Trong buổi sáng ngày 09/7/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I. Thông tin về những sự kiện nổi bật của đất nước:
1. Báo Nhân dân phản ánh: Hợp tác tư pháp Việt Nam và Cam-pu-chia. Nhận lời mời của Cơ quan Tổng Chưởng lý Tòa án tối cao Vương quốc Cam-pu-chia, Ðoàn đại biểu Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam do đồng chí Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Phó Viện trưởng làm trưởng đoàn đã đi thăm và làm việc tại Cam-pu-chia từ ngày 1 đến ngày 5-7-2009.
Ðoàn đã được Thủ tướng Vương quốc Cam-pu-chia Xăm-đéc Hun Xen tiếp. Ðoàn đã làm việc với các Cơ quan Tổng Chưởng lý, Bộ Tư pháp, Tòa án tối cao Vương quốc Cam-pu-chia; tiếp xúc với cơ quan Công tố TP Phnôm Pênh và cơ quan Công tố tỉnh Xiêm Riệp.
Trong buổi tiếp Ðoàn đại biểu của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam, Thủ tướng Hun Xen hoan nghênh và đánh giá cao chuyến thăm và làm việc tại Cam-pu-chia của Ðoàn, coi đây là biện pháp cụ thể để tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước và giữa các cơ quan tư pháp của hai nước, trong đó có sự hợp tác giữa Cơ quan Tổng Chưởng lý Tòa án tối cao Vương quốc Cam-pu-chia và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam. Thủ tướng Hun Xen khẳng định: Ðảng Nhân dân, Chính phủ và nhân dân Cam-pu-chia rất biết ơn Việt Nam đã giúp đỡ Cam-pu-chia trong công cuộc đấu tranh chống xâm lược cùng bè lũ tay sai để giải phóng Cam-pu-chia và giúp Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng do Khmer đỏ gây nên. Thủ tướng nhấn mạnh: Việt Nam và Cam-pu-chia là hai nước láng giềng cần phải đoàn kết, gắn bó với nhau để ổn định và phát triển đất nước.
2. Báo Thanh niên phản ánh:Ngày 8.7, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham nhũng đã họp. Phiên họp thứ 10 nhằm đánh giá kết quả công tác phòng, chống tham nhũng 6 tháng đầu năm 2009 và chỉ đạo nhiệm vụ 6 tháng cuối năm. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Trưởng ban chỉ đạo; Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, Phó trưởng ban chỉ đạo đồng chủ trì phiên họp.
Sau khi nghe báo cáo và ý kiến thảo luận của các thành viên Ban chỉ đạo, Thủ tướng Nguyến Tấn Dũng khẳng định: Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong 6 tháng đầu năm 2009 đã có chuyển biến tích cực, củng cố niềm tin trong toàn Đảng và nhân dân ta về quyết tâm của cả hệ thống chính trị, đấu tranh loại trừ tham nhũng, làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước.
Ghi nhận những kết quả tích cực của công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế như: Việc tổ chức triển khai thực hiện các quy định về phòng ngừa tham nhũng ở lĩnh vực kê khai tài sản, quản lý đất đai hiệu quả còn thấp. Công tác phát hiện, xử lý các vụ việc tham nhũng còn kéo dài. Quy chế giải quyết đơn thư tố cáo liên quan đến tham nhũng chưa rõ ràng, dẫn đến chồng chéo.
Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu tại các đơn vị xảy ra tham nhũng còn hạn chế... Để làm tốt nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Thủ tướng yêu cầu các cấp, bộ, ngành trung ương và địa phương cần tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các giải pháp về phòng, chống tham nhũng, bám sát nguyên tắc đấu tranh, phòng, chống tham nhũng phải được tiến hành quyết liệt, triệt để và đồng bộ, không được bằng lòng với kết quả đạt được.
Thủ tướng chỉ rõ: Một giải pháp phòng ngừa tham nhũng quan trọng là việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính, công khai, minh bạch các chế độ, thủ tục, chính sách sẽ thu hẹp môi trường của tội phạm tham nhũng. Trong đó phải quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong cải cách thủ tục hành chính, quản lý đất đai, ngân sách sao cho công khai, minh bạch và phải có sự giám sát của quần chúng, của nhân dân; cần làm tốt công tác giám sát của nhân dân, các tổ chức đoàn thể trong công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng. Việc giải quyết đơn thư tố cáo cần thận trọng, khách quan, không làm oan sai cũng không bỏ sót tội phạm; đặc biệt phòng ngừa chính những người được giao nhiệm vụ chống tiêu cực mà lại có những hành động tiêu cực.
Việc chỉ đạo xử lý 8 vụ án tham nhũng trọng điểm đã cơ bản kết thúc (trong đó 7 vụ đã được xét xử phúc thẩm và 1 vụ xét xử sơ thẩm). Hiện còn tồn tại một số nội dung cần giải quyết dứt điểm là: mảng kinh tế trong vụ PMU 18, Cơ quan điều tra Bộ Công an và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đang phối hợp để làm rõ một số vấn đề của vụ án theo yêu cầu của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; mảng tội danh tham ô trong Dự án cầu Bãi Cháy; việc xử lý tài sản của Nguyễn Đức Chi ở tỉnh Khánh Hòa trong vụ án Nguyễn Đức Chi. Đối với 17 vụ án khác mà Ban chỉ đạo đang theo dõi, chỉ đạo đã có 3 vụ được đưa ra xét xử, 10 vụ đã kết thúc điều tra và đang điều tra bổ sung; 4 vụ đang được tiếp tục điều tra và mở rộng điều tra.
3. Báo Đại đoàn kết có bài “ Chống tham nhũng theo tiêu chuẩn quốc tế”. Theo báo, sự kiện Việt Nam phê chuẩn Công ước quốc tế về chống tham nhũng mới đây được dư luận thế giới đánh giá là một quyết định quan trọng thể hiện những nỗ lực và quyết tâm của Nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện thể chế và tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác phòng chống tham nhũng. Việc phê chuẩn Công ước này sẽ giúp Việt Nam thực thi việc chống tham nhũng từ nay theo tiêu chuẩn quốc tế.
Theo đánh giá của các chuyên gia LHQ, Việt Nam là một trong những nước có hệ thống pháp luật về phòng chống tham nhũng rất tốt, có thể nói là tốt nhất và toàn diện nhất khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, vấn đề là việc thực thi luật pháp trên thực tế còn nhiều bất cập. Tham nhũng không chỉ tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh cho nền kinh tế non trẻ mà còn là “một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ” như Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã từng cảnh báo vào tháng 7/2006 tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng CS Việt Nam lần thứ 3, khóa X.
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ký tham gia Công ước quốc tế về chống tham nhũng vào tháng 12/2003 ngay sau khi Công ước được Đại Hội Đồng LHQ thông qua vào tháng 7/2003. Thế nhưng chúng ta phải mất tới sáu năm để chuẩn bị cho việc phê chuẩn Công ước này. Trong thời gian này đã có 140 quốc gia tham gia, trong đó có 136 quốc gia đã phê chuẩn Công ước, cho thấy sự khó khăn trong thực tế của việc phòng chống tham nhũng tại Việt Nam.
Công ước quốc tế về chống tham nhũng của LHQ gồm 8 chương và 71 điều, chủ yếu đề cập tới các vấn đề: biện pháp phòng ngừa, các quy định về hình sự hóa, hợp tác quốc tế, thu hồi tài sản và hỗ trợ kỹ thuật. Trừ một số điều mang tính hướng dẫn thủ tục, còn lại, theo các chuyên gia pháp lý Việt Nam, Công ước có 237 yêu cầu, trong đó 135 yêu cầu mang tính bắt buộc (các quốc gia thành viên phải thực hiện trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc của Hiển pháp và luật pháp quốc gia), 38 yêu cầu mang tính chất khuyến nghị và 64 yêu cầu mang tính tùy nghi (các quốc gia thành viên không bắt buộc phải thực hiện). Cũng theo các chuyên gia pháp lý Việt Nam, mục tiêu của Công ước không trái với nguyên tắc Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và đường lối chính sách của Đảng CS Việt Nam. Pháp luật Việt Nam hiện hành về cơ bản phù hợp với nội dung Công ước và đáp ứng được 135/135 yêu cầu mang tính bắt buộc; 61/64 yêu cầu mang tính tùy nghi; 37/38 yêu cầu mang tính khuyến nghị.
Quyết định phê chuẩn của Việt Nam đồng thời bảo lưu khoản 2, điều 66 của Công ước về tranh chấp giữa 2 hay nhiều quốc gia thành viên liên quan tới việc giải thích hay áp dụng Công ước mà không giải quyết được thông qua thương lượng. Việt Nam cũng tuyên bố không bị ràng buộc và không áp dụng trực tiếp các quy định về hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp tại điều 20 của Công ước này; việc thực hiện các quy định hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp sẽ theo nguyên tắc Hiến pháp và luật pháp thực định của Việt Nam trên cơ sở các thỏa thuận song phương hoặc đa phương với nước khác và trên nguyên tắc có đi có lại. Ngoài ra, Việt Nam còn tuyên bố kèm theo quyết định phê duyệt không coi Công ước là cơ sở pháp lý trực tiếp về dẫn độ; việc dẫn độ sẽ theo quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở các hiệp định về dẫn độ là nguyên tắc có đi có lại.
Như đã nói, ý nghĩa trước mắt của việc phê chuẩn Công ước là xây dựng một hình ảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc hơn. Đồng thời Công ước cũng sẽ cung cấp cho Việt Nam một hệ tiêu chuẩn so sánh giúp tăng cường công tác giám sát và đánh giá tiến triển của công tác phòng chống tham nhũng dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù Công ước có tính linh hoạt vì nó cho phép các nước thành viên áp dụng hay không áp dụng một số điều khoản tùy thuộc vào tính đặc thù của mỗi quốc gia và khung pháp lý của mình. Tuy nhiên, việc hỗ trợ pháp lý lẫn nhau giữa các nước thành viên được yêu cầu phải sử dụng tối đa trong suốt quá trình điều tra, khởi tố và xét xử những tội mà Công ước bao phủ. Một trong những yêu cầu hàng đầu để việc thực thi Công ước có hiệu quả là các quốc gia thành viên phải đảm bảo tính minh bạch trong quá trình ban hành và thực thi chính sách để làm sao công chúng có thể tiếp cận và tham gia vào đó. Việc thực thi Công ước còn đòi hỏi phải mở rộng hơn nữa phạm vi tham gia phòng chống tham nhũng như là các đối tác quốc gia cho các đối tượng ngoài khu vực nhà nước bao gồm các cơ quan báo chí, các tổ chức xã hội... Các thành phần này đều có thể tham gia vào công cuộc phòng chống tham nhũng một cách trực tiếp để vừa đảm bảo sự minh bạch và thực thi chính sách pháp luật vừa góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình của hệ thống. Do vậy, quyền được tiếp cận thông tin của mọi người dân, của các tổ chức xã hội cũng là một yêu cầu bức thiết cần phải được luật hóa theo tinh thần của Công ước.
II. Những thông tin liên quan đến công tác tư pháp:
1. Báo Sài Gòn giải phóng với loạt bài “Luật sư – từ thực tế nhìn lại”. tiếp tục phản ánh “Bài 2: Hành nghề – vẫn còn trở ngại”. Theo bài báo, cùng với sự phát triển của đất nước trong những năm qua, đội ngũ luật sư (LS) Việt Nam từng bước trưởng thành, trở thành bộ phận không thể tách rời trong thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN. Đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” ra đời, hoạt động của LS chuyển biến rõ nét hơn, vai trò của LS được nâng lên tầm cao mới. Luật LS và các bộ luật khác đã có nhiều quy định mở rộng, trao thêm nhiều quyền nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của LS. Dẫu vậy, khi hành nghề, LS cũng đối mặt không ít khó khăn.
Luật: có quyền, thực tế: hạn chế
Theo Điều 58 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, LS được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia thì LS được tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Đặc biệt trong các trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì LS được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Ngoài ra, LS còn được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và có thể được hỏi người tạm giữ, bị can nếu điều tra viên đồng ý. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho LS thực hiện đúng chức năng của mình là làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo; góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội.
Luật quy định là thế, nhưng trên thực tế không phải lúc nào LS cũng được tạo điều kiện tham gia vào vụ án từ giai đoạn điều tra. LS kêu ca nhiều, thậm chí tại một cuộc họp, Đại tá Phan Anh Minh, Phó Giám đốc, Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an TPHCM, còn tuyên bố sẽ xử lý nghiêm những điều tra viên bị “tố” có hành vi cản trở LS hoạt động, tuy nhiên tình trạng này vẫn chưa thể chấm dứt. Theo quan điểm của một số điều tra viên, khi vụ án đang trong giai đoạn điều tra, LS bào chữa theo yêu cầu của bị can tham gia chỉ thêm… rối.
Bởi lẽ không ít trường hợp bị can đang thành khẩn thừa nhận hành vi sai phạm phù hợp với chứng cứ cơ quan điều tra thu thập được, vậy mà sau khi gặp LS thì lập tức phản cung, thay đổi lời khai. Vậy nên cứ trì hoãn sự tham gia của LS càng lâu càng tốt! Về phần mình, khi bị cản trở, không LS nào dám “tố” vì sợ sau này bị tẩy chay, ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài.
LS Trần Ngọc Quý (Đoàn LS TPHCM) nêu một khó khăn khác. Khoản 2 Điều 64 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 quy định rõ: người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, được ghi chép, sao chụp tài liệu có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Quy định như vậy, nhưng thực hiện được hay không là do… hên xui. Có tòa án cho phép LS được dùng máy chụp ảnh kỹ thuật số sao chụp trực tiếp hồ sơ vụ án ngay tại chỗ để về nghiên cứu; nhưng cũng có tòa án yêu cầu LS phải đăng ký để tòa photocopy hồ sơ, hẹn LS vài ngày sau đến lấy. Gặp những trường hợp như vậy, LS phải mất nhiều thời gian đi lại mới có thể có được hồ sơ đầy đủ phục vụ cho việc nghiên cứu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ.
Giữ quy tắc đạo đức hay đối mặt với pháp luật?
Theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, LS không được tiết lộ bí mật thân chủ. Đây là quy định đúng đắn, thể hiện trách nhiệm của LS đối với thân chủ của mình. Tuy nhiên, quy định này không “gặp” quan điểm của cơ quan điều tra.
Một số LS kể rằng đã bị điều tra viên mời lên yêu cầu hợp tác, cung cấp những gì đã biết qua những lần tiếp xúc với thân chủ (lúc này thân chủ của LS đã là bị can hoặc đang là nghi can trong một vụ án). Khi LS không đồng ý thì điều tra viên đe dọa rằng sẽ khởi tố LS về hành vi “Không tố giác tội phạm” theo quy định tại Điều 314 Bộ luật Hình sự.
Trước trường hợp này, hầu hết LS chọn cách không cung cấp thông tin và “đấu lý” với cơ quan điều tra rằng một khi thân chủ của họ chưa bị bản án có hiệu lực pháp luật tuyên là có tội thì chưa bị xem là tội phạm, do vậy không thể quy kết LS có hành vi “không tố giác tội phạm”. Dẫu “thoát hiểm” nhờ vận dụng “bảo bối” trên, nhưng các LS vẫn có cảm giác không được an toàn trong việc thực hiện trách nhiệm đối với thân chủ của mình.
Nhìn nhận theo hướng rộng hơn, LS Phan Thông Anh, Ủy viên Thường vụ Liên đoàn LS Việt Nam, Giám đốc Công ty Luật Hợp danh Việt Nam cho rằng: Pháp luật hiện nay còn có những quy định chồng chéo, thiếu thống nhất. Do vậy, mỗi LS phải phải có bản lĩnh, sự nhạy bén, xử lý tình huống hài hòa để vừa tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp vừa tuân thủ nghĩa vụ công dân của mình đối với đất nước.
Báo cũng phản ánh: Trong thời gian gần đây,tội chống người thi hành công vụ tăng mạnh. Ngày 8-7, Bộ Công an cho biết, từ đầu năm đến nay, toàn quốc xảy ra 25.508 vụ phạm pháp hình sự (giảm 0,9% so với cùng kỳ), làm chết 664 người, bị thương 3.474 người, thiệt hại 17 ô tô, 3.700 xe máy các loại và một số tài sản khác ước tính 192,9 tỷ đồng.
Đáng lo ngại là tội phạm cướp tài sản, cưỡng đoạt, cố ý gây thương tích, chống người thi hành công vụ... tăng mạnh.
Tại 14 tỉnh, thành phố trọng điểm, hoạt động của các băng nhóm TPHS nguy hiểm, lưu manh côn đồ diễn biến phức tạp, tập trung chủ yếu ở TPHCM, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bình Thuận, Đồng Nai...
Nhiều băng nhóm hoạt động công khai trắng trợn, hành vi bắn giết tàn bạo, dùng ôtô làm phương tiện chở đối tượng đánh nhau theo kiểu dàn trận; dùng súng AK, súng ngắn đuổi bắn nhau trên đường phố; dùng dao, mã tấu chém giết lẫn nhau xảy ra tại các thành phố lớn.
Điển hình như vụ các đối tượng dùng súng bắn chết Trần Thanh Long (tức Long Tuýp) tại Hải Phòng; hai băng nhóm dùng súng AK cưa báng và súng K59 thanh toán nhau xảy ra tại phố Đoàn Thị Điểm, Hà Nội; vụ thủ phạm dùng súng bắn đạn hoa cải bắn chết 6 người tại cảng Làng Khánh (Quảng Ninh).
Một số chủ doanh nghiệp, chủ nợ đã thuê một số tổ chức tội phạm để đòi nợ các đối tượng làm ăn thua lỗ, vỡ tín dụng đen dẫn đến các hành vi phạm tội giết thuê, đâm chém thuê. Các băng nhóm lưu manh chuyên nghiệp manh động, hoạt động lưu động, liên tuyến, liên vùng miền, gây ra một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng.
2. Báo Lao động phản ánh về vụ cưỡng chế sai đối tượng tại Ninh Thuận. Ngày 7.7, bà Cao Thị Kỉnh uỷ quyền cho ông Nguyễn Văn Nam (chuyên viên tư vấn pháp luật thuộc Văn phòng luật sư Lê Vi, tỉnh Đồng Nai) nộp đơn khởi kiện UBND tỉnh Ninh Thuận vì đã ra quyết định cưỡng chế thu hồi đất sai đối tượng, gây nên hậu quả là gia đình ông Nguyễn Văn Thành sống trong kiểu "màn trời chiếu đất".
Tòa án tỉnh Ninh Thuận đã tiếp nhận đơn.
Như Báo Lao Động, Báo Tuổi Trẻ TPHCM và Báo Thanh Tra đã từng phản ánh việc UBND tỉnh Ninh Thuận cưỡng chế sai đối tượng, làm gia đình nông dân khốn cùng. Nguyên vào năm 1966, ông Nguyễn Trung (đã chết) và bà Cao Thị Kỉnh (vợ ông Trung) có mua một lô đất 9.598m2 để làm nhà ở và canh tác (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Một thời gian sau ông Nguyễn Trung chết không để lại di chúc, nên đương nhiên bà Kỉnh và 9 người con là hàng thừa kế thứ nhất.
Sau đó bà Kỉnh giao cho con là Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Thị Lê Thu đứng ra trông coi. Sau khi tiến hành giải tỏa khu vực trên thành khu công nghiệp, ban quản lý dự án nhiều lần mời duy nhất ông Nguyễn Văn Thành đến làm việc thì ông Thành có gửi đơn (nhiều lần) xin UBND tỉnh xem xét vì ông ta chỉ là người trông coi đất mà không có quyền quyết định, nhưng đều không được xem xét.
Ngày 6.5.2009 UBND tỉnh thành lập đoàn cưỡng chế và tiến hành san bằng nhà nông dân Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Thị Lê Thu. Hậu quả gây ra rất nghiêm trọng, dù thời hiệu xử lý không còn, nhưng UBND tỉnh vẫn chưa xử lý xong. Ông Nguyễn Văn Thành vẫn tiếp tục khẳng định với chúng tôi, ông không hề có ý định chống lại việc quy hoạch, nhưng chỉ xin UBND tỉnh xử lý đúng pháp luật và đúng lý lẽ, ông sẽ tự nguyện rút đơn khiếu nại.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài “Mất giới tính có phần tại..luật.”. Theo báo, hôm qua (8-7), Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), Bộ Y tế đã tổ chức hội thảo triển khai đề án giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Ông Dương Quốc Trọng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ, cho biết hiện Việt Nam đã rơi vào tình trạng mất cân bằng giới tính với 33/64 tỉnh, thành có tỷ số giới tính nam nhiều hơn nữ. Nhiều địa phương xảy ra tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tuổi lập gia đình khiến cấu trúc gia đình thay đổi lớn.
Theo ông Trọng, trong hai năm 2009-2010, Tổng cục sẽ thí điểm đề án can thiệp nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính sau sinh tại 10 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh cao. Đó là Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Bình Định, Ninh Thuận, Tiền Giang, Đồng Nai và Bạc Liêu. Theo đề án, giải pháp quan trọng nhất vẫn là tuyên truyền để người dân và cán bộ y tế tự giác thực hiện chứ không chỉ dùng chế tài để dọa. Những người cố tình vi phạm sẽ bị xử phạt nghiêm. Đặc biệt, bác sĩ tiết lộ thông tin giới tính trước khi sinh sẽ bị rút giấy phép hành nghề.
Bác sĩ Nguyễn Đình Bách, Phó Chánh thanh tra Tổng cục DS-KHHGĐ, lại chỉ ra một nguyên nhân liên quan đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Đó là tại mục 1 Điều 4 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân hiện nay cho phép phụ nữ được nạo, phá thai theo nguyện vọng. Điều kiện nạo, phá thai còn đơn giản, thai phụ chỉ cần đủ sức khỏe và không có chống chỉ định. Điều này khiến các gia đình đã phá bỏ thai nếu giới tính của thai nhi không đúng ý muốn của gia đình.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 09/7/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ./.