Trong buổi sáng ngày 20/8/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Người lao động phản ánh: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước giai đoạn 2007- 2010 (gọi tắt là Đề án 30), đến ngày 18-8, đã có 24/24 bộ, ngành và 60/63 tỉnh, TP có quyết định công bố bộ TTHC.
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, đến ngày 30-8, các bộ, ngành, địa phương phải hoàn thành toàn bộ việc công bố các bộ TTHC. Cuối tháng 9-2009, Thủ tướng Chính phủ sẽ công bố công khai bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC trên internet phục vụ nhân dân (sớm 14 tháng theo kế hoạch đề ra).
Đến giai đoạn hai của Đề án 30 (từ tháng 9-2009 đến giữa tháng 5-2010), sẽ thực hiện rà soát TTHC theo ba tiêu chí gồm: sự cần thiết, tính hợp lý và tính hợp pháp của TTHC và các văn bản, quy định có liên quan. Kết thúc giai đoạn rà soát này, phải đạt được mục tiêu đơn giản hóa và kiến nghị đơn giản hóa tối thiểu 30% quy định hiện hành về TTHC thuộc phạm vi chức năng quản lý của các bộ, ngành, địa phương. Sang giai đoạn ba, từ giữa năm 2010 đến cuối năm 2010, sẽ tổ chức thực hiện các kiến nghị đơn giản hóa TTHC; kết thúc giai đoạn này, bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC trên internet sẽ được đơn giản hóa theo các tiêu chí nêu trên.
Với mục đích đơn giản hóa các TTHC giữa cơ quan hành chính Nhà nước với cá nhân, tổ chức liên quan đến đời sống của nhân dân và liên quan đến hoạt động kinh doanh, đề án 30 thu hút sự chú ý quan tâm của đông đảo dư luận xã hội. Điều đáng nói nhất là thể hiện rất rõ sự thay đổi về tư duy; xuất phát điểm và mục đích cuối cùng đều nhằm phục vụ nhân dân, nên các bước trong đề án đều thể hiện rõ sự sâu sát, lắng nghe, điều chỉnh và lấy sự đơn giản hóa, hiệu quả làm thước đo tiến trình cải cách hành chính. Để thực hiện thành công đề án, ngoài sâu sát ý dân, thì chất lượng cán bộ công chức – bao gồm cả năng lực và phẩm chất – đều phải được nâng cao, qua đó tiết kiệm nhiều thời gian, của cải xã hội, những kết quả hết sức lớn lao mà bao lâu nay chúng ta mong đợi.
Mặt khác, đề án này đã thể hiện rõ sự thay đổi trong tư duy. Trong nhiều ngôn từ của các văn bản liên quan, có thể thấy tư duy “xin – cho” của cơ chế xin cho, ban phát đã thay bằng cơ chế phục vụ, quan hệ của dân với cơ quan công quyền đã bình đẳng hơn. Chẳng hạn, trước đây chúng ta sử dụng cụm tiêu đề “giấy phép đầu tư” thì nay đã đổi thành “giấy chứng nhận đầu tư”. Sắp tới, nhiều văn bản cũ với tiêu đề “đơn xin” cũng sẽ được điều chỉnh thành “đơn đề nghị”. Có như vậy thì tính chất vì dân phục vụ của cán bộ công chức mới được rõ ràng; quan hệ của họ với nhân dân không phải là “bề trên”, ban phát mà phải là “công bộc” của nhân dân như Bác Hồ đã từng dạy.
Người dân đang mong chờ các bộ TTHC ngày càng đơn giản hóa và phát huy hiệu quả, quan hệ giữa dân với chính quyền ngày càng gần gũi. Thực hiện tốt Đề án 30 cũng có nghĩa là chúng ta đã tạo ra khâu đột phá trong công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Ông Thân Thanh Vũ, Tổng giám đốc PhuQuocland, đơn vị có cổ phần trong một số dự án khách sạn ở huyện Phú Quốc (Kiên Giang), đồng thời làm tư vấn đầu tư, phát biểu: Cơ sở hạ tầng ở Phú Quốc đang là “nút thắt cổ chai” đối với các nhà đầu tư (NĐT). Theo ông Vũ, hiện số lượng phòng ở Phú Quốc lớn hơn công suất máy bay rất nhiều. Chẳng hạn, một khách sạn 100 phòng, nếu hai người ở một phòng, thì trường hợp đầy khách sẽ có 200 người ở. Trong khi, mỗi ngày chỉ có cao nhất 6 chuyến bay ATR 60 chỗ ngồi đáp xuống sân bay Phú Quốc. “Giả sử tất cả dự án khách sạn đều đồng loạt mở cửa đón khách ở thời điểm này thì chỉ có... chết” - ông Vũ cho biết.
Việc thiếu thốn cơ sở hạ tầng, quy hoạch không ổn định, khiến NĐT ở Phú Quốc nản lòng. Cũng vì lý do này mà trong số 33 dự án đã được cấp phép, với diện tích 1.800 ha; 174 dự án được tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư với diện tích 8.000 ha, thì chỉ có 5 dự án đi vào hoạt động, 2 dự án chuẩn bị hoạt động. Hồi tháng 6, tỉnh Kiên Giang đã công bố quyết định thu hồi 12 dự án đầu tư tại huyện này do chậm triển khai.
Lý giải vì sao các dự án đầu tư vào tỉnh Đồng Nai gặp nhiều thuận lợi trong quá trình triển khai và có ít dự án bị thu hồi giấy phép, bà Bồ Ngọc Thu, Giám đốc Sở KH-ĐT tỉnh, cho biết: Thứ nhất là xem xét, chọn lựa “đầu vào” kỹ càng; thứ hai là sâu sát với NĐT, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của họ. “Thường thì họ chậm triển khai từ 6 - 8 tháng, đó là thời gian hợp lý, và tỉnh sẽ tạo điều kiện để NĐT theo đuổi dự án. Trường hợp cố tình, thu hồi giấy phép là chuyện bình thường”, bà Thu nói.
Nhiều NĐT bày tỏ, việc thu hồi giấy phép là cần thiết đối với những NĐT không chịu làm, cố tình trì hoãn. Tuy nhiên, ông Tai Hui, chuyên gia kinh tế người Singapore, cho rằng trước khi công bố quyết định, chính quyền cần tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của doanh nghiệp để quyết định một cách hợp tình hợp lý, nhất là trong bối cảnh kinh tế hiện tại.
Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan đưa ra quan điểm, việc ồ ạt thu hồi giấy phép đầu tư trong thời điểm này dễ gây “chấn động” và không tốt. “Hằng năm, chính quyền nên thực hiện việc rà soát các dự án chậm và kiên quyết thu hồi nếu NĐT không chuyển biến tích cực. Không nên dồn vào một lúc”, bà Lan nói. Theo bà Lan, cả NĐT và chính quyền cần đề xuất những cuộc gặp gỡ để cùng tháo gỡ khó khăn,hạn chế việc rút giấy phép “oan” với những NĐT thực sự muốn đầu tư.
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Thông tư số 18/2009/TT-NHNN quy định chi tiết việc cho vay của các ngân hàng thương mại đối với các đối tượng mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp sống tại khu vực đô thị.
Theo Thông tư, mức cho vay mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp không vượt quá 70% giá trị nhà ở thu nhập thấp theo thỏa thuận với chủ đầu tư dự án nhà ở thu nhập thấp trong trường hợp vay mua nhà ở thu nhập thấp trả 1 lần và không vượt quá 80% trong trường hợp vay mua trả góp hoặc thuê mua. Thời hạn cho vay tối thiểu là 5 năm trong trường hợp cho vay mua nhà ở thu nhập thấp trả 1 lần và 10 năm đối với trường hợp cho vay trả góp hoặc thuê mua.
Thông tư cũng nếu rõ đối tượng vay vốn tại các ngân hàng thương mại để mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp gồm cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang hưởng lương từ ngân sách nhà nước và người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Ngoài ra, đối tượng vay vốn phải có đủ điều kiện để được mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp theo quy định tại Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg và quy định của Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành trực thuộc Trung ương; được chủ đầu tư chấp thuận bán, cho thuê mua nhà ở thu nhập thấp; có vốn tự có tối thiểu để mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp; có khả năng tài chính, phương án trả nợ phù hợp với thời gian cam kết trả nợ ngân hàng.
Việc cho vay đối với người được mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp được thực hiện theo cơ chế tín dụng thông thường. Hỗ trợ lãi suất của Nhà nước đối với người mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Gia đình và xã hội có bài "Sau loạt bài về Dự thảo nghị định thay thế Nghị định 146: Bộ GTVT sẽ xem xét lại các bất cập". Bài báo phản ánh: Sau loạt bài về Dự thảo nghị định thay thế Nghị định 146: Bộ GTVT sẽ xem xét lại các bất cập
Công văn nêu rõ, Bộ Tư pháp không nhất trí về việc quy định chủ sở hữu phương tiện cơ giới đường bộ có nghĩa vụ chấp hành xử phạt bằng tiền đối với hành vi vi phạm không do họ thực hiện tại khoản 2, điều 52 Dự thảo. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính quy định việc xử phạt vi phạm hành chính chỉ được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước, trong khi đó đối tượng là chủ sở hữu phương tiện chưa xác đinh được có phải là người vi phạm hay không.
Việc xác định trách nhiệm hành chính phải dựa trên cơ sở hành vi vi phạm của một chủ thể nhất định chứ không thể căn cứ vào phương tiện vi phạm. Trên thực tế việc áp dụng phạt “nguội” bằng hình ảnh với đối tượng đi xe thuê, xe mượn, xe sang tên đổi chủ (Báo GĐ&XH đã có bài phản ảnh trên các số báo trước) là không khả thi. Chính lãnh đạo Cục CSGT Đường bộ - đường sắt thừa nhận gặp nhiều khó khăn và bất khả thi khi xử lý đối tượng này.
Việc quy định áp dụng mức xử phạt cao với hành vi vi phạm hành chính tại TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh theo khoản 6, điều 53 trong chương II của dự thảo, Bộ Tư pháp cho rằng việc áp dụng mức phạt như vậy là không hợp hiến, hợp pháp và không công bằng nên không đồng tình với quy định này.
Qua trao đổi với PV Báo GĐ&XH, ông Nguyễn Văn Thuấn, Vụ trưởng Vụ An toàn giao thông (Bộ GTVT) cho biết: “Những thông tin thẩm định từ Bộ Tư pháp luôn là “điểm tựa” để chúng tôi xem xét lại những quy định đưa ra. Nếu điều khoản nào chưa đúng, chưa phù hợp thì chúng tôi sẽ sửa chữa. Bên cạnh đó cũng không loại trừ trường hợp ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp chưa phù hợp, chúng tôi sẽ có văn bản giải trình và bảo vệ chính kiến của mình”.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Theo Bộ Tư pháp, các quy định của pháp luật quyền được thông tin và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin hiện nay còn mang nặng tính nguyên tắc, tính khái quát hơn là tính thực tiễn. Vì vậy, rất cần thiết phải sớm ban hành Luật tiếp cận thông tin. Nhằm thu thập ý kiến cho dự thảo luật này, sáng qua 19.8, tại TP Nha Trang (Khánh Hòa), Hội Luật gia VN và Trung tâm Nhân quyền Na Uy đã tổ chức hội thảo Luật tiếp cận thông tin - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới.
Theo Hội Luật gia VN, các văn bản pháp luật hiện nay mới chỉ dừng ở việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm công khai thông tin; thiếu quy trình, thủ tục, cách thức và nhất là quy định quyền chủ động yêu cầu tiếp cận thông tin của công dân, cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó, các quy định liên quan đến thông tin thuộc phạm vi miễn trừ tiết lộ chưa được quy định rõ ràng và còn chung chung. Vì vậy, nhiều thông tin chưa thực sự cần thiết bảo vệ theo quy trình mật cũng dễ bị cơ quan nhà nước đóng dấu mật. Do đó, Luật tiếp cận thông tin cần làm rõ phạm vi, nội dung những thông tin nào là thông tin công, do cơ quan nhà nước nắm giữ cần phải được công khai cho công chúng; đồng thời, cần xác định thông tin thuộc phạm vi hạn chế tiếp cận, miễn trừ tiết lộ.
Cũng theo Hội Luật gia VN, việc xác định phạm vi công khai thông tin cần xuất phát từ thực tiễn nước ta, góp phần giải quyết kịp thời các vấn đề đang là điểm nóng, bức xúc của người dân, như: quy hoạch về sử dụng đất, đền bù, giải tỏa, giải phóng mặt bằng; đấu thầu, hỗ trợ, cho vay vốn, các dự án ưu tiên của nhà nước; xóa đói, giảm nghèo; thông tin về đánh giá tác động môi trường…
Một nội dung quan trọng được đề cập tại hội thảo là bảo đảm quyền tiếp cận thông tin. Vấn đề này được thể hiện trong các điều 26-30, chương IV của dự thảo Luật tiếp cận thông tin. Theo đó, công dân có quyền khiếu nại, khiếu kiện trong các trường hợp: Bị từ chối cung cấp thông tin trái luật; được cung cấp thông tin không đúng yêu cầu; quá thời hạn xem xét, giải quyết yêu cầu nhưng chưa được cung cấp thông tin…
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (Chủ nhiệm bộ môn Luật Kinh tế, khoa Luật, ĐHQG Hà Nội) cho rằng, một đạo luật bảo đảm quyền tự do thông tin của người dân được ban hành, sẽ giúp quan chức hành chính tự tin hơn khi tiết lộ thông tin cho dân chúng mà không sợ vi phạm các nghĩa vụ bảo mật; giúp báo giới tự tin hơn khi khai thác các quyền được biết, được nói của người dân. Thêm nữa, có được sự hiểu biết và thông cảm từ phía người dân, các chính sách của nhà nước cũng dễ thực hiện hơn.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài “Xử lý vi phạm trong xuất bản: Kiểu gì cũng dính phạt”. Bài báo phản ánh: “Mục đích chính nghị định hướng tới là bảo vệ quyền lợi cho các cơ quan, đơn vị đang hoạt động trong lĩnh vực xuất bản”. Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) Đỗ Quý Doãn khẳng định tại hội thảo về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản (chuyên đề xuất bản) tại TP.HCM sáng 19-8. Tuy nhiên, đại diện các nhà xuất bản (NXB) lại dường như lo lắng bởi nhiều quy định trong dự thảo này.
Theo dự thảo, tác phẩm thuộc loại phải thẩm định mà không tổ chức thẩm định hoặc thẩm định có vấn đề thì NXB bị phạt từ 10 đến 20 triệu đồng. “Quy định vậy thì các NXB dễ bị thổi còi... oan ức!” - ông Nguyễn Văn Cừ, Giám đốc NXB Văn học kêu. Ông Cừ cho biết trước giờ, nếu thẩm định có gì trục trặc thì người chịu trách nhiệm trực tiếp không phải là người thẩm định mà là lãnh đạo các NXB. “Chi bằng giao quyền thẩm định cho họ, vừa dễ quản lý, vừa dễ quy trách nhiệm” - ông Cừ nêu ý kiến.
Bổ sung thêm, Giám đốc NXB Đồng Nai Bùi Quang Huy cho biết chưa có một văn bản cụ thể nào quy định chi tiết về việc thẩm định xuất bản phẩm. “Có trường hợp sách y học của chúng tôi được yêu cầu phải có thẩm định, trong đó nêu rõ cơ quan thẩm định là cơ quan chủ quản của NXB, tức Sở TT&TT. Nhưng Sở TT&TT làm sao có đủ kiến thức chuyên ngành về lĩnh vực y học mà thẩm định?” - ông Huy ví dụ. Theo ông Huy, sẽ hợp lý hơn rất nhiều nếu giao cho cơ quan chủ quản của NXB quyền được lập một hội đồng thẩm định với các thành phần chuyên môn phù hợp với từng loại xuất bản phẩm.
Tại hội thảo, không ít đơn vị cho rằng dự thảo nghị định mới quá chi tiết khiến cho họ - những người phải thực hiện theo cảm thấy ngột ngạt. Chẳng hạn, theo dự thảo, nếu nhà in in xuất bản phẩm không đúng với bản thảo đã được ký duyệt sẽ bị phạt tiền từ 10 đến 20 triệu đồng. Ông Nguyễn Văn Dòng, Giám đốc Công ty In Trần Phú, phản đối: Bên bị phạt phải là NXB chứ không phải nhà in, bởi nhà in không chịu trách nhiệm về mặt nội dung. “Bản thảo được phía NXB gửi file qua để in trực tiếp. Do đó, nếu xảy ra lỗi thì lỗi là từ NXB, chúng tôi không thể chịu trách nhiệm với việc chúng tôi không làm” - ông Dòng nói.
Về việc áp dụng mức phạt trên với nhà in in xuất bản phẩm vượt quá số lượng cho phép từ 500 đến dưới 1.000 bản, ông Dòng cũng cho rằng chưa thật hợp lý. Ông Dòng lý giải: “Việc in quá số lượng vài trăm bản xảy ra ở hầu hết các nhà in và nằm trong số xuất bản phẩm bù hao. Bù hao cũng tùy yếu tố kỹ thuật, tùy loại sách mà dư nhiều hay ít. Chuyện dôi dư ở đây hoàn toàn không phải là in nối bản. Do đó, nếu cứ chiếu theo quy định mà phạt thì nhà in tụi tôi dính phạt quanh năm!” - ông Dòng than.
“Đã là luật thì càng cụ thể càng tốt. Như vậy sẽ dễ dàng áp dụng chế tài xử lý từng vi phạm trong hoạt động xuất bản ngay khi được phát hiện. Mặc dù dự thảo còn nhiều ý kiến trái chiều nhưng chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu những đóng góp của các đơn vị, cơ quan để kịp trình Chính phủ vào tháng 12 tới” - Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn cho biết.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 20/8/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.