Trong buổi sáng ngày 05/01/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 4-1, Công ty Nghiên cứu kiểm toán Grant Thornton Việt Nam cho biết kết quả nghiên cứu mới nhất về tín hiệu khả quan trong kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân toàn cầu trong năm 2010, được khảo sát ở hơn 7.400 doanh nghiệp tại 36 nước, trong 18 năm qua.
Về mong đợi tăng doanh thu trong năm 2010, Việt Nam được dự đoán là quốc gia có tín hiệu khả quan nhất.
2. Báo Quân đội nhân dân phản ánh: Ban chỉ đạo quốc gia Đại hội đồng Liên nghị viện hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPA – 31) đã ra mắt chiều 4-1 tại Hà Nội. Ban chỉ đạo gồm 4 thành viên, trong đó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch AIPA-31 làm Trưởng ban, Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng làm Phó trưởng ban.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ra nghị quyết thành lập Ban tổ chức AIPA - 31 gồm 17 thành viên do ông Nguyễn Văn Son, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội làm Trưởng ban. Tham gia Ban tổ chức có đại diện của Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an… Ban thư kí AIPA- 31 cũng được thành lập và có trụ sở làm việc tại 37 Hùng Vương, Hà Nội. Quốc hội Việt Nam đã tiếp nhận và đảm nhiệm vị trí Chủ tịch AIPA vào tháng 8-2009. AIPA-31 dự kiến sẽ được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 19 đến 25-9-2010. Hiện AIPA có 9 thành viên là Quốc hội các nước thành viên ASEAN trừ Mi-an-ma. AIPA có 8 nước đối thoại là Nga, Trung Quốc, Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân và Ca-na-đa.
Phát biểu tại lễ ra mắt Ban chỉ đạo quốc gia, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng khẳng định, việc tổ chức AIPA-31 không chỉ thể hiện trách nhiệm của Quốc hội Việt Nam với tư cách thành viên mà cần coi đây là vinh dự rất lớn. Để tổ chức thành công AIPA-31, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, mỗi thành viên Ban chỉ đạo, Ban tổ chức, Ban thư kí cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ có đôn đốc, kiểm tra trong từng vấn đề, lĩnh vực cụ thể. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đề nghị, cần tiếp tục nghiên cứu nêu ra những sáng kiến, đề xuất để có thể thúc đẩy vai trò của AIPA trong ASEAN và thực hiện Hiến chương ASEAN.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tin tưởng, với những kinh nghiệm từ việc tổ chức nhiều hội nghị quốc tế quan trọng, Việt Nam sẽ tổ chức thành công AIPA-31, để lại dấu ấn sâu sắc với bạn bè quốc tế về một Việt Nam với văn hóa đặc sắc và phong phú, con người Việt Nam hữu nghị và thân thiện, Quốc hội Việt Nam năng động và đổi mới.
3. Báo Nhân dân phản ánh: Ngày 4-1, sáu đoàn kiểm tra của Bộ Y tế đã kiểm tra việc triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) mới tại các bệnh viện ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Tại một số bệnh viện, đoàn kiểm tra đã phát hiện một số vướng mắc trong áp dụng theo quy định mới. Ðược biết, để khắc phục một số vướng mắc, Bộ Y tế đang xem xét và có thể sớm ban hành quyết định giải quyết BHYT cho những đối tượng có thẻ BHYT cũ còn hạn sử dụng, nhằm khắc phục những vướng mắc hiện nay, với phương châm không để người bệnh bị gián đoạn quá trình điều trị.
Bắt đầu từ ngày 1-1-2010, các bệnh viện trên cả nước đồng loạt triển khai khám, chữa bệnh BHYT theo mẫu thẻ BHYT mới phát hành. Do quy định của BHXH và sự chỉ đạo của Bộ Y tế thiếu đồng bộ khiến khâu triển khai ở các bệnh viện rất lúng túng. Kéo theo đó, hàng nghìn người bệnh bị ảnh hưởng quá trình điều trị bệnh, dù thẻ BHYT cũ của họ vẫn còn hạn sử dụng.Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Bạch Mai trung bình mỗi ngày tiếp đón khám cho khoảng 1.300 lượt người bệnh, trong đó tỷ lệ người có thẻ BHYT chiếm đến 70%. Thực hiện quy định của Bộ Y tế và BHXH Việt Nam về việc khám, chữa bệnh BHYT theo thẻ BHYT mới, khoa đã được bệnh viện thông báo chỉ giải quyết BHYT cho những trường hợp xuất trình được thẻ BHYT mẫu mới ban hành. Nhưng tỷ lệ người bệnh có thẻ BHYT mới còn rất ít, trong khi BHXH đã có văn bản thông báo tất cả những trường hợp chưa có thẻ BHYT mới đều không được giải quyết BHYT. Quy định này được bệnh viện áp dụng từ 0 giờ ngày 1-1-2010, và đã có rất nhiều người bệnh có thẻ BHYT cũ thắc mắc về vấn đề này.
Trước thực trạng trên, tại buổi kiểm tra triển khai Luật BHYT tại Bệnh viện Bạch Mai ngày 4-1, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh - Bộ Y tế Trần Quý Tường cho biết, Bộ Y tế đã họp và thống nhất: Tất cả những thẻ BHYT mẫu cũ nhưng còn hạn sử dụng thì sẽ vẫn tiếp tục có giá trị sử dụng cho đến hết thời hạn của thẻ, nhưng hưởng theo chế độ mới như thẻ BHYT mới. Với những người bệnh có thẻ BHYT đã hết hạn trước thời điểm 1-1-2010 nhưng đang điều trị thì về nguyên tắc sẽ không được thanh toán BHYT. Song để tạo điều kiện tốt nhất, Bộ Y tế quy định với những người tham gia BHYT bắt buộc thì các bệnh viện căn cứ theo mã thẻ và tiếp tục giải quyết BHYT, còn người bệnh tham gia BHYT tự nguyện thì phải xuất trình được chứng nhận đang tiếp tục tham gia BHYT (đang đổi thẻ) thì mới được thanh toán. Tuy nhiên, Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai Nguyễn Ngọc Hiền khẳng định rằng, bệnh viện chưa nhận được văn bản chỉ đạo nào của Bộ Y tế về nội dung trên. Trong khi vào ngày 18-12-2009, BHXH thành phố Hà Nội đã có văn bản chỉ đạo, trong đó nêu rõ chỉ giải quyết BHYT cho những người bệnh xuất trình được mẫu thẻ mới. Chính sự thiếu đồng bộ đó đã làm nhiều người bệnh phải chịu thiệt thòi, vì đa phần người bệnh chưa có thẻ mới.
4. Báo Thanh niên phản ánh: Lúc mới tách tỉnh to ra các tỉnh nhỏ, chưa có chính sách chiêu hiền đãi sĩ như bây giờ, tại một cuộc họp, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình lúc bấy giờ đã phàn nàn: “Tỉnh ta người làm gì cũng thiếu, chỉ có người làm thơ là... thừa”. Thế nhưng cuối năm đó, có một sinh viên về xin việc. Hồi đó chưa có chuyện thi công chức, nên người này mang hồ sơ trực tiếp nộp cho sở. Ông giám đốc sở xem xong hồ sơ hỏi: “Vì sao cháu học giỏi thế này mà không ở Hà Nội làm việc lại về Quảng Bình?”. Người đó thưa: “Là cháu muốn về góp sức xây dựng quê hương”. Ông giám đốc giương mục kỉnh lên nhìn anh chàng sinh viên mới tốt nghiệp, đoạn thư thả nói: “Cháu cứ yên tâm ở Hà Nội mà làm việc, đặng phát triển tài năng, tỉnh ta đã đủ người xây dựng rồi!”.Thế rồi đến một thời kỳ, khắp nơi ban bố chính sách chiêu hiền đãi sĩ, coi đó như là một nhiệm vụ, một biện pháp để nâng cao năng lực cán bộ địa phương mình mà khỏi mất thời gian đào tạo. Các cán bộ có bằng cấp tha hồ lựa chọn, tỉnh nào chế độ cao thì nhân tài về.Sau một thời gian, người ta mới nhận ra, trong số người về có rất ít người phát huy được bằng cấp, trình độ của mình. Là vì một tiến sĩ công nghệ sinh học... về tỉnh không có lấy một phòng thí nghiệm thì nói chi chuyện phát huy năng lực; một giáo sư về tỉnh chưa có trường đại học không lẽ đi dạy phổ thông?
Nhiều tỉnh, thành cứ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi thì nhận. Rất nhiều sinh viên khoa học - xã hội nhân văn được bố trí đi lại cũng chỉ có ba nơi: đài phát thanh - truyền hình, báo của tỉnh và Sở Văn hóa - Thông tin. Ba năm thì lượng người ối ra. Ấy là chưa kể, một đài phát thanh - truyền hình phía Nam tiếp nhận quá nhiều con em Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị... giỏi thì có giỏi, nhưng chất giọng là một hạn chế hầu như không thể khắc phục. Vì thế thành ra vấn đề khó giải.Rồi anh đi làm báo thi công chức thì không thi nghiệp vụ báo chí, anh làm kinh tế không thi về nghiệp vụ kinh tế mà chỉ thi... công chức. Lại một bất cập nữa.
Mới đây nghe chuyện sinh viên giỏi này giỏi khác nhưng không được tiếp nhận, người nghe thì bức xúc nhưng người trong cuộc mới bức xúc hơn. “Ông” tỉnh nhận một số sinh viên bằng giỏi “ấn” về ngành. Đang trong thời kỳ làm thử chờ thi công chức, có người đã đòi thay đổi cái này cái nọ. Có người trong ba tháng đã viết đến mấy cái đơn kiện lên cấp trên, trong lúc chưa hề phản ánh gì trong cuộc họp ở cơ sở, mà kiện toàn “chuyện nghe nói”, khiến đơn vị rối ren mệt mỏi. Lại có sinh viên bằng giỏi nhưng tính tình lại “tưng tưng” không ai chịu nổi... Thế là cơ sở phản ứng, có nơi ra tòa, tai tiếng vang xa cả nước, bức xúc vô cùng!
Một giám đốc sở tâm sự, chính sách thu hút nhân tài chỉ nói bằng giỏi là được, nhưng tính tình, sự tận tâm, đam mê công việc, cách hành xử... thì sao? Chúng tôi là người đối mặt với các công chức tương lai đó hằng ngày chứ không phải là “ông nội vụ”.Từ thực tế đó, có tỉnh thành biết bất cập nhưng vì tiếng tăm của địa phương mình nên không dám thay đổi, cứ để thế, nhưng người thì không nhận nữa. Có ông lãnh đạo tỉnh nói: “Chúng tôi cần người làm việc tốt chứ không cần người có bằng giỏi”. Lại sinh ra kiện tụng, tai tiếng vô cùng!Rốt cục thì chính sách chiêu hiền đãi sĩ, thu hút nhân tài là việc làm thật đã trở thành chiêu PR. Có cái gì đó như “phong trào”, họ làm thì ta làm cho... có tiếng. Hình thức đã đành lại còn kéo theo bao nhiêu hệ lụy cho cơ sở.Vì thế, đã đến lúc phải nhìn lại “phong trào” này.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ có bài "Đủ loại sai sót trong giấy khai sinh". Bài báo phản ánh: Sai sót liên quan đến giấy khai sinh (GKS) rất đa dạng, dưới đây chỉ xin dẫn chứng một số trường hợp.
Tháng 9-1995, ông Trần Hửu P. đến UBND xã đăng ký khai sinh cho con mình là Trần Hửu T.. Cả hai chữ “Hữu” trong tên ông và tên con đều viết là “Hửu”. Khi nhập học, tên trong hồ sơ học bạ của em Trần Hửu T. được chỉnh sửa lại, dấu hỏi thành dấu ngã, chứng minh nhân dân (CMND) và hộ khẩu cũng ghi “Hữu” dấu ngã. Sự bất nhất giữa GKS và các giấy tờ học tập của con khiến ông Trần Hửu P. phải đến UBND huyện cải chính phần khai về tên của con ông trong bản chính GKS, dù chỉ sai một dấu.
Ông Đ.V.Luyến đến UBND huyện Lai Vung (tỉnh Đồng Tháp) xin được cải chính tên mình trong GKS của con gái. Do khi đăng ký khai sinh cho con, ông khai tên mình là Đ.V. Liếng, dẫn đến sai sót, bất nhất giữa giấy tờ của ông và GKS, hồ sơ học tập của con ông.
Pháp luật hiện hành quy định khi đăng ký hộ tịch, cán bộ tư pháp hộ tịch, cán bộ tư pháp của phòng tư pháp hoặc cán bộ hộ tịch của sở tư pháp phải tự mình ghi vào sổ hộ tịch và biểu mẫu hộ tịch; nội dung ghi phải chính xác; chữ viết phải rõ ràng, đủ nét, không viết tắt, không tẩy xóa. Tuy nhiên tình trạng bản chính GKS và nội dung sổ đăng ký khai sinh không thống nhất xảy ra khá nhiều, dẫn đến rắc rối cho người dân. Điển hình là trường hợp của em N.N. Đ.T. đăng ký khai sinh tại phường 2, TP Cao Lãnh vào năm 1991. Bản chính khai sinh của em ghi tên người mẹ là Phạm T.N.T., tuy nhiên tháng 10-2009, khi em đến UBND phường 2 yêu cầu cấp bản sao khai sinh thì phát hiện sổ đăng ký khai sinh ghi tên người mẹ là Nguyễn T.N.T. Sau khi xác minh chính xác họ và tên người mẹ từ các giấy tờ khác như hộ khẩu, học bạ em T., cán bộ hộ tịch UBND phường 2 đã sửa chữa sai sót trong sổ đăng ký khai sinh.
Một trường hợp khác: ông L. đăng ký khai sinh cho con là N.T.T. sinh ngày 12-2-1990. Khi ông L. yêu cầu cấp lại bản chính GKS thì phát hiện ngày tháng sinh của con ông ghi trong sổ đăng ký khai sinh lại là ngày 4-3-1990. Sau khi kiểm tra thấy các giấy tờ nhân thân khác của em N.T.T. đều sử dụng ngày, tháng, năm sinh là 12-2-1990, cán bộ hộ tịch đã sửa chữa sổ đăng ký hộ tịch cho phù hợp với bản chính GKS mà không cần phải làm thủ tục cải chính hộ tịch.
Theo quy định, các sổ hộ tịch phải được ghi đầy đủ không bỏ trống các cột, mục. Trên thực tế, nhiều sổ đăng ký khai sinh trước đây phần lớn chỉ ghi tình trạng nhân thân của người được khai sinh, các nội dung như thẩm quyền người ký GKS, họ và tên người đi đăng ký khai sinh, cán bộ hộ tịch giải quyết đăng ký khai sinh đều bỏ trống, gây khó khăn cho công tác quản lý hộ tịch.
Tháng 7-2009, ông T. đến UBND xã yêu cầu cấp 10 bản sao khai sinh cho con là T.V.T. đăng ký khai sinh ngày 1-12-1990. Tra cứu mới thấy sổ đăng ký khai sinh không ghi họ và tên người ký GKS. Nếu cán bộ tư pháp xã cấp bản sao cho em T.V.T. đúng theo nội dung ghi trong sổ đăng ký khai sinh thì các bản sao này sẽ rơi vào tình trạng không hợp lệ do thiếu họ và tên của người có thẩm quyền ký cấp GKS. Thiết nghĩ trong quá trình đăng ký GKS, các cơ quan có thẩm quyền lẫn người dân cần quan tâm hơn về nội dung đăng ký, nhằm hạn chế những sai sót dẫn đến nhiều hậu quả rắc rối trong các quan hệ dân sự sau này.
2. Báo Hà Nội mới có bài Sẽ ngừng cấp phép văn phòng một công chứng viên. Bài báo phản ánh: Đây là khẳng định của bà Trương Thị Nga, Phó Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội. Lý do Sở Tư pháp đưa ra là trường hợp chỉ có một công chứng viên hành nghề sẽ không tránh khỏi công việc của văn phòng công chứng (VPCC) bị gián đoạn, không ai công chứng khi công chứng viên bị ốm đau... ảnh hưởng đến thời gian giải quyết công việc cho người dân.
Được biết, Hà Nội có khoảng 100 công chứng viên, trong đó có 60 người đang hành nghề tại các VPCC. Hiện Sở Tư pháp đã nhận được 18 đơn thư khiếu nại liên quan đến hoạt động công chứng, trong đó, số đơn thư liên quan đến VPCC (công chứng ngoài ngân sách, hay công chứng tư), cao gấp 7 lần khối phòng công chứng (của Nhà nước). Các khiếu nại chủ yếu về nghiệp vụ, do các công chứng viên chưa tuân thủ chặt chẽ quy trình công chứng như hủy hợp đồng đã công chứng không thu hồi lại hết các bản chính của hợp đồng, dẫn đến bị lưu lạc ra ngoài. Có VPCC lưu hồ sơ bằng bản photo, khi người dân xin cấp lại thì không có cơ sở để cấp.
Báo cũng có bài Thi hành án lao động: Có quy định vẫn khó thực hiện. Bài báo phản ánh: Theo các chuyên gia pháp lý, hiện nhiều vụ án lao động (LĐ) đã được tòa tuyên án nhưng bên phải thi hành án cố tình chây ỳ, dù có đủ điều kiện thi hành. Trong khi đó, việc xử lý trách nhiệm hình sự gần như không thực hiện được do cơ quan thi hành án chỉ có quyền kiến nghị giải quyết, còn có truy cứu hay không lại phụ thuộc vào cơ quan điều tra.
Một trường hợp điển hình là bà Gosain Mally Girih (là người Việt gốc Ấn Độ, viết tắt là Mally), có hộ khẩu thường trú ở phố Tôn Đức Thắng - Hà Nội. Từ tháng 2-1993, bà Mally được nhận vào làm công nhân của Xí nghiệp Dược phẩm Hà Nội (nay là Công ty cổ phần Dược phẩm Hà Nội). Sau khi được tuyển dụng, bà được ký hợp đồng (HĐ) thử việc 3 tháng. Hết hạn HĐ thử việc 3 tháng, bà được ký tiếp các HĐLĐ 6 tháng, rồi 1 năm và cứ kéo dài như vậy đến năm 2001. Sau gần 9 năm bị doanh nghiệp vi phạm các quyền lợi hợp pháp, bà Mally đã làm đơn kiến nghị với lãnh đạo doanh nghiệp đề nghị được ký HĐLĐ dài hạn, điều chỉnh lại lương và được tham gia đóng BHXH... Mãi đến lúc này doanh nghiệp mới cho bà ký HĐLĐ dài hạn và đóng BHXH, nhưng bà đã 51 tuổi. Đến tháng 3-2006, khi bà Mally hết tuổi LĐ (đủ 55 tuổi), Công ty cổ phần Dược phẩm Hà Nội cho nghỉ theo chế độ, nhưng do chưa đủ thời gian đóng BHXH nên bà không được hưởng chế độ hưu trí, chỉ được giải quyết chế độ BHXH một lần cho 4 năm đóng BHXH (mỗi năm được chi trả 1 tháng lương). Thắc mắc, thì công ty này cho rằng bà Mally là người nước ngoài nên không được hưởng các quyền lợi của người LĐ theo Bộ luật LĐ.
Cực chẳng đã, bà Mally phải kiện Công ty cổ phần Dược phẩm Hà Nội ra tòa. Ngay sau đó, TAND quận Đống Đa (Hà Nội) đã xét xử vụ án tranh chấp LĐ và tuyên án người LĐ thắng kiện, buộc công ty phải truy đóng BHXH và thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho những năm làm việc thực tế của bà. Thế nhưng sau khi bản án có hiệu lực, bà Mally chỉ được Công ty cổ phần Dược phẩm Hà Nội bồi thường tiền trợ cấp thôi việc và khoản tiền nghỉ phép của người LĐ. Còn khoản truy đóng BHXH (từ năm 1993 đến năm 2000) để người LĐ được giải quyết đầy đủ chế độ BHXH thì vẫn "bặt vô âm tín".
Hay vụ việc của chị Lê Minh Nguyệt từng gây xôn xao dư luận. Năm 2004, chị Nguyệt được tuyển dụng vào vị trí Giám đốc dự án của Crown Agents - Văn phòng đại diện tại Hà Nội theo HĐ không xác định thời hạn. Bất ngờ ngày 2-1-2007, chị Nguyệt bị sa thải, dù chị luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Năm 2008, Tòa án quận Hoàn Kiếm đã tuyên buộc Công ty Crown Agents - Văn phòng đại diện tại Hà Nội phải nhận chị Nguyệt trở lại làm việc theo HĐLĐ đã ký và phải thanh toán hơn 43 ngàn USD tiền lương và phụ cấp trong những ngày chị Nguyệt bị mất việc bất hợp lý; trả lương cho chị từ ngày xử án đến khi nhận chị trở lại làm việc với mức lương 2.001 USD/tháng; truy đóng bảo hiểm y tế, BHXH từ khi sa thải đến khi nhận chị Nguyệt trở lại làm việc. Án tuyên rõ ràng nhưng Công ty Crown Agents - Văn phòng đại diện tại Hà Nội không chịu thi hành khiến cơ quan Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm phải cưỡng chế bằng hình thức chiết khấu tài khoản. Nhưng biện pháp này chỉ giúp chị Nguyệt đòi được tiền, còn các chế độ về BHXH, BHYT và việc bố trí lại công việc cho chị đến nay vẫn chưa có hồi kết!
Đây chỉ là hai trong nhiều vụ án LĐ bị tồn bởi bên phải thi hành án cố tình chây ỳ, dù có điều kiện thi hành. Nhiều chấp hành viên cho rằng, khi hai bên người LĐ và chủ sử dụng LĐ đã có những "va chạm" khiến phải đưa nhau ra tòa thì việc nhận người LĐ trở lại làm việc rất khó khăn. Về tâm lý, thường khi đó hai bên có "ác cảm" với nhau và sau khi sa thải, đã có người khác thay thế nên việc tòa tuyên buộc phải nhận người LĐ trở lại làm việc ở vị trí cũ, mức lương tương đương không hề đơn giản. Không ít trường hợp, để "đối phó", chủ sử dụng LĐ cũng nhận người LĐ trở lại làm việc, nhưng bố trí công việc không phù hợp chuyên môn, để rồi vài tháng sau kiếm cớ cho nghỉ việc hợp lý hơn.
Khoản 1 điều 121 Luật Thi hành án dân sự quy định: "Trường hợp người sử dụng LĐ không nhận người LĐ trở lại làm việc theo bản án, quyết định thì chấp hành viên ra quyết định phạt tiền đối với người sử dụng LĐ là cá nhân hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng LĐ. Đồng thời ấn định thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phạt tiền để người sử dụng LĐ thực hiện việc nhận người LĐ trở lại làm việc. Hết thời hạn đã ấn định mà người sử dụng LĐ không thực hiện thì chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Không chấp hành án".
Tuy nhiên, việc xử lý trách nhiệm hình sự gần như không thực hiện được, bởi cơ quan thi hành án chỉ có quyền kiến nghị, còn truy cứu hay không, lại phụ thuộc vào cơ quan điều tra. Có lẽ cũng vì thế mà người LĐ vẫn rất khó trong việc đòi lại những quyền lợi chính đáng của mình.
3. Báo Lao động phản ánh: Tin từ Văn phòng UBND TP ngày 29.12.2009, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thế Thảo đã ký chỉ thị số 36/CT-UBND về triển khai Luật Thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố.
Theo đó, để triển khai có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự và giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác này trên địa bàn thành phố, UBND thành phố yêu cầu Sở Tư pháp tổ chức rà soát các văn bản QPPL do UBND thành phố ban hành trước đây trái với Luật Thi hành án dân sự, báo cáo đề xuất UBND thành phố sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ để phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Đồng thời, chủ trì, tham mưu giúp hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thành phố xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch tuyên truyền luật này...
Cục Thi hành án dân sự thành phố chủ động tham mưu giúp UBND thành phố quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự theo quy định tại Điều 173 của luật này; chủ động phối hợp với các cấp, các ngành, chính quyền cơ sở, tích cực xác minh, phân loại và tổ chức thi hành có hiệu quả các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Báo cũng có bài Bắt đầu thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước:
Nhà nước dễ trở thành... con nợ. Bài báo phản ánh: Từ 1.1, người dân và tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong 3 lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án có quyền yêu cầu và Nhà nước phải bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước.Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia pháp luật thì nếu không nâng cao năng lực, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của cán bộ công chức trong quá trình thực thi công vụ thì Nhà nước dễ trở thành con nợ...
Theo ông Phạm Quốc Anh - Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam - thì việc ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước (Luật TNBTNN) phản ánh quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội. Luật đã đặt vai trò, địa vị pháp lý của người dân ngang bằng với Nhà nước, nghĩa là luật cho phép người dân yêu cầu, khởi kiện và Nhà nước phải bồi thường khi các công chức, viên chức của mình có lỗi... Điều này có ý nghĩa to lớn tới tiến trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính của đất nước. Còn theo luật sư Lê Thiên - Văn phòng luật sư Lê và liên danh - thì dù chưa cụ thể hoá triệt để nguyên tắc đã được ghi trong Hiến pháp là Nhà nước có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra. Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của luật đã có bước mở đáng kể. Cũng theo luật sư Thiên thì điểm nổi bật là luật đã xác định cả những trường hợp người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây thiệt hại thì Nhà nước phải bồi thường.
Cụ thể: Trong quản lý hành chính là các hành vi: Không cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có đủ điều kiện. Trong thi hành án dân sự là các hành vi: Không ra các quyết định về thi hành án như quyết định thi hành án, cưỡng chế thi hành án, hoãn thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án... và không tổ chức thi hành các quyết định này. Trong thi hành án hình sự là hành vi không thực hiện quyết định hoãn thi hành án đối với người bị kết án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù.
Theo ông Nguyễn Tuấn Anh - giám đốc một Cty tư vấn luật - thì hành vi thụ động, thiếu trách nhiệm của cán bộ, công chức vừa gây thiệt hại rất lớn, lại vừa tạo ra môi trường nảy sinh tiêu cực. Việc chậm cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, chứng nhận đầu tư đôi khi làm tuột mất một dự án, thậm chí xoá sổ cả một doanh nghiệp... nhưng thường lâu nay không ai phải chịu trách nhiệm cả. Và việc Luật TNBTNN làm niềm tin về việc sớm khắc phục các hạn chế trên có cơ sở để thực hiện.
Trong bối cảnh nền hành chính còn đang trong quá trình hoàn thiện, hàng nghìn thủ tục đang cần được cải cách, thậm chí loại bỏ, năng lực, trách nhiệm cán bộ còn bộc lộ nhiều hạn chế, tiêu cực..., thì không ít ý kiến tỏ ra lo ngại việc chỉ riêng trong hoạt động quản lý hành chính luật xác định tới hơn 11 nhóm hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra... phải bồi thường sẽ khiến ngân sách nhà nước ôm nợ. Cụ thể, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp như ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khác; cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép; áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất; giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất...
Theo một lãnh đạo Thanh tra Chính phủ thì đây đều là những lĩnh vực rất dễ xảy ra sai phạm và nếu không khắc phục được tình trạng này, ngân sách nhà nước sẽ phải dành một khoản không nhỏ để bồi thường.
Theo báo cáo của Chính phủ từ năm 1997 đến 2007, cả nước mới chỉ giải quyết 170 vụ việc đòi bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước gây ra (theo Nghị định 97) với số tiền bồi thường là trên 16 tỉ đồng. Còn sau 4 năm thi hành Nghị quyết 388 bồi thường cho người bị oan trong tố tụng hình sự, thì cũng mới giải quyết được 200 vụ với tổng số tiền bồi thường là gần 15 tỉ đồng. Dù vậy, Chính phủ cũng thẳng thắn nhìn nhận: Số lượng vụ việc được bồi thường không tương xứng với yêu cầu thực tế.
Theo luật sư Lê Thiên, dù luật đã quy định người thi hành công vụ gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi hoàn tiền bồi thường cho Nhà nước; tuy nhiên, tính khả thi của quy định này không cao. Theo luật sư Thiên, nếu không nâng cao năng lực và trách nhiệm công vụ của cán bộ, ngân sách nhà nước sẽ phải dành một khoản rất lớn để bồi thường cho các sai phạm của cán bộ công chức gây ra. Và không phải đến bây giờ, ngay từ khi xây dựng luật này, tại diễn đàn QH từ Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của QH - ông Ksor Phước - đến Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính Phùng Quốc Hiển và nhiều ĐB đều tỏ ra lo lắng cho túi tiền quốc gia. Thậm chí, ông Ksor Phước còn băn khoăn “không khéo luật ra đời, Nhà nước lại trở thành... con nợ”.