cứ treo lơ lửng trên đầu với nỗi đau thể xác và tinh thần, không làm được việc gì khác vì… liên quan đến vụ án! Vấn đề là nếu thực sự họ có tội, tại sao để kéo dài như vậy mà không kết luận điều tra và đưa ra tòa xét xử? Điều này làm cho người ta đặt dấu hỏi về một cái gì đó đằng sau các hành vi tố tụng này!
Án treo - theo định nghĩa pháp lý - là chế định pháp lý hình sự liên quan đến việc chấp hành hình phạt, và được hiểu là hình phạt đối với người vi phạm luật ở mức độ ít nghiêm trọng, xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được... Nhưng qua trường hợp nêu trên thì khái niệm án treo lại khác. Khởi tố, bắt giam, nhiều lần gia hạn tạm giam, kéo dài vài ba năm không kết luận, không xét xử; người bị khởi tố, bắt giam khi được tha cũng không có quyết định đình chỉ điều tra, không có được lời xin lỗi, đền bù khi mất cơ hội làm ăn, thân bại danh liệt. Đây là một thứ “án treo” khủng khiếp và mang tính tiêu cực xã hội, khác với tình trạng quá nhiều án treo theo định nghĩa truyền thống. Còn ở góc độ kinh tế có khái niệm “dự án treo” - là tình trạng các chủ đầu tư nhận đất của Nhà nước làm dự án rồi bỏ đấy không làm với nhiều lý do (đến nay, cả nước có khoảng 1.200 “dự án treo” với diện tích trên 130.000 ha). Nhưng dự án khách sạn 5 sao ở 31 Kim Mã, Hà Nội lại khác hoàn toàn. Nếu cứ luôn bị cơ quan chức năng cho “án treo”, “treo dự án” như trường hợp HTX Dân Chủ và Cty Hòa Bình, thì không biết các doanh nhân có còn dám đầu tư để góp phần xây dựng đất nước và giải quyết việc làm cho người lao động?
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Liên quan vụ trộm trâu ở Quảng Trị: Luật sư xúi bị cáo khai gian dối. Bài báo phản ánh: Vụ án ít nghiêm trọng, giai đoạn điều tra, ra quyết định truy tố chỉ mất 33 ngày, nhưng phải hơn 4 tháng sau mới đưa ra xét xử vì luật sư xúi giục bị cáo khai báo gian dối...
Theo hồ sơ vụ án, khoảng 9 giờ ngày 23-1-2009, ông Đào Tâm Sự đến thôn Tân Chính, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ tìm trâu lạc, phát hiện trong đàn trâu đang gặm cỏ có con giống như của nhà mình nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Sự nói dối với mọi người là trâu của mình bị thất lạc và dắt về, dự định sẽ bán nếu được giá. Sáng hôm sau, anh Nguyễn Võ Phát, chủ sở hữu con trâu nói trên, tìm thấy tài sản của mình tại nhà ông Sự nên đòi lại và báo cơ quan chức năng giải quyết.
Trước cơ quan điều tra (CQĐT) Đào Tâm Sự thừa nhận hành vi phạm tội. Ngày 9-4-2009 Viện KSND huyện Cam Lộ ra quyết định truy tố Sự can tội “trộm cắp tài sản”. Do quan điểm chưa thống nhất giữa VKS và Tòa án huyện Cam Lộ nên sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thư ký tòa đã gợi ý bị cáo thuê luật sự bào chữa. Ngày 14-5, Sự có đơn gửi Cty luật Hợp danh cộng đồng thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Trị, luật sư Võ Đình Minh - Giám đốc Công ty - được cử tham gia tố tụng, bào chữa cho bị cáo.
Tại phiên toà sơ thẩm ngày 27-5-2009, Đào Tâm Sự đột ngột phản cung, thay đổi lời khai trước đó. Bị cáo cho rằng việc khai báo trước đây tại Công an huyện Cam Lộ là do bị ép cung. Trước tình huống bất ngờ, Hội đồng xét xử phải quyết định trả lại hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung. Sự thật được phơi bày trong thời gian này, Đào Tâm Sự thừa nhận kết quả điều tra trước đây là khách quan và phù hợp pháp luật, việc thay đổi lời khai tại tòa vừa rồi do luật sư Minh bày vẽ. Tại biên bản xét hỏi ngày 12-6, Sự khai: Trước giờ khai tòa, luật sư Minh đưa bị cáo một tờ giấy khổ A4 có ghi nội dung để bị cáo khai rằng thời điểm xác định không phải trâu của mình là sau khi đã dắt về nhà chứ không phải tại hiện trường vụ án như đã khai trước đây.
Ngày 14-8-2009, phiên tòa được mở với sự có mặt của các thành viên tham gia tố tụng, trừ luật sư Minh. Bị cáo Sự đề nghị hội đồng xét xử làm việc bình thường và không yêu cầu luật sự bào chữa. Tòa tuyên Đào Tâm Sự phạm tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự, hiện án đã có hiệu lực thi hành.
VKSND huyện Cam Lộ vừa có công văn kiến nghị Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Quảng Trị xem xét, có hình thức xử lý luật sư Võ Đình Minh về hành vi lợi dụng việc hành nghề luật sư, danh nghĩa luật sư để xúi giục thân chủ khai báo gian dối, phản biện tính trung thực khách quan của vụ án, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác điều tra, truy tố và xét xử...
Theo VKSND, việc làm của luật sư Minh đã vi phạm điểm d, khoản 3, điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và điểm b điều 9 Luật Luật sư năm 2006, do vậy cần phải có biện pháp xử lý, chấn chỉnh kịp thời để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
2. Báo điện tử Vneconomy có bài Đăng ký giao dịch bảo đảm: Khổ vì luật. Bài báo phản ánh: Hoạt động đăng ký giao dịch đảm bảo là nhằm bảo vệ lợi ích cho người dân lẫn doanh nghiệp trong quá trình tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế. Tuy nhiên, chính vì những bất cập của pháp luật liên quan đến lĩnh vực này đã khiến cho cả người dân, doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý nhiều lúc lâm vào cảnh bế tắc, lúng túng.
Ở các nước phát triển, khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm đã xuất hiện từ hàng trăm năm về trước, trong khi ở Việt Nam, phải đến tận năm 2000, Chính phủ mới ban hành văn bản đầu tiên về hoạt động này. Dù ra đời muộn nhưng ngay sau khi xuất hiện, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm đã nhanh chóng trở thành công cụ hữu hiệu bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch cũng như góp phần tăng cường tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
Theo ông Vũ Đức Long, Cục trưởng Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm, hiện Việt Nam có 3 hình thức đăng ký, bao gồm: đăng ký giao dịch bằng động sản; đăng ký giao dịch bằng bất động sản và tài sản gắn liền trên đất và đăng ký bằng tàu bay, tàu biển. Thế nhưng, dù những tài sản thuộc diện đăng ký giao dịch bảo đảm đa phần đều có giá trị lớn, song những điều khoản chi tiết đối với các loại tài sản trên lại bộc lộ nhiều bất hợp lý, gây ra không ít những rắc rối cho các bên. Chẳng hạn như trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển), ông Long cho biết vẫn còn những “khoảng trống” giữa thời điểm nhận đơn và thời điểm thông tin trên đơn được cập nhật vào cơ sở dữ liệu để tra cứu. Ngoài ra, thực tế hiện nay, số điểm đăng ký còn quá ít, nhưng luật vẫn bắt buộc khách hàng ở xa phải gửi qua đường bưu điện (không được phép qua mail, fax) nên các khách phải chờ đợi trong một thời gian dài mới nhận được kết quả đăng ký. “Ngay cả khi khách hàng đã hoàn tất các thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản thì các ngân hàng thường ngại cho vay thế chấp bằng động sản, trong khi tài sản này thường chiếm tới 70 -80% giá trị doanh nghiệp”, ông Long cho biết.
Nói như vậy không có nghĩa là những đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản là bất động sản không có vướng mắc. Hiện người dân, doanh nghiệp vẫn “kêu trời” về việc pháp luật quy đinh muốn thế chấp bất động sản tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng nhất thiết phải có “sổ đỏ”, trong khi tiến độ cấp giấy loại giấy này là một trong những tồn tại của ngành tài nguyên trong nhiều năm qua. Còn theo bà Hoàng Thị Ngọc Phượng (Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm Quốc gia), ngoài những bất cập nêu trên, hiện hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm còn gặp rất nhiều khó khăn do hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm chưa được thiết lập, điều này đã ảnh hưởng đến việc công khai hóa nhanh chóng và chính xác các thông tin về giao dịch bảo đảm.
Những bất cập về luật pháp trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm không những “làm khó” cơ quan quản lý, người dân mà ngay cả doanh nghiệp, cụ thể là các tổ chức tín dụng với tư cách là đơn vị “nắm đầu cán” cũng không tránh khỏi những phiền toái.
Bà Nguyễn Thị Tuyết, Phó giám đốc Pháp chế và Kiểm soát tuân thủ - Ngân hàng Quốc tế VIB cho biết, có nhiều hợp đồng bảo đảm giữa ngân hàng và khách hàng đã được chứng thực tại các phòng tư pháp cấp huyện. Tuy nhiên, trong quá trình bổ sung, phát sinh phụ lục muốn chứng thực thêm thì lại bị các đơn vị trên từ chối vì cho rằng, theo quy định mới (Nghị định số 72/2007/NĐ-CP về chứng thực) thì họ không có thẩm quyền chứng thực. “Cầm bản hợp đồng trên tay hỏi khắp nhưng cũng không biết cơ quan nào đứng ra chứng thực”, bà Tuyết cho hay. Một khó khăn nữa, theo bà Tuyết, trong khi pháp luật không quy định bắt buộc phải ghi giá trị tài sản bảo đảm vào hợp đồng bảo đảm nhưng trên thực tế thì một số công chứng viên vẫn từ chối công chứng hợp đồng bảo đảm nếu trong hợp đồng đó không ghi giá trị của tài sản bảo đảm.
Không những thế, do pháp luật về đăng ký giao dịch bảo chưa có quy định cụ thể, cộng với tình trạng không phổ biến rộng rãi các văn bản hướng dẫn của cơ quan quản lý đã dẫn đến việc các khoản tiền cho vay của nhiều tổ chức tín dụng phải bổ sung nghĩa vụ bảo đảm chưa được thực hiên theo đúng thủ tục để có thứ tự ưu tiên thanh toán. “Chính thực tế trên đã, đang và sẽ tạo ra những rủi ro cho các tổ chức tín dụng”, bà Tuyết nói.
Trong khi đó, theo ông Nguyễn Văn Linh, Trưởng văn phòng Công chứng Hồ Gươm, chính những quy định của pháp luật hiện nay đã gây nên nhiều khó khăn cho hoạt động đăng ký cũng như hoạt động công chứng. Đơn cử như việc cung cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người độc thân đi làm thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch. Luật quy định, nếu cá nhân đó cư trú qua nhiều địa phương khác nhau thì bắt buộc phải xin xác nhận của từng địa phương, tính từ thời điểm xác lập quyền sở hữu, sử dụng tài sản. Thế nhưng, thực tế không phải địa phương nào cũng sẵn sàng hợp tác để xác nhận, khiến người dân phải đi lại nhiều lần, tốn kém tiền bạc, thời gian.
3. Báo Nhân dân phản ánh: Tối qua 8-1, tại Hà Nội, Bộ Tư pháp đã tổ chức lễ công bố Quyết định thành lập Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp. Ðến dự có đồng chí Trương Vĩnh Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Phó Thủ tướng Chính phủ và các đồng chí Ủy viên T.Ư Ðảng: Uông Chu Lưu, Phó Chủ tịch QH; Lê Thị Thu Ba, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH; Hà Hùng Cường, Bộ trưởng Tư pháp cùng đại diện nhiều cơ quan ở T.Ư có liên quan.
Tổng cục thi hành án dân sự được thành lập theo Quyết định số 2999/QÐ-BTP, ngày 6-11-2009, trên cơ sở Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp. Ðây là cơ quan quản lý thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Ðiều 3 và Ðiều 4
Nghị định số 74/2009/NÐ-CP, có tư cách pháp nhân,con dấu hình Quốc huy, có tài khoản riêng, trụ sở đặt tại TP Hà Nội. Cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư là cơ quan thi hành án dân sự trực thuộc Tổng cục thi hành án dân sự và Chi cục thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là cơ quan trực thuộc Cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư.
Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường đã phát biểu ý kiến, giao nhiệm vụ cho Tổng cục này và cán bộ công chức ngành thi hành án dân sự; trong đó nhấn mạnh công tác kiện toàn tổ chức, cán bộ; chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, nhất là tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, sự phối hợp với các ngành hữu quan.
4. Báo Lao động có bài của Luật sư Phan Trung Hoài "Luật sư đối mặt với thủ tục". Bài báo phản ánh: Câu chuyện về những khó khăn thiên hình vạn trạng mà luật sư thường gặp phải trong quá trình tham gia tố tụng đã trở thành vấn đề bức xúc từ nhiều năm.
Chuyến bay VN 4424 khởi hành lúc 19 giờ ngày 29.12.2009 từ TPHCM hạ cánh xuống Buôn Ma Thuột sau 45 phút bay. Hít đầy lồng ngực không khí trong lành đêm cao nguyên, tôi cảm giác mình được chạm vào chiếu nghỉ như một khoảnh lặng của hành trình tham gia tố tụng hơn hai mươi năm qua. Vậy mà cảm giác thư thái cũng chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi. Hai mươi năm là một mốc son của của chặng đường hình thành và phát triển của Đoàn Luật sư tỉnh Đắc Lắc. Trong buổi lễ kỷ niệm vào ngày cuối cùng của năm 2009, vị Chủ nhiệm trẻ tuổi Chu Đức Lưu không khỏi trầm ngâm bởi vẫn còn đó những cản ngại từ trong quan niệm, nhận thức và cả những hành động từ phía một số cơ quan và những người tiến hành tố tụng đối với hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Luật Luật sư quy định khi làm thủ tục vào làm việc với bị can, bị cáo trong trại tạm giam, luật sư chỉ cần xuất trình giấy chứng nhận bào chữa, thẻ luật sư và giấy giới thiệu (trước đây là đoàn luật sư giới thiệu, sau này là tổ chức hành nghề luật sư giới thiệu) là được trại tạm giam cho phép vào làm việc với bị cáo đang bị tạm giam. Tuy nhiên, ở Đắc Lắc, trại tạm giam còn yêu cầu phải có lệnh trích xuất của toà án thì mới cho luật sư làm việc với bị cáo trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Ông Chủ nhiệm Đoàn luật sư bức xúc nói: "Chúng tôi có phải là người của Toà án để được Toà án cấp giấy giới thiệu hoặc lệnh trích xuất để vào làm việc đâu? Ngay cả khi do Toà Phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng chỉ định, luật sư cũng không được vào gặp làm việc với bị cáo đang bị tạm giam trước khi luật sư bào chữa...". Tất nhiên, điều này bắt nguồn từ thông lệ từ trước, một số toà án vẫn cấp lệnh trích xuất khi có yêu cầu, nhưng đến trại tạm giam, luật sư vẫn bị từ chối vì "không có mẫu lệnh trích xuất dành riêng cho luật sư"...
Trên diễn đàn với sự có mặt của một số đại diện các đoàn luật sư thuộc khu vực Tây Nguyên, ông Chu Đức Lưu còn "kêu" nhiều về hướng dẫn không chặt chẽ của Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02.10.2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao, khiến cho luật sư bị hành đủ kiểu, và nhiều luật sư đã không thể làm được thủ tục để được toà án cấp giấy chứng nhận bào chữa, nên phải huỷ hợp đồng với khách hàng, hoặc đến lúc luật sư được cấp giấy chứng nhận bào chữa thì đã trễ, không kịp gặp bị cáo, không kịp nghiên cứu hồ sơ, nên không tham gia bào chữa được.
Bị cáo bị tạm giam khi người nhà vào thăm nuôi đã cho họ biết là người nhà đã yêu cầu luật sư bào chữa cho họ. Khi ra toà, họ không thấy luật sư (do luật sư không được cấp giấy chứng nhận bào chữa, hoặc được cấp quá trễ nên không thể tham gia), một số bị cáo đã trả lời với toà: "Toà muốn xử ra sao thì xử, xử bao nhiêu cũng được". Hoặc cũng có một số bị cáo khi ra toà đã thắc mắc: "Ở trong trại, bị cáo đã làm đơn yêu cầu luật sư bào chữa, và người nhà cũng đã yêu cầu, luật sư đã nhận lời, nhưng tại sao lại không cho phép luật sư bào chữa cho bị cáo ?"... Thi thoảng, thấy luật sư đi lại vất vả, chính giám thị của trại tạm giam, cán bộ nhà tạm giữ cũng đã từng nói: "Thủ tục quá nhiêu khê và không cần thiết, tại sao toà không cấp luôn giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư như trước đây đã từng làm?". Đúng thật là một vòng luẩn quẩn khi nghị quyết yêu cầu phải có ý kiến của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có đồng ý luật sư bào chữa hay không, trong khi để được vào gặp họ trong trại tạm giam, lại phải có giấy chứng nhận người bào chữa.
Câu chuyện về những khó khăn thiên hình vạn trạng mà luật sư thường gặp phải trong quá trình tham gia tố tụng đã trở thành vấn đề bức xúc từ nhiều năm, nhưng đến nay, những người lãnh đạo cao nhất của các ngành toà án, kiểm sát, công an vẫn chưa có thông tư liên ngành hướng dẫn thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Trừ một số trường hợp đặc biệt, từ trước tới nay có thể nói không một bị can, bị cáo nào lại từ chối không đồng ý để luật sư mà mình hoặc người thân thích đã yêu cầu bào chữa cho họ, bởi quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa của công dân không chỉ là quyền hiến định, là thành trì cần thiết để thực hiện các quyền tự do, dân chủ khác, mà còn là một khoảng thời gian ngắn ngủi khi được tiếp xúc với luật sư, họ được bước ra khỏi phòng giam ngột ngạt đầy hơi người, có thể nhìn qua cửa sổ phòng làm việc một nhành cây với lá non đang chờ đón xuân về, một chút cảm nhận về giá trị của sự tự do thân thể...
Lại nói đến thời gian và những thời khắc được sống làm người và làm nghề. Không nói ra, nhưng tôi nghĩ các đồng nghiệp ở Đoàn Luật sư Đắc Lắc cũng hạnh phúc hơn rất nhiều khi còn có một buổi lễ kỷ niệm đánh dấu một chặng đường hai mươi năm thành lập, với sự hiện diện của lãnh đạo Tỉnh uỷ, Uỷ ban và các cơ quan tiến hành tố tụng. Nghĩ đến nơi mình hành nghề ở TPHCM, nơi tích tụ biết bao khó khăn trong hoạt động nghề nghiệp luật sư, nhiều đồng nghiệp đang xả thân vì công lý để có được vị thế nghề nghiệp, đứng được trong trái tim công chúng, họ vẫn chưa có được một thời khắc kỷ niệm đánh đấu chặng đường muôn ải cho riêng mình...