Trong buổi sáng ngày 07/12/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 6-12, tại TP Buôn Ma Thuột (Dăk Lăk) đã diễn ra lễ khai mạc Diễn đàn Thanh niên khu vực Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam. Đại diện thanh niên mười tỉnh trong khu vực giáp biên giới gồm: Ratanakiri, Stung Treng, Mondulkiri (miền Đông Campuchia), Attapư, Salavan, Xê Kông (miền Nam Lào), Kon Tum, Gia Lai, Dăk Lăk, Dăk Nông (Tây Nguyên, Việt Nam) về dự.
Diễn đàn sẽ thảo luận vai trò của thanh niên ba nước trong khu vực tam giác phát triển, quan hệ hữu nghị, hợp tác khu vực tam giác... Diễn đàn cũng là nơi giao lưu, chia sẻ, hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, giới thiệu các mô hình thanh niên làm kinh tế; hoạt động tình nguyện, kinh nghiệm đoàn kết, tập hợp thanh niên... Ngày 8-12 sẽ bế mạc.
Báo cũng phản ánh:Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu năm đến nay có trên 76.500 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Với tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp hiện tại, đến 2010 Việt Nam sẽ có khoảng 540.000 doanh nghiệp, vượt 8% so với kế hoạch đề ra. Trong đó, số doanh nghiệp dân doanh đăng ký thành lập mới không ngừng tăng cao, từ năm 2006 đến 2010 ước đạt hơn 330.000 doanh nghiệp, tăng gấp đôi so với năm năm trước đó.
Tuy nhiên, bên cạnh số lượng phát triển mạnh thì một loạt hạn chế làm cho nhiều doanh nghiệp dân doanh còn nhiều bất ổn như quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, khả năng tích tụ vốn và huy động vốn thấp, trình độ và kỹ năng quản lý yếu, không thu hút được lao động có tay nghề cao.
2. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam phản ánh: Con số 8 tỷ mà các nhà tài trợ cam kết tài trợ cho Việt Nam khẳng định niềm tin của cộng đồng quốc tế vào triển vọng kinh tế của nước ta. Song, sử dụng vốn vay thế nào cho có hiệu quả, để nợ nước ngoài không trở thành gánh nặng cho tương lai là vấn đề cần quan tâm.
Đến cuối năm 2008 tổng nợ nước ngoài của Việt Nam là khoảng 22 tỷ USD. Nếu tính cả vốn cam kết tài trợ năm 2009 và số vốn cam kết của các nhà tài trợ cho năm 2010 (với điều kiện lý tưởng là nguồn vốn này sẽ được giải ngân hết, đúng hạn) thì nợ nước ngoài của nước ta có thể lên đến xấp xỉ 34 tỷ USD. Với tỷ giá là 18.500 VND/USD, chúng ta sẽ gánh một khoản nợ là gần 630.000 tỷ đồng. Tuy chưa có một thống kê chính xác và cập nhật về nợ công (bao gồm cả nợ Chính phủ khi đi vay nước ngoài và phát hành trái phiếu trong nước) nhưng trong một báo cáo gần đây của Ủy ban kinh tế Quốc hội đã nhấn mạnh: Nợ Chính phủ liên tục tăng cao, nợ năm 2008 chiếm 36,5% GDP, năm 2009 là khoảng 40% GDP và năm 2010 là khoảng 44% GDP. Như vậy cũng có nghĩa trong mỗi đồng làm ra một năm đã có non nửa là tiền vay nợ.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA (viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất rất ưu đãi) cũng như nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ đã và đang đóng vai trò then chốt trong công cuộc hiện đại hóa của Việt Nam. Nếu thiếu nguồn lực này, Việt Nam không thể có hệ thống hạ tầng như hiện nay và cũng khó mà đạt được những thành tựu ấn tượng về xóa đói, giảm nghèo và năng lực hội nhập đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Số vốn cam kết năm sau cao hơn năm trước cũng chứng tỏ chuyển động tích cực của Việt Nam trong quá trình đối thoại với các nhà tài trợ, điều chỉnh chính sách, thúc đẩy cải cách để ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực chung của thế giới. Chỉ khi dành được sự đồng cảm và cơ bản thỏa mãn được yêu cầu của các nhà tài trợ, những nguồn tài chính lớn như vậy mới chảy vào. Như Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần nhấn mạnh: Đồng vốn của các nhà tài trợ quốc tế đang được trao vào những bàn tay tin cậy và được quản lý sử dụng một cách có trách nhiệm.
Tuy vậy, một khi đã đi vay thì phải trả nợ, và tiền vay nếu không được sử dụng hiệu quả hoặc bị xà xẻo do tham nhũng, tiêu cực thì gánh nặng nợ nần sẽ làm oằn lưng thế hệ tương lai. Tuy chưa có những đánh giá thật cụ thể, chi tiết về tình hình sử dụng vốn ODA nói riêng và đầu tư công nói chung nhưng một số sự kiện gần đây khiến dư luận xã hội không khỏi lo ngại. Mới nhất là vụ bắt giữ một cựu chỉ huy trưởng công trình công trình xây đường đường Hồ Chí Minh về tội tham nhũng. Theo cơ quan công an, chỉ trong vòng 5 năm (từ 2001-2004) ông này đã dùng mọi thủ đoạn để tham ô gần 10 tỷ đồng. Trước đó, hai vụ án nổi tiếng là vụ PMU 18 liên quan đến ông Bùi Tiến Dũng và vụ Dự án đại lộ Đông Tây (TP.HCM) liên quan đến ông Huỳnh Ngọc Sĩ có thể nói là chưa kết thúc khi mà những nghi vấn về tham nhũng, hối lộ vẫn chưa được trả lời rốt ráo. Nên nhớ, những vụ việc này mới là trong lĩnh vực giao thông-vận tải.
Một biểu hiện đáng lo nữa là hệ số ICOR (thước đo về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) nói chung của nền kinh tế Việt Nam đã cao đến mức báo động, đến năm nay hệ số này đã lên đến 8, cao hơn 2,5 lần so với mức lý tưởng mà một số định chế tài chính quốc tế khuyến nghị. Đáng chú ý trong lĩnh vực chi tiêu công, hệ số ICOR là 12.
Năm ngoái, tổng mức trả nợ của Chính phủ đã là hơn 1,1 tỷ USD. Con số này sẽ còn tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Mặc dù đến nay, nợ nước ngoài vẫn ở mức an toàn nhưng cần phải làm cho xã hội thấm thía rằng, chúng ta sẽ phải trả nợ để có được tăng trưởng và thịnh vượng.
Trong khuôn khổ Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ quốc tế vừa rồi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh: Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực chống tham nhũng, coi đó như một trong những công việc khẩn cấp của Chính phủ; tăng cường dân chủ và cởi mở xã hội; đồng thời đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô theo hướng tăng trưởng bền vững.
Ngoài tăng cường hiệu lực quản lý, sử dụng vốn ODA của các cơ quan Nhà nước thì việc minh bạch hóa, có cơ chế cụ thể để nhân dân và xã hội giám sát được các công trình sử dụng vốn ODA, chính là biện pháp giúp nguồn vốn này được sử dụng hợp lý và hiệu quả nhất. Làm cho mỗi đồng vốn vay trở thành một viên gạch kiến thiết tương lai chứ không phải là gánh nặng cho hậu thế, do vậy, không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là của toàn xã hội.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo An ninh Thủ đô có bài "Ngành kiểm sát và đôi điều rút ra từ 388". Bài báo phản ánh: Sau hơn 5 năm thực hiện, Nghị quyết 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc đảm bảo chất lượng hoạt động của cơ quan tố tụng mà còn góp phần quan trọng trong quá trình cải cách Tư pháp, đặc biệt là trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bồi thường. Những tổng kết thực tiễn trong thi hành Nghị quyết 388 của ngành Kiểm sát nói riêng và của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung những năm qua đã giúp cho các cơ quan Tư pháp và Quốc hội trong quá trình soạn thảo cũng như thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2010 tới đây.
Theo ông Mai Anh Thông - Phó vụ trưởng Vụ Kiểm sát Điều tra án Kinh tế và chức vụ (đơn vị được VKSNDTC giao trách nhiệm xây dựng báo cáo chuyên đề thực hiện Nghị quyết 388), những vướng mắc này là do các quy định của Nghị quyết có những điểm không cụ thể và giữa quy định của Nghị quyết với các quy định của tố tụng đang có những nhận thức khác nhau. Dễ thấy nhất là trong Nghị quyết có quy định về việc những người được bồi thường trong trường hợp bị tạm giam, bị khởi tố, bị truy tố xét xử nhưng họ không thực hiện hành vi phạm tội; thế nhưng Luật tố tụng lại không có khái niệm này, mà chỉ quy định các trường hợp được đình chỉ điều tra hoặc được tòa án tuyên không tội.
Trường hợp tòa tuyên không tội thì dễ có căn cứ để áp dụng, nhưng trong trường hợp đình chỉ điều tra thì rất phức tạp vì Bộ luật Tố tụng quy định có tới 12 trường hợp đình chỉ điều tra nên việc xác định đình chỉ điều tra nào được coi là bị oan và phải bồi thường không phải là đơn giản. Mặt khác, trường hợp người có quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định là họ không thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không thực hiện hành vi phạm tội ở trường hợp nào thì Bộ luật Tố tụng hình sự lại không có những căn cứ này. Cũng theo ông Thông, còn có những trường hợp trách nhiệm của người thi hành pháp luật trước những vụ, việc bị oan chưa thực sự có thái độ thành tâm. Những trường hợp này, VKSNDTC cũng đang tiến hành giải quyết.
Bên cạnh đó, còn một số vấn đề khó khăn vướng mắc khác dẫn đến một số trường hợp người bị oan khiếu kiện kéo dài hoặc khiếu kiện vượt cấp đó là việc yêu cầu bồi thường những khoản thiệt hại mà không do hoạt động tố tụng gây ra. Ví dụ như có những trường hợp bị oan xảy ra từ những năm trước đây, do sự thay đổi về thời gian, nên việc xác định mức độ, tính chất thiệt hại để bồi thường cho thỏa đáng thực sự là một vấn đề khó khăn. Hay các trường hợp bị ngân hàng phát mại các tài sản theo các hợp đồng dân sự, khi được minh oan, những người này yêu cầu phải được bồi thường các khoản thiệt hại đó; hoặc yêu cầu bồi thường các khoản chi phí cho luật sư trong quá trình tranh tụng.
Đối với các vụ, việc này, mặc dù có những điểm người bị oan có nhiều thiệt thòi trong quá trình thương lượng, nhưng trong Nghị quyết lại không quy định việc bồi thường. Một vấn đề nữa đó là việc xác định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong quá trình làm oan. Trong việc điều tra, truy tố, xét xử đều có trách nhiệm của các cơ quan chức năng, thế nhưng ai là người đại diện cho tất cả các cơ quan đó bồi thường, rồi bồi thường cái gì và bồi thường bao nhiêu thì cũng còn có những vướng mắc.
Theo tổng kết của ngành Kiểm sát, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết 388, tình trạng oan trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đã được giảm đến mức tối thiểu. Tuy nhiên, trong thời gian tới đây khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực và đi vào thực tiễn thay thế cho Nghị quyết 388, ông Mai Anh Thông cho rằng, điều lớn nhất mà ngành Kiểm sát cũng như các cơ quan Tư pháp mong muốn là các Ủy ban của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần có sự giải thích và hướng dẫn rõ, đặc biệt là về điều luật quy định các trường hợp được bồi thường trong lĩnh vực tố tụng. Mặc dù về cơ bản Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước tiếp thu tinh thần của Nghị quyết 388 để triển khai luật, trong đó có làm rõ hơn một số vấn đề vướng mắc, song cũng cần tiếp tục phải có sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền để có sự nhất quán hơn về mặt nhận thức và làm sao người được bồi thường, người bị oan khi nhìn vào quy định đó, có thể thấy họ ở trong đó, chứ không chờ sự giải thích nào khác của cơ quan pháp luật.
Tính đến hết tháng 10-2009, ngành Kiểm sát đã tổ chức tiếp nhận và bồi thường được 147 trường hợp với tổng số tiền bồi thường là 8,9 tỷ đồng. Trong số này có 42 trường hợp quá trình thương lượng, bồi thường thiệt hại về vật chất không thành, người được bồi thường đã khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự ra tòa án. Ngoài ra, hiện nay toàn ngành Kiểm sát còn có 18 trường hợp (hầu hết là ở Viện kiểm sát cấp huyện và cấp tỉnh) đã có đơn yêu cầu đòi bồi thường và đang trong quá trình xem xét giải quyết; trong đó có 3 trường hợp đang tiến hành thương lượng, bồi thường thiệt hại về vật chất, 4 trường hợp đã thương lượng một số lần nhưng chưa đi đến kết quả cuối cùng, và 11 trường hợp khác đang chờ hướng dẫn từ VKSNDTC. Trong số này, có những trường hợp đang gặp phải các vấn đề vướng mắc, nhất là vướng mắc giữa cơ quan Viện kiểm sát các cấp với các quy định của Nghị quyết 388.
2. Báo điện tử Dân trí có bài Quảng Trị: Đề nghị xử lý luật sư “xui” bị cáo khai gian dối. Bài báo phản ánh: VKSND huyện Cam Lộ vừa có công văn kiến nghị Giám đốc Sở tư pháp tỉnh Quảng Trị xem xét, có hình thức xử lý luật sư Võ Đình Minh - Giám đốc Công ty luật hợp danh cộng đồng vì đã “xui” bị cáo khai gian dối.
Liên quan tới vụ án “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Đào Tâm Sự đã thừa nhận kết quả điều tra của CQĐT Công an huyện Cam Lộ nhưng khi vụ án được đem ra xét xử thì bị cáo đã phản cung thay đổi hoàn toàn lời khai trước đó. Theo hồ sơ vụ án: Ngày 23/1/2009, ông Sự đến thôn Tân Chính (xã Cam Chính, huyện Cam Lộ) để tìm trâu bị lạc thì phát hiện một con trâu giống trâu nhà mình nên nảy sinh ý muốn chiếm đoạt. Dù biết không phải trâu của mình nhưng ông Sự vẫn nói dối với mọi người là trâu mình để bắt về. Ngày 24/1, ông Nguyễn Võ Phát chủ sở hữu con trâu nói trên phát hiện trâu của mình tại nhà ông Sự nên đã báo cơ quan chức năng.
Trước cơ quan điều tra, Đào Tâm Sự đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Đến ngày 9/4/2009 Viện KSND huyện Cam Lộ đã ra quyết định truy tố bị can Sự về tội “Trộm cắp tài sản”. Nhưng do quan điểm chưa thống nhất giữa VKS và tòa nên khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thư ký tòa đã gợi ý cho bị cáo Sự thuê luật sự bào chữa. Bị cáo Sự đã có đơn gửi Đoàn luật sư tỉnh Quảng Trị và Công ty Luật hợp danh cộng đồng. Sau đó Luật sư Võ Đình Minh - Giám đốc Công ty được cử tham gia tố tụng là người bào chữa cho bị cáo.
Tại phiên toà sơ thẩm ngày 27/5, bị cáo Sự đã phản cung cho rằng việc khai báo trước đây tại cơ quan điều tra là do bản thân bị bị ép cung. Do đó, HĐXX quyết định trả lại toàn bộ hồ sơ và yêu cầu điều tra bổ sung. Tại biên bản hỏi cung ngày 12/6 bị cáo Sự khai: “Trước giờ khai tòa, luật sư Minh có đưa cho bị cáo một tờ giấy loại A4 có ghi nội dung cho bị cáo khai: tại thời điểm xác định không phải trâu của bị cáo là sau khi đã dắt trâu về đến nhà chứ không phải là tại hiện trường vụ án như đã khai trước đây”.
Đến ngày 14/8, phiên tòa được mở lại với sự có mặt của các thành viên tham gia tố tụng, trừ luật sư Minh. Khi được hỏi có cần luật sư bào chữa hay không bị cáo Sự đã đề nghị HĐXX tiến hành xét xử vụ án bình thường và tòa đã tuyên bị cáo Sự phạm tội “Trộm cắp tài sản”, hiện án đã có hiệu lực. Một vụ án ít nghiêm trọng chỉ mất 33 ngày CQĐT đã hoàn tất hồ sơ nhưng phải kéo dài hơn 4 tháng mới đưa ra xét xử vì luật sư Minh đã xúi giục bị cáo thay đổi lời khai một cách gian dối, ảnh hưởng đến công tác điều tra, truy tố và xét xử. Theo VKSND huyện Cam Lộ, việc làm của luật sư Minh đã vi phạm điểm b, khoản 3, Điều 58 Bộ Luật tố tụng hình sự.
3. Báo Lao động có bài Tiếp vụ "Thi hành án tiền hậu bất nhất" ở Quảng Trị: Cán bộ toà án xin nguyên đơn 3 chiếc điện thoại. Bài báo phản ánh: Báo Lao Động ra ngày 28.11.2009 đăng bài "Thi hành án dân sự ở Quảng Trị: Tiền hậu bất nhất". Ngày 2.12, nguyên đơn Nguyễn Thị Kim Hiệp tiếp tục ký tên chịu trách nhiệm tường trình những việc làm không phù hợp pháp luật của một số cán bộ chức năng thuộc cơ quan công quyền địa phương. Cùng trong vụ việc, một đương sự khác - bà Nguyễn Thị Phương Hoa, người mua nhà của bị đơn - đã khởi kiện TAND TP.Đông Hà lên toà cấp trên. Tiếp tục yêu cầu cơ quan công quyền làm rõ việc Phòng Công chứng - Sở Tư pháp Quảng Trị (QT) thực hiện công chứng cho vụ chuyển nhượng nhà đất giữa bà Trần Thị Bích Yến (bị đơn trong vụ kiện đòi nợ của nguyên đơn Nguyễn Thị Kim Hiệp) với bà Nguyễn Thị Phương Hoa - chủ DN xây dựng, nguyên đơn Hiệp đã cung cấp thêm nhiều chứng cứ cho thấy Phòng Công chứng đã có thông tin về vụ tẩu tán tài sản, nhưng vẫn tiến hành công chứng.
Ngày 14.9.2009, nhân viên ở Ngân hàng NNPTNT - chi nhánh QT đã báo cho nguyên đơn Hiệp biết là bà Yến đã rút sổ đỏ thế chấp ở Ngân hàng NNPTNT. Sáng 15.9, nguyên đơn Hiệp nộp tờ trình cho cơ quan chức năng đề nghị ngăn chặn việc chuyển nhượng tài sản. Chỉ riêng cơ quan công chứng không nhận đơn, nhưng công chứng viên Lê Văn Diếm bảo nguyên đơn Hiệp để lại số điện thoại, khi nào bà Yến đến làm hợp đồng chuyển nhượng thì sẽ báo tin. Việc này có chị Nguyễn Thị Kim Loan - trú tại 50 Nguyễn Trãi, TP.Đông Hà, là người đi cùng làm chứng. Đồng thời, ngay tại đó, chị Loan cũng điện thoại cho ông Hoàng Kỳ - Phó Giám đốc Sở Tư pháp - để nhờ giúp đỡ. Ông Kỳ hướng dẫn là không cần nộp đơn ở công chứng, mà về chặn ở "một cửa" (nơi cấp sổ đỏ) là được rồi.
Ngay trong ngày 15.9, một mặt nguyên đơn đến toà án TP gửi đơn, mặt khác cử người chờ ở Phòng Công chứng canh chừng vụ chuyển nhượng. Tại đây, ông Trần Văn Khôi (trước làm cán bộ tư pháp phường 1) được công chứng viên Diếm nói rằng bà Yến đi mua đất, chứ không bán nhà. Thế nhưng, ngày 17.9.2009, nguyên đơn Hiệp nhận được thông báo của cơ quan cấp sổ đỏ TP.Đông Hà là bà Yến đã nộp hồ sơ chuyển nhượng nhà đất tại đó. Hồ sơ chuyển nhượng được lập chiều 15.9.2009 do công chứng viên Lê Văn Diếm ký.
Liên quan đến vụ thi hành án kỳ khôi này, đương sự Nguyễn Thị Phương Hoa - GĐ Cty TNHH Thái Sơn (TP.Đông Hà) cho biết: Để mua ngôi nhà của bà Yến với giá 1,3 tỉ đồng, bà đã vay tiền của Ngân hàng ĐT&PT - chi nhánh QT để nộp vào trả nợ cho Ngân hàng NNPTNT mới lấy được sổ đỏ do bà Yến thế chấp mất khả năng trả nợ ở đó. Thế nhưng, từ đó đến nay, hơn 3 tháng trôi qua, việc sang tên sổ đỏ vẫn chưa hoàn thành. Nguyên nhân là do thẩm phán Lê Hoài Thuỷ (TAND TP.Đông Hà) ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật. "Tôi đã thiệt hại rất nhiều tiền lãi vay. Tôi đã nộp đơn khởi kiện thẩm phán này tại TAND tỉnh QT" - bà Yến nói.
Về vụ kiện này, ngày 27.11.2009, TAND tỉnh đã có công văn số 35 nêu rõ: Bà Nguyễn Thị Phương Hoa khởi kiện thẩm phán Lê Hoài Thuỷ phải bồi thường 56.463.000 đồng, TAND tỉnh nhận thấy vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND TP.Đông Hà nên chuyển về đó giải quyết. Cũng về thẩm phán Thuỷ, tường trình gửi Bí thư Tỉnh uỷ đề ngày 2.12.2009 của nguyên đơn Hiệp viết: "Ngày 18.9, khi nguyên đơn cầm đơn lên TAND TP.Đông Hà để yêu cầu toà ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thẩm phán Thuỷ nói: "Việc của tôi nhiều lắm, phải từ từ thôi", rồi cầm máy điện thoại di động cột bằng dây caosu lên gọi; bà Thuỷ nói: "Máy hư rồi mà không có tiền để mua".
Tối 18.9, tôi cầm 2 chiếc máy điện thoại di động loại 4,5 triệu đồng và 9 triệu đồng đến nhà bà Thuỷ và nói chị thích cái nào thì lấy đi, bà Thuỷ chọn cái 9 triệu đồng. Sáng ngày 21.9, tôi nhận được QĐ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ngay sau đó, bà Thuỷ điện thoại cho tôi nói: "Muốn đổi cho sếp Tính (Chánh án TAND TP.Đông Hà) một cái", tôi trả lời: "Nói Khánh (thư ký toà) về quầy tôi lấy". Thư ký Khánh đến quầy điện thoại tại số 10 Hùng Vương chọn lấy chiếc máy di động Nokia loại 6 triệu đồng. Ngày 22.9, thẩm phán Thuỷ lại điện cho tôi nói: "Có cái nào đổi cho Khánh một cái", tôi nói: "Nói Khánh về lấy". Một lát sau, thư ký Khánh về quầy điện thoại và chọn lấy một chiếc giống như máy hôm Khánh chọn cho chánh toà.
4. Báo Tiền phong có bài Án bất khả thi. Bài báo phản ánh: Có những bản án khi đem ra thi hành, cả cơ quan thi hành án và đương sự kêu trời vì không biết thi hành ra sao. Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng chưa có quy định trình tự, thủ tục giải quyết loại án bất khả thi. Vụ án nói đến trong bài này được TAND quận 10, TPHCM xử sơ thẩm ngày 10-6-1998, TAND TPHCM xử phúc thẩm ngày 24-6-1999. Đây là án tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Bên nguyên là bà Bùi Thị Thu Hồng, trú tại TPHCM. Bên bị là ông Nguyễn Văn Kim, Giám đốc Cty TNHH Lâm Sơn Thiện, trụ sở cũng tại TPHCM. Một số cá nhân và pháp nhân là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trong đó có Cty TNHH Thương mại Diên Hồng (Cty Diên Hồng) do ông Bùi Thanh Trúc làm giám đốc, trụ sở đặt tại 214 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 6, quận 3, TPHCM. Bài viết này không đi sâu vào nội dung phán quyết của các cấp tòa, chỉ bàn đến phần hình thức các bản án đã tuyên.
Tại bản án sơ thẩm, TAND quận 10 xác định người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Cty Diên Hồng, nhưng ghi sai địa chỉ Cty này là số 44 (lý ra là số 214) Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Sai lầm này không được đính chính. Lên cấp phúc thẩm, TAND TPHCM thêm một nhầm lẫn nữa, gọi sai tên Cty Diên Hồng thành Cty Đức Hồng(!). Cấp tòa này gửi giấy triệu tập đến Cty Đức Hồng tại 44 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, đương nhiên không có người nhận. Phiên tòa phúc thẩm vắng ông Nguyễn Văn Kim (đang bị giam do liên quan một vụ án hình sự), vắng nốt ông Bùi Thanh Trúc, “không chịu đến tòa, mặc dù đã tống đạt giấy triệu tập nhiều lần”.
Điều lạ lùng, tòa phúc thẩm thay đổi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Lý ra phải là Cty Diên Hồng (pháp nhân) như tòa sơ thẩm nhận định, tòa phúc thẩm bất ngờ chuyển thành ông Bùi Thanh Trúc (cá nhân). Đọc kỹ bản án phúc thẩm do thẩm phán chủ tọa phiên tòa Lê Xuân Hà thay mặt HĐXX ký, không ai tìm thấy một dòng một chữ nào giải thích vì sao lại phải thay đổi như vậy. Án phúc thẩm tuyên: “Buộc ông Trúc và ông Kim phải trả cho bà Hồng số tiền nợ vốn và lãi là 4.608.200.000đ”. Sau khi án tuyên, ông Trúc cũng như Cty Diên Hồng không nhận được bản án, có lẽ cũng do nó được gửi về 44 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, người nhận là Cty Đức Hồng(!).
Khi nhận Quyết định thi hành án (cơ quan thi hành án dân sự gửi theo địa chỉ nhà riêng), ông Trúc đã làm đơn khiếu nại, đề nghị được xem xét lại bản án phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm, nhưng ông không nhận được hồi âm từ các cấp có thẩm quyền. Bẵng đi 10 năm. Mới đây, ông Trúc lại nhận được Quyết định thi hành án. Lần này, ông làm đơn khiếu nại, xin được xem xét lại vụ án theo trình tự tái thẩm. Ông Trúc khẳng định ông không phải Bùi Thanh Trúc giám đốc Cty Đức Hồng thường trú tại 44 Nam Kỳ Khởi Nghĩa như bản án phúc thẩm ghi, vì vậy ông có quyền từ chối thi hành bản án này. Hơn nữa, giả sử ông muốn thi hành, thì cũng không biết phải trả bà Hồng bao nhiêu, bởi án tuyên ông Trúc và ông Kim cùng phải trả hơn 4,6 tỷ đồng cho bà Hồng, nhưng không cá thể hóa ông Trúc bao nhiêu, ông Kim bao nhiêu.
Đơn của ông Trúc còn khiếu nại nội dung bản án, khẳng định cá nhân ông không liên quan việc vay mượn giữa ông Kim và bà Hồng; chỉ Cty Diên Hồng mới liên quan đến một văn bản bảo lãnh, nhưng Cty này đã thực hiện xong nghĩa vụ của người bảo lãnh. Bài viết này không đi sâu vào nội dung vụ án; điều đáng nói là ông Trúc khiếu nại HĐXX phiên tòa phúc thẩm không phải vô tình, mà là cố ý chuyển người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan từ Cty Diên Hồng sang cá nhân ông, từ đó mới có thể mập mờ cột trách nhiệm cá nhân của ông với trách nhiệm của ông Kim, trong việc vay nợ bà Hồng. Hiện tại thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm bản án đã hết, còn để kháng nghị tái thẩm, người ta phải tìm ra được “tình tiết mới”. Việc bản án không khả thi liệu có là “tình tiết mới” để kháng nghị tái thẩm?
5. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Người dân kiến nghị tạm ngưng thi hành án. Bài báo phản ánh: Hơn 40 người dân xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đồng kiến nghị tạm ngưng thi hành bản án, buộc bà Nguyễn Thị Nghiêm (SN 1945, ngụ ấp 5, Tân Thạch) tháo dỡ căn nhà đã cất gần 20 năm để trả đất cho ông Văn Công Hùng. Việc người dân địa phương kiến nghị tạm ngưng thi hành án là điều hiếm xảy ra.
Như Báo CATP đã phản ánh, ông Văn Đại Mai (ngụ ấp 6 Tân Thạch, Châu Thành) làm giấy chuyển nhượng hoa màu vuông đất vườn cho cháu là Trần Hữu Nghĩa (SN 1943, ngụ cùng xã, mất năm 1999) với giá 2,4 chỉ vàng 24K từ tháng 1-1991. Được UBND huyện Châu Thành duyệt cho sử dụng 130m2 đất sang nhượng của ông Mai, gia đình ông Nghĩa đã cất nhà, kê khai, nộp thuế... Rắc rối phát sinh khi 130m2 đất này nằm trong phần đất 1.200m2 đã được UBND huyện Châu Thành cấp giấy chủ quyền cho con ông Mai là Văn Công Hùng.
Phát sinh tranh chấp, ông Mai làm đơn yêu cầu thu hồi giấy chủ quyền đã cấp cho ông Hùng chuyển sang cấp cho ông. Lý do: ông Hùng làm thủ tục đứng tên mà không có sự đồng ý của ông Mai. Sau khi được cấp sổ đỏ, ông Mai sẽ tách bộ giao đất cho vợ ông Nghĩa là bà Nguyễn Thị Nghiêm. Ngày 18-1-2002 Chủ tịch UBND huyện Châu Thành Nguyễn Văn Thành ký quyết định (QĐ) 315/QĐ-UB, thu hồi giấy chủ quyền đã cấp cho ông Hùng để cấp lại cho ông Mai; ông Mai phải làm thủ tục sang nhượng đất cho bà Nghiêm. Thật lạ, QĐ 315/QĐ-UB đúng quy định pháp luật vừa ban hành lại bị thu hồi bằng một QĐ cũng do chính ông Nguyễn Văn Thành ký! Trong khi đó, hai vấn đề mấu chốt là vì sao ông Hùng được cấp giấy chủ quyền 1.200m2 đất và khiếu nại của ông Mai lại không được làm rõ. Ông Hùng làm đơn khởi kiện đề ngày 27-7-2004, buộc ông Trần Hữu Nghĩa (qua đời đã hơn 5 năm) trả lại phần đất “lấn chiếm”. Ông Hùng đồng ý hoàn trả 2,5 chỉ vàng (?). Sau gần bốn năm vụ án bị tạm đình chỉ, ngày 24-1-2008, ông Hùng tiếp tục làm đơn kiện.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 27-6-2008, HĐXX TAND huyện Châu Thành do thẩm phán Trương Thị Tiến làm chủ tọa, tuyên buộc bà Nghiêm tháo dỡ nhà, trả lại đất cho ông Hùng. Ông Hùng hoàn trả cho bà Nghiêm 162,5 triệu đồng, Về án phí, ông Hùng, bà Nghiêm mỗi người đóng 7,5 triệu đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 17-9-2008, TAND tỉnh Bến Tre với HĐXX gồm ba thẩm phán Đào Thị Nam (chủ tọa), Nguyễn Văn Thành và Phạm Văn Tỉnh biến vụ tranh chấp thành “đòi” lại quyền sử dụng đất, tuyên buộc bà Nghiêm tháo dỡ nhà, trả đất cho ông Hùng. Về án phí 15 triệu đồng, tòa buộc bà Nghiêm “ôm trọn”! Trong khi đó, tòa lại “ưu ái” cho ông Hùng đến mức lạ kỳ, được lấy đất nhưng không phải trả đồng nào cho bà Nghiêm. Cả 2,5 chỉ vàng mà ông Hùng tự nguyện trả cho bà Nghiêm cũng bị tòa “quên” mất! Do được tòa “thương”, xử thắng tuyệt đối nên ông Hùng không phải nộp một đồng án phí.
Gia đình bà Nghiêm liên tục kêu oan. Trình bày trong đơn gởi các cơ quan chức năng cũng như trao đổi với phóng viên, bà Nghiêm trước sau vẫn khẳng định: “Tại phiên xử phúc thẩm, tòa tuyên y án sơ thẩm. Sau 45 ngày gia đình mới nhận được bản án. Đọc xong, cả nhà sững sờ vì nó khác xa so với phần tuyên án tại tòa!”. Bà Nghiêm bức xúc: “Bỏ mấy chỉ vàng mua đất, đóng thuế đầy đủ được UBND huyện Châu Thành duyệt, gia đình tôi cất nhà ở ổn định suốt gần 20 năm qua. Chẳng biết tòa xét xử kiểu gì mà lại buộc tháo dỡ nhà và bắt tôi è lưng đóng 15 triệu đồng án phí? Gia đình tôi mua đất đàng hoàng, không hề lấn chiếm, cùng không làm sai điều gì, sao tòa lại bắt tôi lìa xa vĩnh viễn mái ấm đã gắn liền với cuộc đời tôi như máu thịt?...”.
Ngày 8-6-2009, Cơ quan thi hành án (THA) dân sự huyện Châu Thành ra QĐ cưỡng chế, buộc bà Nghiêm phải di dời nhà để giao trả 143,3m2 đất cho ông Hùng vào lúc 9 giờ ngày 30-6-2009. Không chỉ gia đình bà Nghiêm mà hàng chục người dân xung quanh lên tiếng phản ứng mạnh mẽ. Cả ông Văn Công Thành, bà Văn Thị Loan và Văn Thị Phụng là anh chị em ruột của Văn Công Hùng cũng đứng về phía bị đơn! Trước diễn biến quá bất ngờ này, theo đề nghị của chính quyền địa phương, Trưởng THA huyện Châu Thành có văn bản tạm dừng việc cưỡng chế THA để tổ chức thuyết phục hơn 40 người xung quanh...
Đang chờ TAND tối cao, Viện KSND tối cao xem xét lại bản án thì gia đình bà Nghiêm lại nhận được thông tin sẽ bị cưỡng chế THA. Lần này số người phản ứng và ký vào đơn kiến nghị tăng gấp đôi, bao gồm ông Văn Công Thành, bà Văn Thị Loan và Văn Thị Phụng. Nhiều vấn đề được đặt ra trong đơn kiến nghị mới nhất. Cụ thể: Người dân địa phương ai cũng biết ông Văn Đại Mai bán đất cho gia đình bà Nghiêm. Người nhận tiền bán đất chính là ông Văn Công Hùng (anh em ông Hùng biết rõ). Sau gần 20 năm, cả hai người ký giấy sang nhượng đất đã qua đời. Lẽ ra, ông Hùng phải tự giác tách bộ giao đất cho bà Nghiêm mới tròn sự hiếu nghĩa và đúng với đạo lý làm người. Hành vi đòi đất vừa không đúng, vừa trái đạo đức nhưng lại được cả hai phiên tòa “ủng hộ”. Trong khi nhiều vấn đề, nhất là việc ông Hùng được cấp giấy chủ quyền, trách nhiệm của UBND huyện Châu Thành, khiếu nại của ông Mai... chưa được làm rõ thì tòa lại tuyên buộc bà Nghiêm tháo dỡ nhà. Chưa hết, án phúc thẩm tuyên công khai tại tòa có một phần nội dung trái ngược với bản án được ban hành...
Vụ tranh chấp ngay từ đầu UBND huyện Châu Thành thụ lý, ban hành QĐ giải quyết, thế nhưng sau đó lại đẩy sang tòa để cụ già 65 tuổi phải gánh chịu hậu quả một cách oan ức. Không chỉ gia đình bà Nghiêm, cả 80 người cùng ký vào đơn lần hai kiến nghị TAND tối cao, Viện KSND tối cao xem xét toàn diện vụ án để kháng nghị, xét xử lại một cách công tâm, đồng thời chỉ đạo tạm ngưng THA...