Điểm tin báo chí sáng ngày 21 tháng 9 năm 2009

21/09/2009
Trong buổi sáng ngày 21/9/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tiền phong có bài Văn bản hành chính: Muôn hình kiểu sai. Bài báo phản ánh: Rà soát gần đây của cơ quan chức năng cho thấy, văn bản hành chính ở không ít cơ quan công quyền trình bày sai  quy phạm. Thậm chí ngành tư pháp - cơ quan có trách nhiệm thẩm định văn bản quy phạm pháp luật - cũng có hàng chục văn bản sai dù được ban hành ở cấp bộ.
Theo một điều tra của Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức cuối năm 2007, từ các bộ, ngành trung ương đến các địa phương,  tỷ lệ sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản so với quy định còn khá phổ biến. Theo kết quả kiểm tra, trong số 26 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Kế hoạch & Đầu tư có số văn bản sai quy định của Thông tư 55 nhiều nhất (50 văn bản). Tiếp theo là Bộ Xây dựng (35 văn bản) và Bộ Tư pháp (30 văn bản). Bốn hội đồng nhân dân và 53 ủy ban nhân dân cấp tỉnh có 146 văn bản sai quy định của Thông tư 55.
Đến năm 2009, tình hình có cải thiện nhưng vẫn không khó để tìm ra những văn bản hành chính sai quy định. Về khách quan, phần lớn cán bộ công chức trong các cơ quan nhà nước  hiện nay đều được học qua các khóa về quản lý nhà nước, là chuyên viên, chuyên viên chính. Về lý thuyết, họ nắm bắt cơ bản các quy định về soạn thảo văn bản hành chính, hiệu lực của các loại văn bản, cũng như cách ban hành, lưu, sao, nhận văn bản v.v…
Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn còn khá phổ biến tình trạng văn bản hành chính còn những sai sót về thể thức, không tuân thủ những quy định sơ đẳng theo Thông tư 55. Nếu đưa vào mục “dọn vườn” thì có không ít cái để dọn. Đó là chưa kể, về nội dung, nhiều văn bản câu chữ rườm rà, tối nghĩa, không tuân thủ theo một trình tự nào cả. Văn bản hành chính thì hành văn như văn nói, sử dụng nhiều mỹ từ, từ thừa, từ địa phương. Các danh từ riêng lúc viết hoa, khi lại không. Hoặc ngẫu hứng lên, có người lại viết hoa vô tội vạ những từ không cần viết hoa. Có những đoạn văn bản dài dằng dặc mà không có lấy một dấu phẩy hay chấm phẩy, đọc đến hết hơi mà chưa có chỗ để dừng.
Một tồn tại không thể không nhắc đến là lỗi chính tả. Cho dù người soạn thảo văn bản có trình độ đại học, trên đại học để xảy ra lỗi chính tả cũng không phải là cá biệt. Đó là chưa kể tình trạng râu ông nọ cắm cằm bà kia, thể hiện sự tắc trách, quan liêu của người soạn văn bản. Chẳng hạn, có văn bản từ một cơ quan trung ương gửi cho địa phương X, mặc dù đã là thành phố trực thuộc trung ương từ lâu nhưng vẫn vô tư ghi là tỉnh X.  Hoặc nơi “kính gửi” đề là UBND Tỉnh A nhưng cuối văn bản lại “đề nghị Tỉnh B giải quyết”. Thậm chí có trường hợp đem tên của chủ tịch tỉnh này gắn cho một tỉnh khác lân cận. Công nghệ thông tin được ứng dụng nhiều, kéo theo kỹ thuật cắt dán được ứng dụng rộng rãi, chỉ vì sự chủ quan, cẩu thả mà người ta làm cho văn bản trở thành tối nghĩa, thiếu nghiêm túc, hiệu lực không cao.
Rõ ràng, phải có người, có cơ quan chuyên thẩm tra, thổi còi những văn bản sai. Thực tế, văn bản quy phạm pháp luật đã có Sở Tư pháp thẩm định. Nhưng nếu căn cứ vào kết quả điều tra ở trên thì, ở Trung ương, Bộ Tư pháp cũng có tới 30 văn bản sai so với Thông tư 55. Thiết nghĩ, cải cách về văn bản hành chính cũng là một khâu quan trọng trong công tác cải cách hành chính đang rất được Đảng và Nhà nước quan tâm. Một bộ máy nhà nước chuyên nghiệp và hiện đại không thể xem nhẹ vấn đề này.
2. Trang web vtv.vn có bài Phát huy hiệu quả Văn phòng Công chứng: Cách nào?. Bài báo phản ánh: Xã hội hóa hoạt động công chứng là đòi hỏi chính đáng trong bối cảnh các Phòng công chứng Nhà nước quá tải và thiếu tính cạnh tranh. Sau 1 năm triển khai Luật Công chứng, hàng chục Văn phòng công chứng đã hoạt động theo loại hình Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân tại Hà Nội. Nhưng, bên cạnh những mặt tích cực, đã nảy sinh một số vấn đề cần được quan tâm giải quyết để các Văn phòng Công chứng phát huy hiệu quả hơn nữa.
Các Văn phòng công chứng ra đời theo Luật Công chứng với mô hình công ty tư nhân (1 Công chứng viên) hoặc hợp danh (2 Công chứng viên trở lên), sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách trên địa bàn thành phố Hà Nội, đã góp phần giảm tải rất nhiều cho các Phòng công chứng Nhà nước. Đã có sự thay đổi ở tác phong, thái độ làm việc trong đội ngũ công chứng viên. Người dân bước đầu ghi nhận vai trò của các Văn phòng Công chứng thay vì ánh mắt nghi ngại về tính pháp lý của “Công chứng tư” như những ngày đầu.
Chị Lê Thị Tuyết Hằng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội cho biết: "Tôi nghĩ Công chứng tư cũng có bảo trợ của Nhà nước chứ không nảy sinh ý nghĩ là tư nhân hay Nhà nước, tôi nghĩ là như nhau”.
Mới đây, Sở Tư pháp Hà Nội chủ trì đã kiểm tra định kỳ và đột xuất các Văn phòng công chứng sau 2 năm triển khai. Cơ bản, các Văn phòng Công chứng hoạt động phù hợp với thực tế và đúng quy định, chưa phát hiện thấy những sai sót lớn trong quá trình soạn thảo và công chứng các hợp đồng, giao dịch. Hồ sơ lưu trữ đầy đủ và thận trọng. Tuy nhiên, một số văn bản công chứng chưa chặt chẽ, vẫn còn sai sót lỗi kỹ thuật. Một số Văn phòng công chứng tuy đã ký hợp đồng lao động với nhân viên, nhưng lại chưa mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc biên lai thuế chưa có xác nhận của cơ quan thuế. Bên cạnh đó, một vấn đề nảy sinh hiện nay là những hợp đồng-giao dịch về nhà đất do các Văn phòng công chứng xác nhận, vẫn không được 1 số đơn vị công nhận tính hợp pháp. Những đơn vị này vẫn yêu cầu người dân phải về chứng thực tại Uỷ ban xã-phường.
Công chứng viên Chu Văn Khanh, Trưởng Văn phòng Công chứng A1, Hà Nội cho biết: "Một số văn bản đã bị một số đơn vị khác có liên quan từ chối, không nêu rõ lý do… Hy vọng thời gian tới đẩy mạnh tuyên truyền, có sự hướng dẫn chung để các đơn vị đó chấp nhận các văn bản công chứng của các VPCC thì người dân sẽ thuận lợi trong các giao dịch của mình”.
Ông Phạm Thanh Cao, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp Hà Nội nói: "Đề nghị UBTP có chỉ đạo với các ngành thực hiện để làm sao đó các ngành nhận thức, đặc biệt cán bộ phải nhận thức nắm chắc Luật CC để thực hiện cái này cho tốt, tránh việc không nghiên cứu Luật Công chứng và nhân viên các ngành khác trả lại văn bản công chứng là sai pháp luật”. Bởi vậy, chương trình tập huấn nghiệp vụ cho các Văn phòng công chứng do Sở Tư pháp Hà Nội tổ chức trong 2 ngày 19-20/9/2009, nhằm bổ trợ kiến thức, kinh nghiệm trong khi chứng thực những giao dịch, thừa kế cho người dân, khắc phục những tồn tại để xã hội hóa hoạt động công chứng đạt được hiệu quả.
3. Trang web SanOTC.com có bài Sàn vàng bị… ngăn sông cấm chợ?. Bài báo phản ánh: Hoạt động kinh doanh vàng không thuộc vào những hàng hoá, dịch vụ bị cấm kinh doanh hoặc hạn chế kinh doanh. Dự thảo Thông tư quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước của Ngân hàng Nhà nước vừa bị "thổi còi" vì vi phạm quyền tự do kinh doanh.
Theo phân tích của ông Nguyễn Am Hiểu, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế (Bộ Tư Pháp) tại Công văn góp ý dự thảo Thông tư quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước, thì việc Ngân hàng Nhà nước hạn chế đối tượng theo hướng chỉ ngân hàng thương mại được phép cung ứng dịch vụ kinh doanh vàng trên tài khoản là vi phạm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp khác không phải là tổ chức tín dụng.
Cơ sở pháp lý của nhận định này, theo ông Hiểu là căn cứ vào những tiêu chí mà các quy định về đối tượng được tham gia vào hoạt động cung ứng dịch vụ kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước phải đảm bảo theo pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, đó là đảm bảo quyền kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (theo quy định tại Điều 7 Luật Doanh nghiệp). Thứ hai, đảm bảo tính ổn định, liên tục của doanh nghiệp kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ mà pháp luật không cấm. Thứ ba là đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi doanh nghiệp được tham gia hoạt động cung ứng dịch vụ kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước theo quy định của pháp luật.
Cho tới thời điểm này, hoạt động kinh doanh vàng nói chung và kinh doanh vàng qua tài khoản nói riêng là những hoạt động không thuộc vào những hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh hoặc hạn chế kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
Luật Các tổ chức tín dụng, trong nội dung về vấn đề kinh doanh vàng, Điều 71 quy định, tổ chức tín dụng được kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. "Việc đặt ra giới hạn chủ thể nào mới được phép cung ứng dịch vụ kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước cần phải phù hợp với quy định pháp luật hiện hành về quyền kinh doanh của doanh nghiệp", ông Hiểu khẳng định và đề nghị, dự thảo Thông tư cần phải sửa lại theo hướng mở rộng hơn nữa các đối tượng được phép thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ này phù hợp với các pháp luật về kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
Liên quan tới tiêu chí thứ hai, dự thảo Thông tư với quy định thu hẹp chủ thể nếu được thực hiện sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các doanh nghiệp không phải là ngân hàng thương mại đã thành lập sàn vàng (trong đó có cả giao dịch vàng vật chất và giao dịch vàng qua tài khoản). Hậu quả pháp lý của quy định này trong trường hợp đó sẽ là sự bất ổn trong hoạt động đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, dự thảo Thông tư cũng bị phát hiện là đi quá phạm vi đặt ra điều kiện kinh doanh. Vì theo Khoản 5, Điều 7 Luật Doanh nghiệp, bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân và UBND các cấp không được quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh.
Cũng phải nhắc lại rằng, ngay sau khi dự thảo Thông tư quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước được Ngân hàng Nhà nước lấy ý kiến rộng rãi, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam cũng đã có đề nghị xem xét lại các nội dung này. Ông Nguyễn Thành Long, Chủ tịch Hiệp hội cho rằng, việc tổ chức, vận hành sàn giao dịch vàng không thể thiếu sự tham gia, liên kết của các doanh nghiệp kinh doanh vàng. "Với sự liên kết này, ngân hàng thương mại có thêm tiềm năng, kinh nghiệm quản lý sàn giao dịch vàng, góp phần tăng thêm khả năng đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, làm cho thị trường vàng phát triển lành mạnh, đảm bảo lợi ích của cá nhân nhà đầu tư cũng như của hệ thống ngân hàng thương mại, doanh nghiệp kinh doanh vàng", ông Long kiến nghị.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Án hành chính: Không ai giám sát việc thi hành. Bài báo phản ánh: Ngày 17-9, Bộ Tư pháp tổ chức hội nghị để khảo sát việc thi hành các bản án, quyết định hành chính của tòa án tại TP.HCM. Tại hội nghị, những khó khăn, vướng mắc trong 13 năm thực hiện Pháp lệnh Thi hành án trong lĩnh vực án hành chính được mang ra mổ xẻ...
Ông Vũ Quốc Doanh, Phó Trưởng Thi hành án dân sự TP, nêu vướng mắc: “Theo quy định, trong án hành chính, cơ quan thi hành án chỉ thi hành các quyết định về tài sản, quyền tài sản trong các bản án, quyết định của tòa án về án hành chính. Còn việc thi hành các phán quyết khác của tòa như thu hồi quyết định, hủy bỏ quyết định sai pháp luật đã bị tòa tuyên hủy... chưa thấy quy định sẽ xử lý như thế nào. Nếu cơ quan bị thua kiện không chịu thi hành phán quyết của tòa về chuyện thu hồi, hủy bỏ quyết định sai thì sao? Chưa thấy có chế tài gì với họ”. Ông Mai Lương Khôi, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, phân tích thêm: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có quy định việc cơ quan cấp trên sẽ theo dõi, kiểm tra cơ quan cấp dưới thực hiện phán quyết của tòa về án hành chính. Tuy nhiên, pháp lệnh chỉ nói chung chung là cơ quan cấp trên chứ không quy định cụ thể là cơ quan nào, đầu mối nào theo dõi thông tin. Vì vậy, chưa biết ai sẽ tổng kết, đánh giá để báo cáo và tham mưu cho cơ quan cấp trên.
Với những vướng mắc trên, ông Khôi đề xuất: Nên giao việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thi hành án hành chính cho Thi hành án dân sự TP làm. Bởi lẽ cơ quan này có vị thế, độc lập và cũng là nơi tham mưu cho UBND TP về thi hành án...
Tuy nhiên, ông Nguyễn Công Hồng, Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự-hành chính (Bộ Tư pháp), thận trọng: Bộ Tư pháp đã khảo sát ở Đà Nẵng, Nghệ An và những nơi này cũng nêu khó khăn, vướng mắc trong việc thi hành án hành chính tương tự TP.HCM. Các nơi đều có chung quan điểm là cần thiết phải giao cho một cơ quan cụ thể làm đầu mối để theo dõi, thống kê quá trình thi hành án hành chính chứ không nên bỏ lửng như hiện nay. Về việc giao cho cơ quan nào làm đầu mối, Bộ sẽ tổng hợp, báo cáo và tham mưu cho trung ương quyết.
5. Trang web Tuanvietnam.net có bài Bộ Tư pháp trả lời Hội đồng Viện nghiên cứu phát triển về Quyết định 97/2009/QĐ-TTg. Bài báo phản ánh: Ngày 24/7/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ (sau đây gọi tắt là Quyết định số 97). Sau khi Quyết định số 97 được ban hành, ngày 6/8/2009, Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển có văn bản kiến nghị gửi Thủ tướng Chính phủ, cho rằng, việc ban hành Quyết định số 97 đã vi phạm trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật và có một số nội dung trái với Hiến pháp và Luật Khoa học và Công nghệ, gây cản trở đến việc thực hiện quyền tự do nghiên cứu khoa học của tổ chức và cá nhân.
Được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp xin trân trọng cảm ơn những ý kiến đóng góp của Hội đồng Viện Nghiên cứu và Phát triển và của cá nhân Giáo sư Hoàng Tụy, và xin trả lời các vấn đề pháp lý đã được nêu trong văn bản của Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển như sau:
1. Về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số 97
Như ý kiến của Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển đã nêu trong văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ, dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ được cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai xây dựng từ đầu năm 2008. Toàn bộ các bước soạn thảo; lấy ý kiến các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, cá nhân; lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp và trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định đã được hoàn tất trong năm 2008 theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002. Những việc được thực hiện trong năm 2009 chỉ là nghiên cứu ý kiến tham gia, cân nhắc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Quyết định để ký ban hành. Ở giai đoạn này, ngay Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 cũng không quy định cơ quan soạn thảo phải đăng tải dự thảo Quyết định trên trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan soạn thảo. Vì vậy, việc xây dựng và ban hành Quyết định số 97 là đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, không vi phạm Điều 67 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
2. Về nội dung của Quyết định số 97
2.1 Về cách thức xác định lĩnh vực cá nhân được phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ.
Theo ý kiến của Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển thì việc Quyết đình số 97 ban hành Danh mục lĩnh vực cá nhân được phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ mà không ban hành Danh mục lĩnh vực cấm là cách làm không đúng, gây khó khăn cho các tổ chức khoa học và các nhà khoa học, trái với Điều 60 của Hiến pháp và Luật Khoa học và Công nghệ. Bộ Tư pháp cho rằng, việc ban hành Danh mục lĩnh vực cá nhân được phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ là phù hợp với quy định của Luật Khoa học và Công nghệ và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật này. Cụ thể, khoản 1 Điều 17 Luật Khoa học và Công nghệ quy định cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ có quyền "thành lập tổ chức khoa học và công nghệ trong một số lĩnh vực theo quy định của Chính phủ" và khoản 2 Điều 11 Nghị định số 81/2002/NĐ-CP ngày 17/10/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ (sau đây gọi tắt là Nghị định số 81) giao "Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xác định những lĩnh vực cụ thể mà các cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định". Đã có hơn 100 tổ chức khoa học và công nghệ do cá nhân thành lập, hoạt động bước đầu có hiệu quả.
Thực tiễn xây dựng pháp luật của nhiều nước cũng như của Việt Nam cho thấy, có nhiều cách thức để xác định lĩnh vực hoạt động mà tổ chức, cá nhân được làm, trong đó cách thức phổ biến là ban hành danh mục cấm hoặc ban hành danh mục được phép. Mỗi một cách thức đều có ưu điểm và nhược điểm nhất định. Việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn cách thức nào là tùy thuộc vào đặc điểm của từng lĩnh vực hoạt động cần điều chỉnh bằng pháp luật, vào trình độ và khả năng quản lý của mỗi nước trong từng thời kỳ nhất định. Ở nước ta, cách thức quy định các lĩnh vực cá nhân được phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ đã được Quốc hội xác định trong Luật Khoa học và Công nghệ, như đã nêu ở trên. Danh mục các lĩnh vực cá nhân được phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ được ban hành kèm theo Quyết định số 97 đã được cân nhắc kỹ, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước hiện nay.
Tuy nhiên, cũng như Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển đã nêu, các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ là rất đa dạng, phong phú và ngày càng phát triển, do đó, khi xem xét ban hành Quyết định số 97, Thủ tướng Chính phủ đã có quy định theo hướng mở, theo đó: "Trong quá trình tổ chức thực hiện, căn cứ tình hình thực tiễn và nhu cầu phát triển của đất nước, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan định kỳ nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ" (Điều 5).
Như đã trình bày ở trên, cách thức quy định Danh mục các lĩnh vực cá nhân được phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ là phù hợp với Nghị định của Chính phủ, Luật của Quốc hội và do đó, cũng phù hợp với quy định của Điều 60 Hiến pháp.
2.2 Về quy định cách thức để cá nhân thành lập tổ chức khoa học và công nghệ công bố ý kiến phản biện của mình về đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển cho rằng, khoản 2 Điều 2 Quyết định số 97 quy định trách nhiệm cá nhân thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thì cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ, là trái với Điều 69 của Hiến pháp.
Điều 69 Hiến pháp quy định như sau: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin... theo quy định của pháp luật". Bộ Tư pháp cho rằng, Quyết định số 97 không trái với Hiến pháp bởi vì Quyết định này chỉ ràng buộc trách nhiệm của cá nhân thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, không ràng buộc trách nhiệm của cá nhân- công dân nghiên cứu khoa học và công nghệ trong việc công bố ý kiến của mình về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các nhà khoa học có quyền công bố công khai kết quả nghiên cứu của mình với tư cách cá nhân theo đúng quy định của pháp luật.
2.3 Quyết định số 97 có nội dung "hồi tố" hay không
Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển cho rằng, Điều 4 của Quyết định số 97 có nội dung hồi tố, gây khó khăn, trở ngại cho tất cả các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ đã được thành lập trước đây. Bộ Tư pháp có ý kiến như sau: Tiếp sau việc ban hành Luật Khoa học và Công nghệ, Nghị định số 81 thì Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ phải được ban hành. Căn cứ vào Danh mục này, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ ban hành Thông tư hướng dẫn về điều kiện và trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho các tổ chức khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực đã được quy định. Tuy nhiên, do việc xây dựng Danh mục là công việc khó khăn, phức tạp, nên Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ không được ban hành kịp thời. Trong hoàn cảnh đó, để bảo đảm quyền của các cá nhân thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư số 10/2005/TT-BKHCN ngày 24/8/2005 hướng dẫn điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ, nhờ đó, trong thời gian qua đã có hơn 100 tổ chức khoa học và công nghệ do cá nhân thành lập, hoạt động bước đầu có hiệu quả.
Đến nay, Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ đã được ban hành. Việc rà soát các tổ chức khoa học và công nghệ được thành lập trước đó cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn là việc làm cần thiết, đúng với nguyên tắc quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, nhằm bảo đảm cho phạm vi hoạt động của các tổ chức này phù hợp với Danh mục đã được ban hành. Vì vậy, Điều 4 của Quyết định số 97 không phải là quy định có hiệu lực trở về trước (hồi tố).
Trên đây là ý kiến của Bộ Tư pháp về các vấn đề pháp lý mà Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển đã nêu trong văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ. Thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp xin trả lời Hội đồng Viện Nghiên cứu Phát triển.
6. Báo Đôthị.net có bài DN địa ốc dễ 'lách luật' quy định. Bài báo phản ánh: Việc quy định, hoạt động góp vốn vào một dự án bất động sản chịu thuế 25% tại Thông tư số 161/2009 của Bộ Tài chính đang làm dấy lên lo ngại, sẽ hợp thức hóa việc “lách luật” của doanh nghiệp.
Cụ thể, Nghị định 181 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai quy định, các doanh nghiệp bất động sản chỉ được quyền bán, chuyển nhượng dự án khi đã hoàn thành xong phần móng. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã “lách luật” bằng hợp đồng góp vốn. Trong khi Thông tư của Bộ Tài chính lại công nhận tính hợp pháp khi quy định: “Cá nhân, tổ chức chuyển nhượng phần vốn góp cho tổ chức, cá nhân khác thì phải nộp Thuế thu nhập cá nhân, đồng thời phải truy nộp đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản khi góp vốn vào doanh nghiệp...”.
Nhiều chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực bất động sản cho rằng, với quy định trên, vô tình Bộ Tài chính đã “hợp thức hóa việc lách luật của doanh nghiệp”. Theo tiến sĩ Đỗ Thị Loan, Tổng thư ký Hiệp hội bất động sản TP HCM, trong khi Chính phủ đưa ra biện pháp hạn chế việc các doanh nghiệp ngành này “tay không bắt giặc” làm cho thị trường bất động sản trong thời gian qua phát triển lệch lạc, thì Bộ Tài chính lại có quyết định đi ngược lại định hướng trên. “Lâu nay không ít doanh nghiệp bán những dự án trên giấy bằng hợp đồng góp vốn. Việc thu thuế như vậy là thừa nhận những sai phạm của doanh nghiệp”, bà Loan bình luận.
Ông Nguyễn Văn Cường, Phó tổng giám đốc Công ty CP đầu tư kinh doanh địa ốc Hưng Thịnh, cũng cho rằng, quy định trên đã tác động rất lớn đến thị trường bất động sản, các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp từ trước đến nay làm theo đúng quy định của Nhà nước, không dám huy động vốn trước khi làm xong hạ tầng, móng. Ông Cường nói: “Công ty chúng tôi đã gửi những kiến nghị của mình đến ngành thuế để làm rõ điều này”. Còn theo ông Trần Tấn Phát, Giám đốc Công ty địa ốc Song Phát, việc hai quy định “đá” nhau đã khiến doanh nghiệp, nhà đầu trong lĩnh vực bất động sản… bối rối.
Theo thông tin của Đất Việt, hiện có nhiều doanh nghiệp khác trên địa bàn TP HCM đã gửi phản hồi tương tự đến ngành thuế để “thắc mắc” về vấn đề này.
Theo đề xuất của tiến sĩ Loan, việc thu thuế 25% là quá lớn, bất hợp lý đối với những khách hàng đến sau, mà nhất là những người mua để ở. Lấy dẫn chứng cụ thể từ dự án Huy Hoàng ở phường Thạnh Mỹ Lợi (quận 2, TP HCM), bà Loan phân tích, nếu như năm 2003, dự án này bán cho người đầu tiên với giá 2,5 triệu đồng một m2, thì đến nay qua nhiều lần sang tay, một miếng đất ở đây giá đã được đẩy lên 30 triệu đồng. Trong khi đó, trên các hợp đồng chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư với nhau, chủ đầu tư vẫn giữ hợp đồng gốc với giá bán chỉ 2,5 triệu đồng một m2 và chỉ ghi thêm một phụ lục hợp đồng chuyển nhượng tên người mua và người bán (giá bán thực tế do người mua và bán tự thỏa thuận). Khi Nghị định 161 có hiệu lực thì người mua và người bán bắt buộc phải minh bạch giá mua - bán với giá hiện tại khoảng 30 triệu đồng một m2 chứ không phải 2,5 triệu đồng như những phụ lục hợp đồng mua bán trước.
“Nếu theo cách tính Thuế thu nhập cá nhân thì người bán sau cùng trong trường hợp này phải nộp thuế là 1,1 tỷ đồng (Thuế thu nhập cá nhân = giá chuyển nhượng (30 triệu đồng một m2) - giá vốn (2,5 triệu đồng) x 25%). Tuy nhiên, thực chất nhà đầu tư này đã mua lại với giá là 27 triệu đồng một m2 chứ không phải mua 2,5 triệu đồng. Do đó, toàn bộ thiệt hại đều đổ lên đầu nhà đầu tư cuối cùng ngay vào lúc quy định trên có hiệu lực, trong khi những người thu lợi trước đã… cao chạy xa bay”, bà Loan phân tích.
Ông Phạm Văn Hải, Tổng giám đốc Công ty địa ốc ACB (ACBR) cho rằng, giá trên hợp đồng góp vốn thì có thể xác định được. Tuy nhiên, khi chuyển nhượng hợp đồng thì giá chuyển nhượng thực tế không thể xác định được. “Khi chuyển nhượng hợp đồng góp vốn, chủ đầu tư hoặc là xé hợp đồng cũ, xác lập lại hợp đồng cho nhà đầu tư mới. Trên thực tế, chủ đầu tư chỉ đứng ra xác nhận giao dịch giữa người mua và người bán bằng một phụ lục hợp đồng, với giá bán đa số là giá gốc ban đầu mà chủ đầu tư đưa ra, còn giá thực tế trên thị trường lúc giao dịch xảy ra là do người mua và người bán tự thỏa thuận với nhau”, ông Hải phân tích.
Chính vì vậy theo ông Hải và tiến sĩ Loan, thay vì Nhà nước thu 25% lợi nhuận chuyển nhượng của hợp đồng góp vốn thì nên thu 2% trên tổng giá trị hợp đồng, như vậy sẽ khả thi hơn. “Nhà nước sẽ khó thu thuế đủ do không thể kiểm soát được giá góp vốn của doanh nghiệp. Muốn thu được thuế, Nhà nước cần ghi nhận lại giá mới hoặc đưa ra khung giá tối thiểu cho từng dự án để làm sao các nhà đầu tư không thể tự kê khai giá mua bán quá rẻ”, ông Hải đề xuất.
7. Trang web cafef.vn có bài Chung cư tư nhân và nỗi lo về pháp lý. Bài báo phản ánh: Thời gian gần đây, mô hình nhà chung cư do người dân đầu tư xây dựng ngày càng phổ biến ở Hà Nội. Đây có thể coi là một phương án giải quyết tạm thời nhu cầu nhà ở cấp bách cho người thu nhập thấp. Nhưng về lâu dài, thực trạng trên có thể phá vỡ quy hoạch dân số, và gây những rắc rối pháp lý cho người mua.
Mọc lên nhan nhản ở khu vực nội thành Hà Nội, loại hình “chung cư tư nhân” hay còn gọi bằng tên khác là “chung cư mini”, đang được nhiều gia đình trẻ săn đón. Một căn hộ chỉ có giá từ 500 - 800 triệu đồng/căn, nhưng khi chuyển nhượng lại, chủ nhà vẫn có thể lãi được 200 triệu đồng/căn. Theo chân Nam, một “cò đất” ở đường Xuân Thuỷ, phóng viên đã tìm được một “chung cư tư nhân” nằm sâu trong ngõ của đường Nguyễn Phong Sắc, Q.Cầu Giấy. Chỉ có một ngách rộng 1,3m làm lối đi chung, toà nhà xây trên diện tích khoảng 120m2, với 6 tầng, chia làm 24 căn hộ cùng công trình phụ khép kín. Diện tích mỗi phòng là 30m2, với giá bán khởi điểm 420 triệu đồng/căn.
Ông Trần Văn Hưng, chủ nhà số 101 nói: “Tôi thấy mua nhà này với số tiền như vậy cũng khá rẻ đấy chứ, ở đây lại rất thuận tiện do gần trung tâm. Anh bảo bây giờ cầm vài trăm triệu còn có thể mua được chỗ nào khác trong TP?”. Giá mua thì khá hấp dẫn, có điều hiện nay các phòng này vẫn chưa được cấp sổ hồng, nên giấy tờ mua bán chỉ là hợp đồng viết tay (!). Còn đến bao giờ mới được cấp sổ, thì các chủ hộ đều nói lại nguyên văn của chủ đầu tư là “sắp có rồi, đang hoàn thành thủ tục”.
Mặc dù đóng vai trò môi giới và thu 1% hoa hồng, nhưng chính các Cty nhà đất cũng khuyên khách hàng không nên đầu tư lâu dài với loại nhà này. Bà Phạm Thị Huyền, chuyên gia của Cty Tư vấn Thương mại & Đầu tư Tài chính Thăng Long cho biết, hình thức mua bán loại nhà này chỉ là thoả thuận riêng với nhau, giữa chủ đầu tư và người mua nhà. Việc xin cấp sổ là rất khó, nếu sau này có xảy ra tranh chấp hay sự cố thì khách hàng sẽ là đối tượng chịu rủi ro.
Theo quy định của Luật Đất đai thì nhà chung cư phải đảm bảo mỗi phòng có diện tích từ 45m2 trở lên. Nhưng do đất chật, lại muốn xây được nhiều phòng để thu lợi nên các nhà đầu tư đã tận dụng triệt để mọi ngóc ngách. Dẫn đến tình trạng nhiều căn hộ chỉ rộng được 40m2 với diện tích chung rất hạn hẹp.
Để đối phó với quy định này, hầu hết các chủ đầu tư đều ghi trên giấy phép xây dựng với mục đích là để gia đình ở. Nhưng sau khi hoàn thiện, các căn phòng được bán trao tay ngay cho người cần mua. Trong quá trình thi công cũng không được bộ phận đủ thẩm quyền nào đứng ra giám sát, quản lý về chất lượng công trình theo quy định của loại nhà chung cư. Có thể nói, đây chính là một cách “lách luật” tinh của chủ đầu tư.
Chưa có chế tài kiểm soát, các “chung cư tư nhân” cứ tự do mọc lên, đồng nghĩa với sự quá tải của dân số trên m2 cơ sở hạ tầng. Không những gây mất mỹ quan đô thị, nhiều căn hộ hiện nay trên địa bàn Q.Tây Hồ, Q.Cầu Giấy, còn thiếu trang bị hệ thống bình cứu hoả. Giả dụ nếu có hoả hoạn xảy ra, có lẽ cách tháo thân duy nhất của các gia đình là đồng loạt chạy xuống bằng lối cầu thang chỉ rộng hơn 1m.
Trao đổi về vấn đề này, ông Lê Danh Cường, Trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường UBND Q.Cầu Giấy khẳng định: Hiện nay chúng tôi chưa cấp sổ cho trường hợp nào cả. Nếu là xây nhà với mục đích thương mại như trên thì phải có đăng ký kinh doanh, đảm bảo kết cấu, tiêu chuẩn, mật độ chiều cao… Nói chung cho đến tận bây giờ chúng tôi vẫn chưa nhận được văn bản hướng dẫn của TP về loại hình nhà ở này.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 21/9/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm