Trong buổi sáng ngày 31/8/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh online có bài Nhiều cơ quan vẫn “ghiền” dấu sao y. Bài báo phản ánh: Tại các buổi khảo sát của Ban Pháp chế HĐND TP về tình hình cải cách hành chính ở một số phường mới đây, một con số đã khiến cho nhiều người phải giật mình. Đó là lượng hồ sơ chứng thực bản sao các giấy tờ, văn bản tiếng Việt (bản sao y) sáu tháng đầu năm tại phường quá nhiều, có nơi đến hai, ba chục ngàn bản. Tại sao?
Theo quy định hiện nay, nơi tiếp nhận hồ sơ, thủ tục hành chính của người dân không nhất thiết phải yêu cầu người dân nộp bản sao y mà có thể nhận bản phôtô và đối chiếu với bản gốc. Tuy nhiên, nhiều nơi vẫn yêu cầu nộp bản sao y, dẫn đến tình trạng bội thực sao y.
Ông Huỳnh Ngọc Thông, Chủ tịch UBND phường 5, quận 10, cho biết chỉ trong sáu tháng đầu năm, phường đã tiếp nhận và chứng thực 28.450 bản sao. Trong đó, chủ yếu là giấy CMND và hộ khẩu, chiếm đến 70%. Tương tự, khối lượng bản sao tại phường Tân Thới Hiệp, quận 12 cũng lên đến 19.240 hồ sơ. Một số phường khác lượng sao y ít hơn như phường 6, quận 5 cũng tròm trèm gần 7.000. “Đa số người dân chứng thực giấy tờ này để bổ sung vào các loại hồ sơ bán xe, đăng ký điện thoại, xin việc làm, thủ tục nhà đất... theo yêu cầu của các đơn vị tiếp nhận hồ sơ” - ông Thông nói.
Gặp chúng tôi, chị Nguyễn Thị Hồng ở phường Đa Kao, quận 1, đang đi chứng thực bản sao hộ khẩu, giấy CMND, bằng cấp... để làm hồ sơ xin việc, kể: “Mỗi lần nộp đơn xin việc, chúng tôi phải chuẩn bị rất nhiều hồ sơ, mỗi bộ như vậy phải chứng thực rất nhiều loại giấy tờ. Hầu hết các cơ quan nhà nước mới yêu cầu hồ sơ phải chứng thực khi tuyển dụng, còn các công ty nước ngoài thì không. Tại sao không để khi người ta vào làm rồi hẵng yêu cầu chứng thực sau để khỏi mất công và lãng phí?”.
Ngoài ra cũng có trường hợp đòi nộp bản sao có chứng thực rồi lại còn yêu cầu đối chiếu với bản chính. Cụ thể, trong thông báo tuyển sinh y sĩ năm 2009 của Trường cao đẳng Y tế Bình Thuận có yêu cầu trong hồ sơ đăng ký dự tuyển, các loại bằng cấp, học bạ, hộ khẩu đều phải chứng thực. Tuy nhiên, cuối thông báo lại thòng thêm một câu: “Lưu ý: Khi trúng tuyển trường sẽ đối chiếu các bản sao công chứng trên với bản gốc”. “Người ta yêu cầu chứng cái gì thì tôi phải đi chứng cái đó nhưng như vậy phiền phức quá! Đã đối chiếu bản gốc rồi thì còn đòi chứng thực để làm gì? Tôi thấy cái nào đơn giản được thì nên đơn giản cho dân nhờ chứ hở chút là yêu cầu chứng thực giấy tờ thì mệt quá!” - anh Trịnh Ngọc Tùng ở phường Linh Đông, quận Thủ Đức than.
Bà Nguyễn Thúy Phượng ở 67/1 đường An Bình, phường 6, quận 5 cho biết bà đang chứng thực giấy tờ bổ sung hồ sơ việc làm cho con trai theo yêu cầu của nơi con bà làm việc. “Trước khi con trai tôi xin việc, tôi cũng đi chứng thực rất nhiều giấy tờ như các văn bằng, CMND, hộ khẩu... để chuẩn bị hồ sơ xin việc cho nó. Không biết nơi tuyển dụng họ có yêu cầu bản sao y hay không nhưng mình cứ chuẩn bị trước vậy cho chắc” - bà Phượng cho hay.
“Hiện nay, hơn 50% giấy tờ, hồ sơ giải quyết tại phường là chứng sao y. Việc này cũng khiến cho việc lưu trữ hồ sơ của phường quá tải. Vì theo quy định, mỗi loại giấy tờ khi chứng thực đều phải lưu lại một bản tối thiểu trong hai năm mới được hủy. Tuy nhiên, hầu như không có trường hợp nào phải lục lại các hồ sơ này để đối chiếu. Hơn nữa, việc chứng thực tại phường chỉ tạo sự yên tâm về mặt tâm lý cho nơi tiếp nhận hồ sơ chứ để chắc chắn thật giả như thế nào, cán bộ phường không đủ chuyên môn để thẩm định” - ông Lê Tấn Tài, Chủ tịch phường 6, quận 5, băn khoăn.
Ông Thái Nguyên Phương, Chủ tịch UBND phường 4, quận 10, cũng cho biết việc kiểm tra đối chiếu bản gốc để chứng thực chủ yếu căn cứ vào kinh nghiệm. Chẳng hạn như khi chứng các văn bằng thì phường sẽ căn cứ vào thời điểm nào ứng với vị hiệu trưởng, giám đốc nào ký. Chỉ những giấy tờ nào cũ quá, không rõ chữ hoặc bị rách thì phường mới không chứng. Còn những hồ sơ nào là lạ, nghi ngờ thì phường phải nhờ cấp trên thẩm định lại. “Theo tôi, những loại hồ sơ đơn giản như hồ sơ xin việc, hồ sơ nhập học, đăng ký điện thoại, bắt Internet..., không nhất thiết phải sao y. Những loại hồ sơ phức tạp như hồ sơ nhà đất cần lưu giữ lâu năm thì mới cần bản sao y. Với các giấy tờ đơn giản, các cơ quan nên đối chiếu bản phôtô với bản gốc, vừa tiện cho dân mà cũng bớt cực cho ủy ban cấp xã” - ông Phương nói.
Cho ý kiến về vấn đề này, trên mục Bạn đọc có bài "Thủ tướng từng chỉ đạo nhưng nhiều nơi không nghe". Bài báo phản ánh: Theo lẽ để dân nộp bản phôtô rồi tự đối chiếu với bản gốc thì nhiều nơi lại buộc dân nộp bản sao y. Tình trạng này hay xảy ra ở các hồ sơ xin việc làm, nhập học, dự thi... với lý do đề phòng giấy tờ giả. Nhưng như bài báo phản ánh, phường, xã chứng thực là một chuyện, còn thật, giả thế nào thì lại là chuyện khác. Nếu đụng phải những bằng cấp, giấy tờ dỏm được tạo ra bằng kỹ thuật tinh vi thì chính ông phường cũng bó tay.
Tôi nhớ trước khi có Nghị định 79/2007 thì vào năm 2001, Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị 01 để chấn chỉnh việc này. Chỉ thị nêu rõ: “Riêng về việc sao y giấy tờ, Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Ban Tổ chức-Cán bộ Chính phủ rà soát để hủy bỏ các quy định bắt buộc người dân phải nộp bản sao giấy tờ do phòng công chứng chứng nhận trong hồ sơ tuyển sinh, tuyển dụng, bổ nhiệm, tuyển lao động, giải quyết chính sách... Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm hướng dẫn các trường học, cơ sở giáo dục và đào tạo trong cả nước về việc cấp bản sao văn bằng, chứng chỉ và các giấy tờ khác từ sổ gốc, không dồn công việc cho cơ quan công chứng, chứng thực. Cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận giấy tờ xét thấy cần bản chính để đối chiếu thì phải tự mình đối chiếu bản chụp với bản chính”. Gần đây nhất, năm 2008, Sở Tư pháp TP.HCM cũng đã gửi văn bản đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các trường không bắt buộc học sinh nộp bản sao khai sinh từ sổ gốc.
Quy định đã rõ, vậy sao bệnh sính bản sao cứ dai dẳng đến giờ, nhất là trong giai đoạn mà nhà nước đang khẩn trương đơn giản hóa tất cả các thủ tục hành chính?
GIA BẢO (Quận Tân Bình, TP.HCM)
Rất nhiều lần tôi nghe các đài truyền hình (như VTV, HTV...) phát ra rả các thông tin tuyển nhân sự với yêu cầu người dự tuyển phải nộp “bản sao văn bằng có công chứng”. Chắc chắn các đài biết rất rõ những quy định nêu trên nhưng tại sao họ không làm để nêu gương? Rất có thể bộ phận tuyển nhân sự đã lười đối chiếu hoặc vì ngại trách nhiệm nên muốn có bản sao y lưu trong hồ sơ cho chắc ăn.
Nhân đây, tôi đề nghị các cơ quan, tổ chức nên chủ động rà soát, phân định rõ và công khai loại giấy tờ nào phải có chứng thực sao y, loại nào không. Qua đó giúp người dân có cơ sở thực hiện, hạn chế những phiền hà, lãng phí do ngại không sao y thì không được chấp nhận nên đã sao y lềnh khênh.
THANH MINH
2. Báo An ninh Thủ đô có bài “Chất lượng hoạt động của luật sư còn hạn chế”. Bài báo phản ánh: Hiện cả nước ta có hơn 5.300 luật sư, trong đó có 2.000 luật sư có trình độ thạc sĩ. Có thể nói, trong những năm qua, hoạt động của các luật sư có ý nghĩa rất lớn trong việc góp phần giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ pháp luật, bảo vệ sự công bằng. Chính vì vậy, vị thế của luật sư ngày càng được khẳng định và nâng cao. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, đội ngũ luật sư ngày càng đông đảo hơn, khẳng định được tiếng nói của mình trong tiến trình hội nhập.
Bên cạnh đó, cũng phải nói tới những hạn chế nhất định của hoạt động luật sư. Báo cáo mới đây của Bộ Tư pháp cho thấy, chất lượng hoạt động luật sư còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế; một địa phương chưa có tổ chức Đoàn luật sư (Lai Châu); tình trạng không có luật sư tham gia vụ án hình sự bắt buộc phải có luật sư vẫn còn; một số trường hợp luật sư có biểu hiện chưa đúng đắn về lập trường chính trị, tư tưởng, thậm chí vi phạm pháp luật; công tác quản lý, kiểm tra hoạt động của luật sư, nhất là đối với luật sư nước ngoài còn chưa hiệu quả, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan (cơ quan Công an, Tòa án, Viện Kiểm sát)...
Những nhận xét khái quát trên cho thấy để đáp ứng với những đòi hỏi của tình hình, các luật sư cần phải cố gắng nhiều hơn nữa, đặc biệt về phẩm chất và năng lực và hơn ai hết, là những người có hiểu biết pháp luật, các luật sư phải chấp hành một cách nghiêm túc các quy định của pháp luật. Chỉ có như vậy, các luật sư mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đáp ứng với đòi hỏi của tình hình và khẳng định được uy tín của luật sư trong xã hội.
3. Báo Đất Việt có bài Những bản án… kỳ cục. Bài báo phản ánh: Cơ quan Thi hành án Dân sự tỉnh Dăk Lăk “kêu trời” vì hai bản án tuyên của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng: một bản án buộc người chết… trả nợ, còn bản án khác lại tuyên thiếu chính xác và xử lý tài sản đảm bảo thi hành án thay cơ quan thi hành án.
Vì không biết xử lý như thế nào nên cơ quan Thi hành án Dân sự (THADS) Dăk Lăk đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tố cao (TANDTC) tại Đà Nẵng giải thích nội dung bản án và gửi công văn đề nghị Chánh án TANDTC, Viện trưởng Viện KSNDTC xem xét và kháng nghị giám đốc thẩm bản án trên, nhưng vụ việc…“vũ như cẩn”. Đó là bản án 296/HSPT ngày 29/2/2008 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng tuyên buộc ông Nguyên Văn Hùng (phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, Dăk Lăk) trả cho ông Phạm Hoài Nam, ngụ cùng địa phương này số tiền tương đương căn nhà 403 Phan Chu Trinh, theo giá hai ông thỏa thuận ngày 14/11/2007 là 2,4 tỷ đồng.
Sau khi thụ lý đơn yêu cầu thi hành án (THA) của ông Nam, THADS Dăk Lăk mới “té ngữa” vì ông Hùng chết ngày 9/2/2008 (trước thời điểm xét xử phúc thẩm 20 ngày. Thế nhưng, bản án phúc thẩm buộc người chết thanh toán 2,4 tỷ đồng cho ông Nam (một quyết định vi pham pháp luật). Theo THADS Dăk Lăk, do ông Nguyễn Văn Hùng đã chết nên năng lực hành vi dân sự cũng chấm dứt, việc tuyên buộc người đã chết phải có nghĩa vụ thanh toán nợ là hoàn toàn không khả thi. Theo ông Bùi Đăng Thủy, Trưởng THADS Dăk Lăk, nghĩa vụ của người đã chết chỉ có thể thực hiện được thông qua người thừa kế còn sống, có đủ năng lực hành vi dân sự. Khoản 1, điều 637 bộ Luật Dân sự 2005 quy định: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án, nếu đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng bị chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng. Nếu đương sự là cá nhân đã chết mà chưa có người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng thì phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Thế nhưng, bản án trên lại buộc một người đã chết phải thanh toán nợ và lại không xác định ai là người thừa kế, ai là người thực hiện thay nghĩa vụ thay ông Hùng để thanh toán nợ?
Một trường hợp khác làm THADS Dăk Lăk không biết xử lý ra sao khi tang vật, đồng thời là tài sản đảm bảo THA biến mất. Bản án Phúc thẩm hình sự 333/PTHS ngày 18/5/2004 của Toà phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng buộc ông Ngô Văn Sự, Y Văn Hùng, Nguyễn Xuân Hương và chợ chồng ông Bùi Văn Hoà - Trần Thị Tuệ liên đới bồi thường gần 138 triệu đồng cho 11 người bị hại.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tang vật tạm giữ để phục vụ công tác THA là hai chiếc ô-tô (xe ô-tô BKS 47K-4224 của ông Bùi Văn Hoà và xe BLS 47L-3208 của ông Nguyễn Xuân Hương). Tuy nhiên, sau khi vụ án kết thúc, đến giai đoạn THA thì tang vật biến mất, cơ quan THADS Dăk Lăk không có gì trong tay để xử lý theo quy định. Cụ thể, sau khi ông Bùi Văn Hoà tự nguyện nộp 36 triệu đồng bồi thường cho người bị hại, Toà phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng cho rằng, ông Hoà đã thi hành xong nghĩa vụ của mình nên tuyên trả lại xe cho ông Hoà. “Trong khi đó, ngoài phần nghĩa vụ cụ thể của mình thì ông Hoà còn có trách nhiệm liên đới với những người khác bồi thường cho người bị hại, nên án tuyên như thế là chưa chính xác”, ông Bùi Đăng Thuỷ, Trưởng THADS tỉnh Dăk Lăk, búc xúc.
Ngoài ra, chiếc xe của ông Hương (xe mang BKS 47L-3208) cũng không được toà án chuyển giao cho THA vì “nó đã được Công ty Bảo Việt Dăk Lăk bán rồi”. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến người được THA khiếu kiện dai dẵng, còn cơ quan THA thì… “bó tay”.
4. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Chủ nợ năn nỉ con nợ... đừng chết. Bài báo phản ánh: Ba năm, những tưởng vụ án sắp đến ngày kết thúc, bà Hồ Thị Năm (SN 1957, ngụ Q.Gò Vấp) chưa kịp thở phào nhẹ nhõm, đã bị đẩy tiếp vào vòng lẩn quẩn. Nợ chồng nợ, bệnh chồng bệnh, đại diện cơ quan thực thi pháp luật lại đổ lỗi cho nhau khiến bà Năm gần như kiệt sức. Điều đáng nói, nhiều chủ nợ van xin bà Năm đừng chết vì sợ mất tiền...
Do chỗ quen biết, bà Trịnh Thị Kim Liên (SN 1974, ngụ Gò Vấp) đã đề nghị bà Năm cho vay tiền làm ăn với lãi suất thỏa thuận. Để làm tin, bà Liên cho bà Năm xem dự án xây dựng nhà máy thuốc Tây và giấy phép kinh doanh mở cửa hàng thuốc Tây. Vì thế, bà Năm đã gom góp tiền của mình cũng như huy động của mấy chục người khác để có đủ tiền đưa cho Liên. Từ tháng 8-2004 đến tháng 12-2004, bà Năm trực tiếp đứng ra cho bà Liên vay nhiều lần với tổng số tiền hơn 2,5 tỷ đồng và 7.750USD - lãi suất dao động từ 4 - 10%. Sau đó, bà Liên trả lãi đến ngày 7-1-2005 thì không đủ khả năng chi trả. Trong khoảng tháng 10-2005, bà Liên đã làm giấy xác nhận còn nợ bà Năm hơn 4,5 tỷ đồng (tính cả gốc lẫn lãi) và cam kết sẽ nhanh chóng hoàn trả số tiền trên. Tuy nhiên, bà Liên không giữ đúng lời hứa vì lý do hàng (thuốc Tây) bị trục trặc không về kịp nên không thể xoay sở kịp tiền trả bà Năm. Trong khi đó, bà Năm buộc phải bán nhà của mình để lấy tiền trả dần cho những người mà bà đã đứng ra vay giùm cho bà Liên.
Thời gian trôi qua, lãi mẹ đẻ lãi con mà bà Liên vẫn “bình chân như vại”, bà Năm gọi điện, bà Liên không bắt máy, đến nhà lại không gặp được. Sự trốn tránh của bà Liên đã đẩy bà Năm lâm vào tình cảnh sống dở chết dở. Ngày nào cũng có người đến nhà bà Năm để đòi nợ, chửi bới, khóc lóc... Chẳng còn cách nào khác, bà Năm đành gởi đơn khởi kiện bà Liên ra TAND Q. Gò Vấp. Mặc dù số tiền bà Liên nợ bà Năm hơn 5 tỷ đồng (cả gốc lẫn lãi), nhưng trong quá trình hòa giải bà Năm đã chấp thuận việc bà Liên chỉ phải trả khoảng 3,4 tỷ đồng. Tuy nhiên sau đó, bà Liên vẫn... làm lơ.
Ngày 26-9-2007, TAND Q.Gò Vấp đã tuyên xử: buộc bà Liên có trách nhiệm trả cho bà Năm số tiền 3.417.286.000 đồng, đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của bà Năm cho bà Liên trả tiền theo 3 đợt. Kể từ ngày bà Năm có đơn thi hành án nếu bà Liên không thi hành thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Bà Liên đã làm đơn kháng cáo lên TAND TPHCM xin được thanh toán nợ làm nhiều lần. Nhưng sau hai lần tống đạt, bà Liên đã không đến tham gia phiên tòa. Do vậy, ngày 21-1-2008, TAND TPHCM quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa bà Năm và bà Liên. Bản án dân sự sơ thẩm có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định này. Thế nhưng sau đó, bà Liên vẫn không có động thái gì về việc trả nợ cho bà Năm.
Ngày 24-3-2008, bà Năm đã làm đơn đề nghị thi hành án. Chấp hành viên Nguyễn Thị Hạnh - cơ quan thi hành án dân sự (THADS) Q.Gò Vấp đã ra quyết định cưỡng chế và tiến hành kê biên tài sản của bà Liên là căn nhà tại số 11/3 đường Nguyễn Oanh, P10QGV, TPHCM. Sau khi định giá, THADS đã giao căn nhà cho Trung tâm bán đấu giá tài sản TPHCM rao bán. 3 lần gửi bán không thành nên THADS QGV đã thông báo sẽ giao căn nhà cho bà Năm với giá 3,6 tỷ đồng.
Ngày 11-5-2009, bà Năm làm đơn đề nghị được nhận căn nhà trên và được THADS QGV thông báo phải nộp 1,2 tỷ đồng để giao cho ông Thái - chủ nợ của bà Liên (trong cùng vụ án nói trên). Bà Năm phải đi vay tiền để nộp theo đúng qui định của THA. Sau đó, THADS QGV đã thông báo cho bà Liên về việc phải giao nhà và toàn bộ giấy tờ nhà đến hết ngày 18-6-2009, nếu không sẽ cưỡng chế. Quá thời hạn bà Liên vẫn không thực hiện theo thông báo nên THADS ra quyết định số 36/QĐ-THA về việc cưỡng chế trục xuất bà Liên ra khỏi căn nhà trên vào ngày 21-7-2009.
Đùng một cái, ngày 17-7-2009, bà Năm nhận được quyết định kháng nghị số 140/KSĐT của VKSND Q.Gò Vấp với nội dung: kháng nghị các quyết định và hành vi vi phạm pháp luật của chấp hành viên (CHV) Nguyễn Thị Hạnh - THADS QGV; yêu cầu Trưởng THADS QGV hủy bỏ quyết định cưỡng chế giao nhà đã ký trước đó. Đồng thời tổ chức lại việc THA theo đúng qui định của luật THA nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được THA, người phải THA, người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Ông Hoàng Hiếu - Viện trưởng VKSND QGV cho biết: Sở dĩ phía chúng tôi phải ra quyết định kháng nghị vì sau khi thống kê những tài liệu có trong hồ sơ đã nhận thấy việc làm trái luật của CHV Nguyễn Thị Hạnh. Bà Hạnh đã tổ chức phát mãi nhà để THA không đúng quy định của pháp luật, vì chưa xác định quyền sở hữu căn nhà nói trên (bà Liên đã mua căn nhà này, nhưng chưa sang tên). Việc tổ chức THA không đúng qui trình của bà Hạnh đã gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho bà Năm và cho cả bà Liên. Hiện phía chúng tôi đang chờ công văn trả lời của cơ quan THADS QGV là có chấp nhận kháng nghị hay không?
Sau khi nhận được kháng nghị của VKSND QGV, CHV Hạnh cũng làm báo cáo phản hồi. Theo bà Hạnh, ngay từ đầu, bà Liên cố tình muốn giấu tài sản là căn nhà số 11/3 nên không làm thủ tục sang tên, viện hết lý do này đến lấy do khác để trì hoãn việc trả nợ. Là người trực tiếp thụ lý vụ án này, bà Hạnh cho rằng mình đã thực hiện từng bước theo đúng qui định của pháp luật. Theo đó, bà Liên cũng đã thừa nhận căn nhà nói trên là của bà. Do không muốn phát mãi nên bà Liên đã hẹn một tháng để thu xếp trả nợ cho bà Năm. Nếu quá thời hạn, bà Liên sẽ để THA phát mãi theo qui định. Hai tháng trôi qua, bà Liên vẫn không có động tĩnh gì nên THA tiến hành định giá. Bà Hạnh cho rằng việc ra quyết định kháng nghị của VKSND là không bình thường nên bà vẫn bảo lưu quan điểm cưỡng chế vào ngày 21-7-2009 để giải quyết dứt điểm, không kéo dài gây thiệt hại cho ông Thái, bà Năm. Đồng thời bà Hạnh cũng yêu cầu nếu bên nào sai thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tiếp xúc với chúng tôi, ông Hoàng Minh Nhân - Trưởng THADS QGV cho biết: Bà Hạnh đã làm báo cáo gởi lên THADS TPHCM để trình bày rõ vụ việc. Tuy nhiên, quan điểm của CHV Hạnh chưa phải là quan điểm chính thức của THADS QGV. Hiện, cơ quan THA đang xin ý kiến chỉ đạo của THADS TP để nhanh chóng có công văn trả lời cho VKSND QGV và những người có liên quan trong thời gian sớm nhất.
Nhưng người chịu thiệt thòi, đau khổ nhất vẫn là bà Năm. Bản án đã kéo dài 3 năm. Trong thời gian đó, bà Năm được bác sĩ cho biết mình bị ung thư, nhưng do không có tiền lại đang theo dõi việc kiện thưa nên không có thời gian để mổ. Không người thân bên cạnh, bà Năm phải bươn chải ngược xuôi, cố gắng chịu đựng bệnh tật và chịu sự chửi mắng của các chủ nợ với hy vọng vụ việc nhanh chóng được kết thúc. Nhưng do không chịu nổi cơn đau hành hạ, bà Năm phải vay tiền để mổ. Lúc này thì bệnh tình của bà đã trở nặng, không biết sống chết lúc nào. Trong khi tiền nợ của bà Liên còn chưa được trả, bà Năm lại phải gồng gánh thêm một khoản lãi khi đi vay 1,2 tỷ đồng để đóng theo thông báo của THA. Nhiều lúc các chủ nợ tìm đến bà Năm van xin bà đừng chết, hãy ráng sống cho đến ngày lấy lại được tiền. Không biết bản án này đến bao giờ mới kết thúc? Nỗi đau xé lòng của bà Năm liệu có ai thấu hiểu? Rất mong các cơ quan chức năng nhanh chóng vào cuộc, giải quyết vụ việc thấu tình, đạt lý.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 31/8/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.